8. THIỀN SƯ THIỀN LÃO
(1)
Thiền Lão đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt. Xem chú thích (2) truyện
Lý Thái Tông. Nhưng có lẽ vì tôn trọng Nguyệt, nên chỉ xưng Thiền Lão,
rồi sau thành quen. Nhưng cũng có thể tránh húy Nguyệt của Thiện Đạo
quốc mẫu.
(2)
Núi Thiên Phúc này là một ngọn của núi Tiên Du, bởi vì truyện của Đạo
Huệ ở tờ 23b5 nói Huệ ở “chùa Quang Minh, núi Thiên Phúc, Tiên Du”,
nhưng truyện của Cứu Chỉ ở tờ 16b7 nói Chỉ “vào ở chùa Quang Minh núi
Tiên Du”. Thì núi Thiên Phúc là núi Tiên Du, tức núi Lạn Kha hay núi
Phật Tích ở xã Phật Tích huyện Tiên Du, tỉnh Hà Bắc hiện nay. Có lẽ, cái
tên Thiên Phúc bắt đầu xuất hiện lúc Lý Thái Tông xây viện Thiên Phúc ở
núi Tiên Du, mà Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 29b7 ghi lại vào năm
1041.
(3)
Từ Sơn đây chắc là Tư sơn khắc sai vì tự dạng giống nhau. Hiện tượng
này xảy ra nhiều lần trong bản in này. Ngoài ra, cứ truyện của Thiền Lão
thì Lão không ở nơi nào khác “chùa Trùng minh núi Thiên Phúc, Tiên Du”.
(4) Tham chiếu câu trả lời của Toàn Phó trong Truyền đăng lục. Có người hỏi Phó: “Hòa thượng tuổi nhiều ít?”
Phó trả lời:
“Thỉ kiến khứ niên cửu nguyệt cửu
Như kim hựu kiến thu điệp hoàng”
(Mới thấy năm qua chín tháng chín
Mà nay lại gặp lá thu vàng).
Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297b 20 - 21
(5)
Thúy trúc hoàng hoa. Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu
xa, nó nằm ngay trước mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của thiền sư Đại Châu
Huệ Hải: “Trúc biếc xanh xanh, đều là pháp thân, hoa vàng dờn dợn,
chẳng gì là chẳng phải Bát nhã”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247 c15.
(6)
Cứ vào đây thì hình như Thiền Lão phải viên tịch dưới thời Lý Thái
Tông. Nhưng truyện của Quảng Trí ở tờ 18a9-10 nói: “Năm đầu Chương Thánh
Gia khánh (1059) Sư bỏ đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên Du”, thì
rõ ràng Lão không thể viên tịch dưới triều Lý Thái Tông được, bởi vì
Chương Thánh Gia Khánh là niên hiệu của Lý Thánh Tông. Lý Thái Tông mất
năm 1054.
9. THIỀN SƯ VIÊN CHIẾU
(1)
Tức huyện Thanh Trì. Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 nói:
“Huyện Thanh Trì, xưa gọi là Thanh Đàm”. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà
Nội, nói: “Huyện Thanh Trì xưa là châu Long Đàm thuộc phủ Giao Châu, Lê
Quang Thuận đổi lại cho lệ thuộc vào phủ thống hạt. Đời Trung Hưng
tránh tên húy mới đổi là Thanh Trì”. Phương đình Dư địa chí 5 nói:
“Huyện Thanh Trì xưa là Long Đàm nhà Minh đổi làm Thanh Đàm thuộc châu
Phúc Yên, Lê Trung Hưng đổi làm Thanh Trì, lại đổi chữ Thanh ba chấm
thủy thành chữ Thanh không có ba chấm thủy, lĩnh mười hai tổng, 100 xã
thôn sở”. Hoàng minh thực lục ghi: “Ngày mồng một Quý Tỵ tháng sáu năm
Vĩnh Lạc thứ năm (1407) đổi huyện Long Đàm xưa ra làm Thanh Đàm”. Lịch
triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 viết: “Huyện Thanh Trì xưa gọi là
Thanh Đàm, đời Lê Trung Hưng vì tránh húy của Thế Tôn (là Đàm) cải làm
Thanh Trì”. Nay là huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông.
(2)
Phúc đường vì bao gồm Long Đàm, tức phải gồm huyện Thanh Trì ngày nay
và một số huyện khác, mà trong đó rất có thể nhất là huyện Thượng Phúc
ngày nay. Cái tên Phúc đường cho đến thời Trần vẫn còn dùng. Thầy của
Tuệ Trung Thượng Sỹ là Tiêu Diêu, quê quán ở Phúc Đường. Thượng sĩ ngữ
lục tờ 31b7-32a3 còn chép một bài thơ của Tuệ Trung tả cảnh vật Phúc
đường, nhan đề Phúc đường cảnh vật:
Phúc đường cảnh trí đã là đây
Nhờ ngọn gió thiền mát mẻ thay
Lơ thơ dậu dưới măng gầy mọc
Vắng vẻ sân sâu tùng phủ đầy
Thời chưa gặp thái, ra hiền thánh
Núi thẳm thú lành ẩn khá vui
Hôm sớm trời già khai Phật nhật
Mận đào bỏ ngỏ ánh xuân say
(3)
Tức là mẹ của Lý Thánh Tông. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 viết: “Long
Thụy Thái Bình năm thứ nhất (1054) tôn mẹ Mai Thị làm Linh Cảm thái
hậu”. Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh xuất
bản, 1966, tr 422 và 432) vì không nhận ra điều vừa dẫn tưởng lầm Linh
Cảm thái hậu là Linh Nhân thái hậu, nên đã hai lần viết “Sư Viên Chiếu
cháu Thái hậu Linh Nhân” hay “Sư Viên Chiếu là con anh thái hậu Ỷ Lan”.
