23. THIỀN SƯ MINH TRÍ
(1)
Làng Điển Lãnh tức làng Khương Tự, nơi có chùa thờ Phật Pháp Vân, chùa
Phúc Thánh, cứ Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 6b4, do Lý Anh Tông lập vào
năm 1184.
(2)
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, giữa những bến đò của sông
Nguyệt Đức tức sông Cầu ngày nay, có ghi bến đò Phù Cầm. Bến đò này nằm
giữa hai bến Phù Yên và Đẩu Hàn. Đẩu Hàn là quê hương của Đỗ An Vĩnh
tiến sĩ khoa 1499, còn Phù Yên là của Lê Doãn Chấp tiến sĩ khoa 1505, cả
hai làng ấy Đại Việt lịch triều đăng khoa lục ghi là thuộc “hạt Yên
Phong” tức thuộc huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Phù Cầm do thế
cũng phải thuộc huyện đó. Làng Phù Cầm đời Lý như vậy cũng là làng Phù
Cầm huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
(3)
Tức Phật thuyết nhân vương bát nhã ba la mật kinh, Cưu Ma La Thập dịch,
2 quyển ĐTK 245, giả thiết rằng bản dịch này là bản lưu hành nhất vào
thời Lý, bởi vì có một bản dịch thứ hai do Bất Không thực hiện khoảng
năm 765 cũng có tên Phật thuyết Nhân vương hộ quốc bát nhã ba la mật
kinh, 2 quyển, ĐTK 246.
(4)
Thiền sư Ẩn Phong (...), một hôm, trong khi Thạch Đầu cắt cỏ, Sư khoanh
tay đứng một bên. Thạch Đầu liệng cái liềm đến trước mặt Sư, làm đứt
một cọng cỏ. Sư nói: “Hòa thượng cắt được cái này, không cắt được cái
kia”. Thạch Đầu đưa cái liềm lên. Sư đón bắt được, làm thế cắt cỏ. Thạch
Đầu nói: “Ngươi cắt được cái kia, không cắt được cái này”. Xem Truyền
đăng lục 8 tờ 259b11.
(5)
Văn Thù, Duy Ma Cật và 32 vị Bồ tát thảo luận về pháp bất nhị. Các vị
kia, mỗi vị, tùy trường hợp, đều nói, lìa đối đãi là bất nhị. Văn Thù
nói: “Vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vượt ngoài đối đáp là bất
nhị”. Rồi hỏi Duy Ma Cật. Duy Ma im lặng. Nhân đó Văn Thù tán thán. Xem
Duy Ma Cật sở thuyết kinh quyển trung, phẩm Bất nhị pháp môn tờ 550
b28-551c27.
(6)
Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch trong lúc đang nói chuyện với một vị tăng;
một vị tăng khác đứng bên cạnh, nói: “Nói là Văn Thù, im lặng là Duy
Ma”. Sư nói: “Không nói không im lặng, há không phải là ông sao?”. Vị
tăng im lặng. Sư nói: ”Sao không hiện thần thông?” Tăng nói: “Không từ
chối gì sự hiện thần thông, chỉ sợ hòa thượng thâu vào giáo điển”. Sư
nói: “Xét chỗ ngươi đến, thì chưa có con mắt ở ngoài giáo điển”. Xem
Truyền đăng lục 11 tờ 283b9-c3.
(7)
Nguyên văn: Dương diệm mích cầu yên. Dương diệm tức là thứ ánh nắng mùa
xuân có trộn lẫn với bụi mờ giữa nội. Những con nai khát nước nhìn thấy
ánh nắng đó tưởng là nước, rồi cứ đuổi theo cho đến lúc chết. Xem Lăng
già kinh 2.