Thực ra, Đại Việt sử lược là cuốn sử duy nhất nói Thái hậu Linh Cảm là
mẹ của Lý Thánh Tông. Các cuốn sử khác như Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ
39b1 và Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 3 tờ 21a1 thì
ghi: “Tôn mẹ Mai Thị làm Kim Thiên hoàng thái hậu”. Đại Việt sử lược là
một cuốn sử đời Trần ghi là Thái hậu Linh Cảm, thì không biết Đại Việt
sử ký toàn thư đã lấy cái tên Kim Thiên hoàng thái hậu từ đâu?
(4)
Truyện của Nguyện Học ở tờ 35b7 có nói Học “nhỏ theo học với Viên Trí
chùa Mật Nghiêm”. Nhưng Viên Trí chùa Mật Nghiêm này tất không phải là
vị trưởng lão chùa Mật Nghiêm ở đây, bởi vì Nguyện Học mất năm 1175 thì
dù Học có sống tới 95 tuổi đi nữa, Viên Trí vào năm Học sinh, tức năm
1080, có già tới 80 tuổi đi nữa, Viên Trí bấy giờ mới là người cùng thế
hệ với Viên Chiếu mà thôi. Chiếu sinh năm 999 và mất năm 1090. Do thế,
vị trưởng lão chùa Mật Nghiêm ở đây rất có thể là thầy của Viên Trí.
(5)
Tức ba pháp tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự
giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề
(samàpatti) và thiền na (dhyàna). Samatha nguyên nghĩa nó là dừng nghỉ,
nghĩa là, làm cho tâm hồn tán loạn, dừng nghỉ lại một chỗ. Do sự thanh
trừng các ý niệm sai lầm và hiểu được sự vọng động của các thức, “trí
tuệ thanh tịnh phát sinh, thân tâm khách trần theo đấy mà mất hẳn, từ đó
bên trong cảm thấy tĩnh tịch nhẹ nhàng. Do sự tịch tĩnh đó nên tâm của
các Như Lai ở trong mười phương thế giới được hiện rõ như bóng ở trong
gương. Phương tiện đó gọi là sa ma tha”. Samàpatti nguyên nghĩa là để
vào một nơi, tập trung vào một chỗ, nghĩa là “đem cái tâm giác ngộ thanh
tịnh, hiểu biết rằng tâm tánh và căn trần đều do huyễn hóa mà dấy lên
các huyễn để trừ huyễn, biến ra các huyễn để phơi bày mọi thứ huyễn, nên
bên trong phát ra lòng đại bi nhẹ nhàng.... Phương tiện đó gọi là tam
ma bát đề. Dhyàna nguyên nghĩa là suy nghĩ, chiêm nghiệm nghĩa là, “biết
rõ rằng thân tâm đều trở ngại vì không biết sự giác ngộ sáng suốt là
không dựa vào các thứ ngăn che, vĩnh viễn vượt qua được thế giới có ngăn
che và không ngăn che..., phiền não và niết bàn cũng không còn vướng
mắc nhau, thì niềm nhẹ nhàng tịch diệt phát ra bên trong... phương tiện
đó gọi là thiền na”. Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa
kinh ĐKT 842 tờ 917c 14 tờ 918a4.
(6)
An nam chí nguyên 3 tờ 209 dẫn đoạn này: “Thiền sư Viên Chiếu là vị sư
huyện Thanh Đàm thông minh hiếu học, nghiên cứu thiền tông. Một hôm nằm
mộng thấy Bồ tát Văn Thù đem dao đến mổ bụng súc ruột dùng thuốc rịt
lại. Từ đó những gì đã học trong lòng trở thành rõ ràng như đã từng
biết. Về sau tôn phong của Sư nổi lớn”. Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu
quyển thượng tờ 16a4-5.
(7)
Ngôn ngữ tam muội này, tức là một tên khác của Phân biệt cư pháp cú tam
muội, một trong 108 thứ tam muội do Đại phẩm bát nhã dẫn ra, mà Đại trí
độ luận giải thích thế này: “Chứng được thứ tam muội đó thì có thể phân
biệt hết ngôn ngữ văn tự của tất cả các pháp, giảng thuyết cho chúng
sanh không vướng mắc trở ngại”. Xem Đại trí độ luận 17 tờ 400c 28-29
(8)
An nam chí lược 15 tờ 147 dẫn đoạn này, rồi bảo là từ Tham đồ hiển
quyết. Nó viết: “Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết,
đại khái nói rằng: ‘Một hôm đang ngồi trước nhà, bỗng có một vị sư đến
hỏi: Phật với Thánh, nghĩa thế nào?’
Chiếu đáp: Cúc trùng dương dưới dậu
Oanh thục khí đầu cành
Sách ấy phần lớn gồm những lời như vậy”.
Cứ
vào đâu nói “Sách ấy phần lớn gồm những thứ đó” của Lê Tắc, ta có thể
kết luận rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ trong truyện này đều rút ra từ
Tham đồ hiển quyết, nếu không là toàn bộ Tham đồ hiển quyết, mà các tác
giả Thiền uyển tập anh đã chép vào đây. Chúng tôi nghĩ rằng, nó rất có
thể là toàn bộ, bởi vì so với phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, số
thoại ngữ dẫn ra đây lên tới đến 108 câu hỏi đáp, trong khi của Thượng
sĩ ngữ lục chỉ tới 96 câu mà thôi, thì cũng đủ thấy nó đã đầy đủ tới mức
nào. Dầu một phần hay toàn bộ, ta có thể nói rằng Tham đồ hiển quyết là
tác phẩm văn học và tư tưởng xưa nhất của đời Lý được bảo tồn dưới một
dạng hình trọn vẹn.
(9)
Bồ Đề Đạt Mạ chín năm bích quán trên Thiếu thất. Phật Thích Ca 20 ngày
trầm mặc tại Ma Kiệt Đà. Ở đây muốn nói đến mật chỉ của Phật và Tổ. Lâm
Khê Kỉnh Thoát hòa thượng, Nhập đạo thiền thâm tụng:
Thiếu thất dữ Ma kiệt
Đệ đại xưng dương hử
Ngã kim vấn nhữ đồ
Thùy tác tương lai chủ
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454 a21.
(10)
Càn tượng và Khôn duy là những từ lấy ở Chu dịch, thiên Hệ từ thượng:
“Trời cao đất thấp, định ra càn và khôn... Ở trên trời thành nên tượng, ở
dưới đất tạo nên hình, biến hóa mà hiện ra”. Xem Chu dịch 7 tờ 1a3-7.
Những từ đấy dùng để chỉ trời, đất. Từ Nhạc Hoài là để chỉ núi sông.
Nhạc tức là Ngũ nhạc, tức năm ngọn núi lớn của Trung Quốc, đây tượng
trưng cho tất cả núi. Hoài tức sông Hoài, đây chỉ cho tất cả sông.
(11) Ý và từ rút từ hai câu của Đường Thái Tông tặng cho Tiêu Vũ:
Tật phong tri kỉnh thảo
Bản đảng thức thành thần
Xem Tân đường thơ 101 tờ 2a 9-10. Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi dịch:
Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi lành
(12)
Có người hỏi thiền sư Minh Chiếu: “Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?”
Chiếu đáp: “Nhọc người xa đến”. Hỏi: “Thế chẳng phải là một tạng tròn
sáng sao?”. Chiếu đáp: “Xin uống một chén trà”. Xem Truyền đăng lục 20
tờ 367c 13-15.
(13)
Có người hỏi thiền sư Ấn Xương: “Khi không chịu bàn bạc thì sao?” Xương
đáp: “Thì đến mà làm gì?” Hỏi: “Đến cũng không bàn bạc”. Đáp: “Đến
suông cũng ích gì?”. (Không lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363b
15-17.
(14)
Có người hỏi thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Pháp thân và Bát nhã là gì?”
Hải đáp: “Xanh xanh trúc biếc đều là pháp thân, dờn dợn hoa vàng chẳng
cái nào là chẳng Bát nhã”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
(15)
Đông a, nơi ông già hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là
bầy tôi nước Hàn. Khi Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung Quốc, Lương muốn
báo thù cho nước, nhưng không có cách nào thành công. Một hôm gặp một
ông già trên cầu. Ông đánh rơi chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm.
Lương dầu tức giận, vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho
Lương và dặn Lương sau 13 năm đến gặp ông ở Cốc Thành. Bùi Ân chua Cốc
Thành ở huyện Đông A. Xem Sử ký 55 tờ 2b2-4.
(16)
Dã Hiên, tên gọi đủ là Dã Hiên Tuân thuộc phái thiền Lâm tế. Thiền tông
tụng cổ liên châu thông tập 21 tờ 128c5-6 (256a5-6) có chép một bài thơ
của vị thiền sư này:
Trụy miên nhất phiến đá nhất khai
Hốt nhiên cuống quyết hống như lôi
Quân khan mã đái hồng anh phất
Chỉ thị khứ niên Tăng tú tài
Niên
đại của Dã Hiên hiện chưa xác định rõ. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn
Dã Hiên phải sống trước thời Viên Chiếu, tức trước năm 999 và sau thời
Lâm Tế Nghĩa Huyền, tức sau năm 867. Tác phẩm của vị thiền sư này tương
đối phổ biến ở nước ta. Trong Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tông
viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục tờ 40a4-5, Trần Nhân Tông nói rằng trong
khi để tang mẹ mình thì có yêu cầu Tuệ Trung “giảng hai lục Tuyết Đậu và
Dã Hiên”. Tuyết Đậu lục là của Tuyết Đậu Trùng Hiển (980-1052), còn Dã
hiên lục thì chắc chắn là của Dã Hiên Tuân (890-970?).
(17)
Kim Cốc, nơi Thạch Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực
kỳ tráng lệ xa hoa và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu tự tử, hiện ở
phía tây bắc huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.
(18)
Long nữ hiến châu. Điển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội
Linh Sơn và thành Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 12, phẩm
Đề bà đạt đa tờ 3a-b. Xem thêm hòa thượng Đan Hà, Ngoạn châu ngâm:
Long nữ Linh Sơn thân hiến Phật Bần nhi y hạ kỷ ta đà
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 463b25.
Đàn na, phiên âm chữ Phạn dàna, nghĩa là bố thí.
(19)
Lao nhi vô công. Chữ lấy từ thiên Hiếu hạnh lãm của Lã thị xuân thu:
“Cầu chi kỳ bản, kinh tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi vô công”.
(Tìm cái gốc nó thì qua tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô
ích). Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 3a8, Thành ngữ Lao nhi vô công cũng
thường dùng trong Phật giáo để chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh
độ.
(20) Có người hỏi thiền sư Âu Chương: “Thế nào là:
Một vầng trăng treo
Muôn nước đều thấy”.
Chương đáp: “Khó nói với kẻ nhắm mắt”. Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.
(21)
Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim cang: “Nên biết rằng Ta nói
pháp cũng như thí dụ về chiếc thuyền”. Xem Kim cang kinh tờ 749b10. Vĩnh
Gia Huyền Giác, Quán tâm thập môn:
Nhiên độ hải ưng thượng thuyền
Phi thuyền hà năng độ?
(Nhưng qua biển phải lên thuyền,
Không thuyền sao qua được?)
Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19
(22) Tùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, Tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ:
Tùy tâm vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỷ phục vô ưu
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24- 25
(23)
Điển Kinh Kha đi sứ Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và
khách khứa tiễn Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh đàn, Kinh Kha tiến
mà ca:
“Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi hề không trở về”
Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11.