24. THIỀN SƯ TÍN HỌC
(1)
Chính thọ là một dịch nghĩa của chữ tam muội (samàdhì). Quán kinh huyền
nghĩa phần nói: “Gọi là chính thọ, khi tưởng và tâm đều dứt, duyên và
lự đều quên, tương ưng với tam muội, thì gọi là chính thọ”. Xem thêm Đại
thừa nghĩa chương 13.
(2)
Nguyên văn: Thiên Tư Gia Thụy ngũ niên Canh Thân. Nhưng cứ Đại Việt sử
lược 3 và Đại Việt sử ký toàn thư B4 thì Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 5 tất
phải nhằm năm Canh Tuất, chứ không phải năm Canh Thân. Nếu là năm Canh
Thân, thì nó phải năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200). Ở đây, chúng tôi
nghĩ rằng vì chữ tuất khó viết lộn thành chữ thân nên cho rằng nguyên
văn có lẽ thiếu chữ thập trước chữ ngũ, nên để nghị đọc lại thành Thiên
Tư Gia Thụy thập ngũ niên, và dịch theo đó.
(3) Nguyên văn: Tử tối mẫu trác. đại sư Hương Nghiêm Tập Đăng, Trí nhàn tụng, “Độc cước”:
Tử tối mẫu trác
Tử giác vô xác
Mẫu tử câu vong
Ứng duyên bất thác
Đồng đạo xướng hòa
Diệu vân độc cước.
Xem
Truyền đăng lục 29 tờ 452b16-18. Xem thêm Bích nham lục 16 tờ 156a21-24
về cái công án “kêu mỗ”: Có vị sư hỏi Kỉnh Thanh: “Học nhân kêu, xin sư
mỗ”. Thanh đáp: “Có sống lại được không?” Vị sư đáp: “Nếu không sống
thì gặp người là chuyện lạ”. Thanh nói: “Ấy là tên giữa đám cỏ”.
25. THIỀN SƯ TỊNH KHÔNG
(1)
Phúc Xuyên, Đại việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên
Phúc Xuyên, quê hương của Phan Nhuệ, tiến sĩ khoa 1748, nhưng lại ghi
làng Phúc Xuyên ở hạt Tiên Phong. Song Tiên Phong là tên một huyện ở Sơn
Tây. Điều chắc chắn là nó phải nằm ở phía bắc phủ Thiên Đức, bởi vì
trước khi đến ở tại chùa Khai Quốc phủ Thiên Đức, Tịnh Không đã phải
“hành cước nam phương”. Bây giờ, truyện của Không cũng nói rằng Không
“ban đầu xuất gia ở viện Sùng Phúc châu mình. Nếu viện Sùng Phúc ở đây
là chùa Sùng Phúc dựng tại làng Siêu Loại vào năm 1115, mà Đại Việt sử
lược 2 tờ 21a2-3 ghi lại, thì làng Siêu Loại như vậy thuộc vào Phúc
Xuyên. Và Phúc Xuyên tên một châu đời Lý mà địa phận có thể gồm huyện
Siêu Loại, tức huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay, với một số huyện
khác chưa thể xác định được. Có lẽ Sùng Phúc nguyên trước là một cái
viện nhỏ. Đến năm 1115 nó được Linh Nhân thái hậu xây dựng lại và đổi
thành chùa. Chắc vào năm này Không đã rời Sùng Phúc để hành cước xuống
chùa Khai Quốc ở phía nam, bởi vì ta biết Không mất vào năm 1170, lúc
ông hơn 80 tuổi, mà ông bắt đầu hành cước lúc ông 30 tuổi.