(24)
Thí dụ vàng quặng của kinh Viên giác: “Thiện nam tử, như luyện quặng
vàng, vàng không phải do luyện mà có. Khi đã thành vàng rồi thì không
trở lại làm quặng nữa, trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không
hoại mất”. Xem Đại Phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ
915c17-18.
(25)
Điển của Tề Văn 4 trong Chiến quốc sách và của thiên Thuyết lâm trong
Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn xây thành Tiết. Có nhiều người
can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, hễ ai xin vô để can ngăn thì đừng cho vô.
Có người nước Tề xin vô để nói ba tiếng thôi, rồi chết cũng đành. Quách
Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba tiếng “Biển cá lớn”, rồi vọt
chạy. Quách Quân ngạc nhiên cho gọi lại. Người khách mới giải thích ba
chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi xây thành Tiết. Xem Chiến quốc
sách 8 tờ 1b2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a
(26)
Điển của Tề Văn 2 trong Chiến quốc sách. Nước Sở có hai người thi vẽ
rắn để uống rượu. Một người vẽ xong trước lại vẽ thêm chân. Người vẽ
xong sau không chịu, cho rằng rắng không có chân, rồi giựt ly rượu mà
uống. Xem Chiến quốc sách 9 tờ 2b-3a.
(27) Thiền sư Thanh Lâm:
Tử xà đương đại lộ
Khuyến tử mạc đương đầu.
(Rắn chết giữa đường lớn
Xin ông chớ đương đầu)
Xem Vạn tùng lão nhân bình xướng Thiên Đồng Giác hòa thượng lụng cổ tùng dung am lục 4 tắc 5 tờ 264a26-c6.
(28)
Hứa Chân Quân, tên tục là Hứa Tốn làm quan lịnh Tinh dương đời Bắc
Ngụy. Theo truyền thuyết, ông sau theo đạo thần tiên và bay lên trời,
đến đời nhà Triệu Tống thì được phong là Thần công diệu tế chân quân.
Cái tên Hứa Chân Quân do thế mà có. Xem Ngụy thư 46 tờ 2b8 và Thái Bình
quảng ký, Thần tiên 14.
(29)
Hải tạng, chỉ đạo Phật trong kinh điển hay tất cả kinh điển đạo Phật.
Tào Khê, chỉ cho Thiền phái. Phật Quả tham bái Chân Giác Thắng. Thắng
chích cánh tay chảy máu, rồi nói: “Đây là một giọt Tào Khê”. Xem Tục
truyền đăng lục 25 tờ 634a5.
(30)
Bất dị kim thời, đặc ngữ của thiền chỉ cho việc sau khi giác ngộ không
khác gì lúc chưa giác ngộ. hòa thượng Bảo Chí, Thập nhị thời tụng:
Giả sử tâm thông vô lượng thì
Lịch kiếp hà tằng dị kim nhật.
(Giả sử lòng thông từ vô thỉ
Nhiều kiếp sao tằng khác hôm nay)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450b16-17.
(31)
Thiền sư Minh Giác thượng đường, có vị sư hỏi: “Sờ sờ ở khoảng mắt
lòng, mà tướng không thể thấy, rành rành trong vòng sắc trần mà lý không
thể phân. Đã ở trong khoảng mắt lòng sao lại không thấy tướng của nó?
(Chiêu chiêu ư tâm mục chi gian, nhi tướng bất khả đỗ. Hoảng hoảng tại
sắc trần chi nội nhi lý bất khả phân. Ký ư tâm mục chi gian, vi thập ma
bất đổ kỳ tướng?).
Xem Minh giác ngữ lục tờ 760a4.
(32) Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm, “hồi cơ”:
Niết bàn thành lý thượng do nguy
Mạch lộ tương phùng một định kỳ
Quyền quải cấu y vân thị Phật
Khước trang trân ngự phục danh thùy
Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ
Thạch nữ thiên minh tải mạo qui
Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt
Tái tam lao lộc nãi ưng tri.
(Niết bàn thành ấy vẫn còn nguy
Đường phố gặp nhau chẳng hẹn kỳ
Giả mặc đồ dơ tên gọi Phật
Nếu mang áo ngự gọi tên gì
Nửa đêm người gỗ mang giày mất
Tinh sương gái đá đội mũ về
Đầm biếc ngàn xưa trăng trời giọi
Ba lần mò mẫm mới tỏ hay).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c5-8.
(33) Long Đàm Sùng Tín hỏi Đạo Ngô: “Làm sao để quyết chắc?”
Ngô nói:
“Nhiệm tính tiêu điêu
Tùy duyên phóng khoáng”
(Tiêu điêu mặc tính
Phóng khoáng tùy duyên)
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 313b 21-22.
(34)
Điển rút từ thiên Ngũ đố trong Hàn phi tử. Nước Tống có người làm nông
gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt
ăn. Hôm sau anh ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ
khác. Thỏ khác đã không được, mà còn bị cả nước Tống cười. Xem Hàn phi
tử 19 tờ 1a-b.
(35)
Nang trung bảo, từ rút ra từ phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký của kinh Pháp
hoa, nhằm chỉ cho Phật tánh sẵn có trong mọi người. Thơ của thiền sư Đỗ
Lăng Úc:
Ngã hữu thần châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao cơ tỏa
Kim triêu trần Tịnh Quang sanh
Chiếu kiến sơn hà vạn đóa.
(Ta có ngọc thần một quả
Lâu bị bụi trần phủ xóa
Sáng nay bụi hết sáng ra
Soi thấu sơn hà muôn đóa).
(36)
Có người hỏi Âu Chương: “Bỗng nhiên không mây, thì trăng trung thu ra
sao?”. Chương đáp: “Tốt nhất là không mây”. Xem Truyền đăng lục 20 tờ
367b 22-23.
(37)
Điển lấy từ thiên Đạo chích của Trang Tử. Vỹ Sinh có hẹn với một người
con gái dưới cầu. Người con gái ấy không đến. Nước sông dâng lên. Vỹ
Sinh ôm cột cầu mà chết. Xem Trang Tử 9 tờ 21a2-3.
(38) Một pháp hay nhất pháp, nếu muốn cho đủ thì phải nói:
“Thật tế lý địa
Bất thọ nhất trần
Phật sự môn trung
Bất xả nhất pháp”
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 269b 17-18.
(39)
Tổ Long, một biệt hiệu của Tần Thỉ Hoàng, hâm mộ thuật trường sinh, sai
đạo sĩ Từ Phúc, cũng có tên là Từ Thị, dẫn một ngàn đồng nhi ra biển
đông tìm Bồng lai vào năm 217 trước tây lịch. Bồng lai đâu không thấy,
mà bảy năm sau, Tần Thỉ Hoàng chết. Và họ chẳng bao giờ trở về. Xem Sử
ký 6 tờ 14a11 và 21a8.
(40) Có người xin Diên Chiểu “Chặt đứt cội gốc”.
Chiểu đáp:
“Ít gặp khách sâu mũi
Nhiều trạm người khắc thuyền”
Hỏi: “Chính vào lúc đó thì sao?”.
Chiểu đáp:
Rùa mù gặp gỗ đầu yên ổn
Cây héo sinh hoa vật ngoại xuân
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 303a10-13.
(41)
Có người hỏi thiền sư Huệ Thanh: “Xưa Phật chưa ra đời thì như sao?”.
Thanh đáp: “Ngàn năm gốc cà ấy” (Thiên niên già tử căn). Xem Truyền đăng
lục 12 tờ 297c 18-19.
(42) Thiền sư Văn Ích, Văn Ích tụng:
Ma ni bất tùy sắc
Sắc lý vật ma ni
Ma ni dự chúng sắc
Bất hiệp bất phân ly.
(Ma ni không theo sắc
Trong sắc chẳng ma ni
Ma ni cùng các sắc
Không hiệp không phân ly).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454b19.
(43)
Hồ Tăng Nhãn. Bồ Đề Đạt Mạ thường được môn đệ thiền gọi là Bích nhãn hồ
tăng, “thầy tu Hồ mắt xanh”. Xem Bích nham lục 5 tắc 47 tờ 183b18-19.
(44)
Điển rút từ thiên Hòa thị của Hàn phi tử. Biện Hòa người nước Sở được
ngọc phác, dâng Lệ Vương, bị chặt hết một chân, vì Lệ Vương cho là dối,
sau lại dâng vua kế vị là Vũ Vương, lại bị chặt một chân nữa cũng cùng
lý do. Xem Hàn phi tử 4 tờ 10b5-13.
(45)
Xúc mục bồ đề, nhìn bất cứ đâu cũng thấy là giác ngộ cả. Thạch Sương
Khánh Chư tham kiến Đạo Ngô, hỏi: “Thế nào là xúc mục bồ đề?”. Đạo Ngô
gọi sa di. Sa di đáp: “Dạ”. Đạo Ngô nói: “Thêm nước vào tịnh bình”. Xem
Truyền đăng lục 15 tờ 320c11 và Minh giáo ngữ lục tờ 675a18.
(46) Dẫn Vĩnh Gia Huyền Giác, Chứng đạo ca:
Phần cốt tủy thân vị túc thù
Nhất cú liêu nhiên siêu bách ức.
(Nát thịt tan xương chưa đủ đền
Một câu rõn được vượt muôn ngàn)
Xem Vĩnh gia chứng đạo ca ĐTK 2014 tờ 316c21.
(47)
Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương
tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy nhất là sự thật,
hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền
biến. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 8a.
(48) Nguyên văn:
Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan.
Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý hai câu này, chúng ta phải đọc:
Nhất nhân hướng ngung khấp
Mãn tòa ẩm bất hoan
và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu:
“Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ”.
Lý
Thiện chú thích nó thế này: “Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ
giống như một nhà. Nay cả nhà uống rượu, một người riêng bỗng nhiên
ngoảnh mặt khóc thì người trong nhà đều không vui”. (Thuyết uyển viết:
Cổ nhân ư thiên hạ nhất chí đường thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu
nhất nhân độc sách thiên hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai
bất lạc). Xem Văn tuyền lý thiện chú 18 tờ 17a 2-4. Xem thêm Thuyết uyển
5 tờ 2a 10-17. Chúng tôi dựa vào xuất xứ đây, để đề nghị cách đọc và
dịch trên.
(49)
Việc lớn hay đại sự, tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của
kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con đường để đi vào
tri kiến giác ngộ. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 7a21.
Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Đề Đạt Mạ.
(50)
Dẫn chữ từ thiên Học nhi của Luận ngữ: “Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ
nhân”. (Kẻ khéo nói, đẹp mặt, thường ít có lòng nhân). Xem Luận ngữ 1 tờ
1b8 và 17 tờ 6b7.
(51)
Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ “Toản qui” xuất xứ nó từ phần
Quy sách trong Sử ký 128 tờ 4a7-8. Theo đó thì “Bậc vương giả ra quân
làm tướng tất phải toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt
xấu”. Lời chua của Dương Kinh trong thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ
10a3 viết “Toản qui tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa”. Toản qui
do thế có nghĩa là bói rùa. Còn Đả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích
cửa quan làm việc Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di
chủ trương không cho họ dự vào hàng thanh phẩm. Xem Bắc sử 43 tờ
5a10-13. Đả ngõa đây như vậy có nghĩa ăn cướp.
(52) Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính thượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân.
(Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ đó như vết trên gương
Vết bụi chùi sạch gương mới sáng
Tâm pháp đều quên tính tức chân)
Xem Vĩnh gia chứng đạo ca ĐTK 2014 tờ 396b22. Xem thêm chú giải của Ngạn Kỳ, Chứng đạo ca chú TcT111 tờ 193b-194a.
(53)
Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu hạnh lãm của Lã thị xuân thu nói: “Bá Nha
đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh đờn, và ý nghĩ đến
Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: ‘Đánh đờn hay thay ư, cao ngất như núi Thái
ư!’. Một chặp chi, Nha lại nghĩ đến giòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói:
‘Đánh đờn hay thay ư, ồ ạt như giòng nước chảy ư!’. Chung Tử Kỳ chết, Bá
Nha phá đờn, cắt dây. Suốt đời không còn đánh đờn lại nữa, cho rằng đời
không còn ai đủ khả năng nghe cho mình đánh đờn nữa”. Xem Lã thị xuân
thu 14 tờ 4a7-14.
(53)
Vũ trích nham hoa, thiền sư Minh Giác, có người hỏi bản nguyên chư Phật
ra sao, đáp: “Màu lạnh ngàn núi”. Lại hỏi: “Nguyên ủy hướng thượng có
có không?”. Sư đáp: “Mưa rơi hoa non” (Vũ trích nham hoa). Xem Tục
Truyền đăng lục 2 tờ 476a8-9.
(54)
Bốn bệnh: tức bệnh làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh) bệnh
đình chỉ (chỉ bệnh) và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà người ta gặp phải
trên con đường đi tìm sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên giác, định nghĩa
bốn bệnh như sau: Bệnh làm ra xảy ra khi người ta nghĩ rằng “tôi làm ra
các hạnh để cầu Viên giác”. Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng
“tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với Niết
bàn sinh tử không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tùy
thuận pháp tính để cầu Viên giác”. Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng “tự
tâm tôi, tôi dứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch diệt để
cầu Viên giác”. Bệnh hủy diệt có được khi người ta nói rằng “tôi diệt
hết tất cả phiền não thân tâm hoàn toàn không, không có, huống là cảnh
giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác”.
Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 920b.
(55)
Chữ lấy từ kinh Pháp hoa: “Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp
thật tướng” (chỉ người giác ngộ với người giác ngộ mới có thể rõ hết
thật tướng thật của tất cả mọi vật). Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ
5c.
(56)
Nội thiên trong Bảo phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: “Tê thông thiên
sở dĩ nó có thể chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên ăn mọi thứ có
độc và những thứ cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ có cây mềm
dẻo bao giờ”. (Thông thiên tê sở dĩ năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên
thực bách thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng
thực nhu, hào chi thảo mộc). Xem Bảo phác tử 7 tờ 23a4
(57) Ý rút từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
(Bỏ lòng vọng , lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo)
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 406c5.
(58)
Ngôn ngữ đạo đoạn. Chữ của Luận Đại trí độ: “Thế nào là chân lý tuyệt
đối? Đáp: Tất cả ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt” (nhất thiết ngôn
ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt). Xen Đại trí độ luận 57 tờ 61b7. Xem thêm
Tín tâm minh:
Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Khứ lai phí kim
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 457b23.
(59)
Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, Có người hỏi: “Thiền nào là một đường
thẳng?”. “Nhắm thẳng vào chỗ cong”. Xem Truyền đăng lục 13 tờ 303c12.
Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác: “Trực diệt căn nguyên của
Phật sở ấn” Xem Truyền đăng lục 30 tờ 460a1.
(60)
Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung Quốc sư: “Cơ tức nghiết phạn, hàn tức
trước y. (Đói thì ăn cơm rét thì mặc áo). Xen Truyền đăng lục 28 tờ
439a22-23.
(61)
Khắc chu khách. Điển lấy từ thiên Thận đại lãm của Lã thị xuân thu.
Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi
trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Xem Lã thị xuân thu 15 tờ 19a9-13.
Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó. Xem Bách dụ kinh ĐKT 209 tờ
545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:
Bảo kiếm bất thất
Hư chu bất khắc
Bất thất bất khắc
Bất tử vi đắc
Xem Truyền đăng lục 19 tờ 545b15.
(62)
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn ghi: “Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển
Long Đàm Viên Chiếu thiền sư soạn”. Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ
ghi: “Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển”, mà không ghi tác giả. Đây
chắc là một bài văn phát triển 12 nguyện của Phật Dược Sư, trong kinh
Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh này.
(63)
Đây chắc phải là Sứ bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và
Phó hiệu úy Đỗ Anh Bối làm chánh và phó sứ dẫn đầu, bởi vì Triết Tôn lên
ngôi năm 1086 và đến năm 1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi
một bộ phái khác sang kết hiếu. Do thế nếu phái bộ ngoại giao năm 1090
có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn sang Tống để cho các nhà sư
Tống ngợi ca, thì ở nhà Viên Chiếu đã mất, nên Chiếu không thể nào nhận
lời khen của Lý Nhân Tông được. Xem Tục tư trị thông giám trường biên
399 tờ 5b4, Tống sử 17 tờ 4b6 và 9b1, Đại Việt sử lược 2 tờ 18a3-9, và
Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 11b6-7.
(64)
Pháp sư cao tòa ở đây có thể là thiền sư Đại Bản. Lâm Gian lục quyển hạ
tờ 55a5-b2 nói Đại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc dưới thời Tống
Thần Tông và rất có thể sống đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.
(65) Về tuổi hạ, xem chú thích (7) truyện Chân Không.
(66)
An nam chí lược 15 tờ 157: “Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ
hiển quyết đại lược nói: Một hôm khi đang ngồi trước nhà, bỗng có một
vị tăng hỏi: ‘Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào?”. Đáp: ‘Dưới dậu
thu cúc rậm. Đầu cành xuân yến ca’. Sách ấy phần lớn gồm những thứ như
thế đó”. Cứ vào dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ
duyên thoại ngữ dẫn trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển
quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ của
Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là
Tham đồ hiển quyết, thì nó là một tác phẩm đời Lý được giữ lại cho tới
ngày nay, một tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết
học Phật giáo nước ta.
(67) Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:
1 .Dược sư thập nhị nguyện văn
2. Tán viên giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết.
Nhưng
cứ một câu viết trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở
dưới, theo đó, “Viên Chiếu thường có ca thi gởi tặng Bảo Tính, ngợi ca
cái chí hướng cao thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên
đây không phiền chép ra” (Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao
chí, cụ tại tập trung, tư bất phiền lục), ta bắt buộc phải nghĩ rằng
Chiếu còn có một tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên
có lẽ là Viên Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập.
10. THIỀN SƯ CỨU CHỈ
(1)
Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 33a2 - 5 viết: “Núi Long Đội ở tại
xã Đội Sơn huyện Duy Tiên, bổ sát xuống dòng sông. Lý Nhân Tông dựng
bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh, văn bia chữ toàn dùng thuyết nhà Phật
hoang lạ chưa từng thấy. Cuối đời Trần, người Minh phá hủy tháp đó. Lê
Thái Tổ bình định rồi, lại sai dựng lại. Thánh Tông lên chơi có đề thơ :
Ngàn nhận non cao chỗ Hóa thành
Leo bao bực đá đến am thanh
Chuyện kỳ triều Lý bia trơ đó
Tội ác giặc Minh vết đã rành
Đường vắng chân người rêu phủ biếc
Xuân nhiều mưa núi cảnh phô xanh
Lên cao tầm mắt xa vô tận
Muôn dặm mênh mông cỏ giống cành”
Núi
Long Đội như vậy ở tại xã Đội Sơn phía đông nam huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam ngày nay. Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Đại Việt sử ký toàn thư B3
tờ 21a7 nói: “Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ ba (1122) mùa xuân tháng hai bảo
tháp Sùng thiện diên linh ở Đội sơn làm xong”. Cứu Chỉ mất trong khoảng
1059- 1065, cho nên chùa Diên linh ở đây đã có từ trước, rồi sau đó đến
năm 1122 mới xây thêm tháp.
(2)
Cái tên Yên Lãng được Thiền uyển tập anh kể tới cả thảy năm lần, kể lần
thứ nhất tức ở truyện Cứu Chỉ đây. Lần thứ hai ở trong truyện của Đạo
Hạnh ở tờ 53b3, nói cha của Đạo Hạnh “đến học ở làng Yên Lãng, rồi lấy
con gái họ Tăng, nhân làm nhà ở đó”. Lần thứ ba ở truyện Trí Thiền tờ
63b7 nói Thiền ở “am Phù môn núi Cao dã, Yên Lãng”. Lần thứ tư ở truyện Y
Sơn tờ 70b8, nói Y Sơn “về già dời tới trú trì chùa Nam mô làng Yên
Lãng”. Lần thứ năm ở truyện Hoằng Minh tờ 71b10 nói Minh người “làng Yên
Lãng, Vĩnh Hưng”. Trong năm lần này, làng Yên Lãng của Từ Đạo Hạnh chắc
chắn là tại Yên Lãng thuộc huyện Vĩnh Thuận của Bắc Thành Địa dư chí 1
tức làng Yên Lãng hay làng Láng ở gần phía tây thủ đô Hà Nội ngày nay.
Còn Yên Lãng có núi Cao dã của truyện Trí Thiền thì chắc phải nằm tại
huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Về những bàn cãi xem chú thích
tại những truyện liên hệ. Cuối cùng, Yên Lãng của truyện Cứu Chỉ đây
chắc phải đồng nhất với làng Yên Lãng tại Vĩnh Hưng bởi vì nó có núi
Long Đội hiện nằm tại huyện Duy Tiên mà Vĩnh Hưng thì ở tại huyện Đông
Yên, tỉnh Hưng Yên. Xem chú thích (1) truyện Hoằng Minh. Do thế cứ vào
vị trí núi Long Đội nói trên Yên Lãng đây phải nằm tại huyện Duy Tiên.
Địa phận nó thế nào ta hiện không thể xác định. Ta không hiểu tại sao
đời Lý lại có ba địa danh cùng mang tên Yên Lãng nằm ở ba nơi khác nhau
như vậy.
(3) Tức làng Phù đàm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Định Hương.
(4)
Đầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa. Dhùta
đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hành đầu đà, có
nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở
tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu này đại khái gồm 12 việc sau: Đấy là
mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại, thứ áo đó không quá ba cái, xin mà ăn,
chỉ ăn một bữa, chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi quạnh
vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, ở trong đám cỏ,
thường ngồi mà không nằm. Đấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải hoàn
thành. Xem Đại thừa nghĩa chương 15.
(5)
Nguyên văn: Lương Văn Nhiệm. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3 và Đại
Việt sử ký toàn thư B2 tờ 16a7 thì “Thiên Thành năm thứ nhất (1028) lấy
Lương Nhiệm Văn làm Thái sư”. Truyện Huệ Sinh tờ 58b4 cũng có Lương
Nhiệm Văn. Văn Nhiệm ở đây chắc chắn là một viết ngược của Nhiệm Văn.
Chúng tôi sửa lại và dịch theo .
(6) Nguyên văn:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất Quán Lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan thử huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng”
Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (515-577):
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiển linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hóa thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9.
11-12. HAI THIỀN SƯ
BẢO TÍNH VÀ MINH TÂM
(1)
An nam chí nguyên 5 tờ 211 viết: “Hai thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm là
sư huyện Đông Ngạn, đứng đầu trong tòng lâm, có lần dựng hội giảng kinh,
cùng vào hỏa quang tam muội. Xương cốt đều hóa thành thất bảo”.
(2)
Tức phẩm Dược Vương bồ tát bản sự của kinh Pháp Hoa, chép sự tích Bồ
tát Dược Vương tự đốt mình để phụng sự đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Đức. Xem Diệu pháp liên hoa kinh tờ 53a.
(3)
Hỏa quang tam muội, Phạn tejeprabhàsamàdhi, cũng gọi Hỏa quang định,
tức một loại thiền định khiến cho thân thể bốc lửa. Xem Bản hạnh tập
kinh 40 tờ. “Bấy giờ đức Như Lai cũng vào hỏa quang tam muội như thế,
thân mình bốc ra ngọn lửa lớn” (Như Lai dĩ thời diệc nhập như thị hỏa
quang tam muội, thân xuất đại hỏa).
(4)
Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 22a4-6 và Khâm định Việt sử thông giám
cương mục chính biên 2 tờ 38b6- 39a1 viết: “Thiên Thành năm thứ 7 (1034)
tháng tư cải nguyên làm Thông Thụy năm thứ nhất. Bấy giờ, có hai nhà sư
Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu thân mình tự thành bảy báu. Vua
xuống chiếu đem bảy báu đó giữ lại ở chùa Trường thánh để cúng dường đèn
nhang. Vua cho đó là điềm lành, nên cải nguyên là Thông Thụy”.
13. THIỀN SƯ QUẢNG TRÍ
(1)
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 13 tờ 34b4-5 viết:
“Núi Không Lộ ở tại huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, trên
núi có chùa Lạc lâm, xưa đó là chỗ hóa thân của thiền sư Không Lộ, nên
nó tên đây”. Nhưng Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, cải chính chú
thích vừa rồi của Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên như
sau: “Núi Không lộ, xét bia ký chùa Lạc Lâm ở tại núi Phụng Hoàng xã Sơn
Lộ, huyện An Sơn ngày nay thì chùa do người phương Bắc dựng vào thời
Lý, không thấy nói Không Lộ thoát hóa ở đấy, trong chùa cũng không có
thờ Không Lộ. An nam chí của Cao Hùng Trưng nói ở tại huyện Thạch Thất,
bởi Thạch Thất và Yên Sơn xưa là một huyện, mà tên núi lại nhân theo tên
xã, mà vì viết tên Sơn thành Không, nên sợ hoặc có tên như vậy”. Tuy
thế, điều chắc chắn là vào thời Lý và Trần, núi Không lộ đã có tên Không
lộ, như chính Thiền uyển tập anh ở đây đã ghi. Nó ngày nay tức núi
Phụng Hoàng tại xã Sơn Lộ, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
(2) Hàn Sơn và Thập Đắc là hai nhà thơ thiền tâm giao nổi tiếng đời Đường. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 27 tờ 433c-434a.
(3)
Truyện Chân Không tờ 66a9 cũng chép một bài thơ truy điệu Không vào năm
1100 và bảo là của “Công bộ thượng thư Đoàn Văn Khâm”. Hai bài thơ của
“Công bộ thượng thư Đoàn Văn Liễm” ở đây đã được Lê Quý Đôn chép luôn
với bài thơ truy điệu vừa nói dưới cái tên “Công bộ thượng thư Đoàn Văn
Khâm” trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a6-b6. Theo Đôn như vậy, công bộ
thượng thư Đoàn Văn Liễm cũng là công bộ thượng thư Đoàn Văn Khâm, và
chữ Liễm thực ra là một viết sai của chữ Khâm. Kết luận như thế, ta
không biết Đôn quả đã có một bản in Thiền uyển tập anh xưa hơn bản in
năm 1715 của ta ngày nay và bản in đó đã có Đoàn Văn Khâm thay vì Đoàn
Văn Liễm, như bản in 1715 đã có. Hay Đôn đã dựa theo sự suy luận về tự
dạng chữ Khâm và chữ Liễm rất giống nhau, để có một kết luận như vậy?
Tôi nghĩ rằng rất có thể Đôn có một bản in xưa hơn bản in năm 1715 hiện
nay của ta. Dẫu sao đi nữa, nếu Đoàn Văn Khâm và Đoàn Văn Liễm là một
người, thì ông này đã giữ chức Thượng thư bộ công gần cả đến 15 năm hay
hơn nữa, bởi vì Quảng Trí mất trong khoảng 1085- 1091 còn Chân Không mất
năm 1100.
(4)
Trừng tức Phật Đồ Trừng (232-248) danh tăng thần dị Tây Vức thời Tấn.
Xem tiểu sử trong Cao tăng truyện 9 tờ 383b-387a. Thập tức Cưu Ma La
Thập (?-409) dịch giả lỗi lạc Tây Vức đời Dao Tần. Xem tiểu sử Cao tăng
truyện 3 tờ 330a-333a.
(5) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a7- 8 :
Trụ tích nguy phong bãi lục trần
Mặc cư huyễn mộng vấn phù vân
Ân cần vô kế tham Trừng Thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
(6)
Di lý, chiếc dép để lại. Bồ Đề Đạt Mạ chết. Sau ba năm, Tống Vân trên
đường đi sứ Tây Vức, gặp Sư tại Thông Lĩnh, vai quảy một chiếc dép. Vân
về tâu. Vua Hiếu Trang nhà Bắc Ngụy (528-530) cho khai tháp khám nghiệm
thì trong quan tài của Bồ Đề Đạt Mạ chỉ còn lưu lại một chiếc dép. Về
sau, thiền sư chết thường được nói là “chích lý tây qui” hay “di lý”.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220b5-10.
(7) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a9- b2: Vãn Quảng Trí thiền sư thi:
Lâm man hồi thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh hinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý đả thiền khuynh
Trai đình u điểu không đề nguyệt
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.