(2)
Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: “Một hôm Đạo Ngô cầm gậy đến gặp Sư thượng
đường. Tăng hỏi: “Như hà thị pháp thân?”. Sư viết: “Pháp thân vô
tướng”. Viết: “Như hà thị pháp nhãn?”. Sư viết: “Pháp nhãn vô hà”. Sư
hựu viết: “Mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền. Bất thị mục tiền pháp, phi
nhĩ mục sở đáo”. Đạo Ngô nãi tiếu. Sư nãi sinh nghi, vấn Ngô: “Hà
tiếu?”. Ngô viết: “Hòa thượng nhất đẳng xuất thế, vị hữu sư, khả vãng
Chế trung, Hoa Đình huyện, tham Thuyền Tử hòa thượng khứ”. Sư viết:
“Phỏng đắc hoạch phủ?”. Đạo Ngô viết: “Bỉ Sư, thượng vô phiến ngõa già
đầu, hạ vô trác chùy chi địa”. Sư toại dịch phục trực nghệ Hoa Đình.....
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 323c25- 324a7.
(3)
Giáp Sơn Thiện Hội. Đạo Ngô viết: “Bỉ sư, thượng vô phiến ngõa già đầu,
hạ vô trác chùy chi địa”. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a1.
(4)
Tùng thượng trực chỉ, vi thập ma thuyết? Giáp Sơn Thiện Hội tăng vấn:
“Tùng thượng lập Tổ ý, Giáo ý, hòa thượng thử gian vi thập ma ngôn vô?”
Sư viết: “Tam thiên bất thực phạn, mục tiền vô cơ nhân”. Xem Truyền đăng
lục 15 tờ 324a20- 21.
(5) Nguyên văn:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách,
Hề thức ngụy kiêm chân.
So sánh Giáp Sơn Thiện Hội: Sư nói bài tụng:
Minh minh vô ngộ pháp
Ngộ pháp khước mê nhân
Trường thư lưỡng cước thụy
Vô ngụy diệc vô chân.
(6)
Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: Một tiểu sư hầu hạ lâu năm, sau đó bỏ đi
tham phương nhưng không có chỗ dụng tâm. Tiểu sư nghe đồn mọi người đang
đổ xô về Thiện Hội học thiền, bèn trở về nói với Thiện Hội: “Hòa thượng
có sự kỳ đặc như vậy, sao không sớm nói cho con biết?”. Sư đáp: “Ông
nấu cơm, tôi thổi lửa, ông khất thực, tôi cầm bát, thì chỗ nào là chỗ cô
phụ ông?”. Vị tiểu do đó mà ngộ nhập. Xem Truyền đăng lục 15 tờ
324b2-7.
(7)
Giáp Sơn Thiện Hội: “Ngày 7 tháng 11 năm Tân sửu Đường Trung Hòa thứ
nhất (881), Sư mời chủ sự tới nói: “Ta cùng với chúng tăng nói đạo nhiều
năm, ý chỉ sâu sắc của Phật pháp, mỗi một người phải tự biết lấy, ta
nay thân huyễn hết thời tức phải đi. Các ngươi nên khéo giữ gìn, như khi
ta còn sống, chớ có ùa theo người đời mà sinh ra buồn bã. Nói xong, đến
nửa đêm Sư lặng lẽ mất”.
(8)
Tức truyện của hòa thượng (mà nguyên văn ở đây viết là hòa cái) Thiện
Hội ở Giáp Sơn, Phong Châu, trong Truyền đăng lục 15 tờ 323c20-324b28
ngày nay. Hội họ Liêu, người Kiến Đình, Quảng Châu, đệ tử của Đức Thành.
Hội sinh năm 805 và mất năm 881, thọ 77 tuổi, Với những dẫn chứng trên,
rõ ràng cơ duyên thoại ngữ, tức những đối thoại giữa hai thầy trò thiền
sư nhằm tạo một cơ duyên cho sự giác ngộ, cho đến câu nói cuối cùng
trước khi mất của Tịnh Không đều phần lớn lấy ra từ truyện của Thiện
Hội.
(9)
Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, Thiền uyển tập anh dẫn hai lần, một ở đây
và một ở truyện Nguyện Học. Cứ vào hai dẫn chứng này thì có thể nói đa
số, nếu không tất cả những cơ duyên thoại ngữ của Thiền uyển tập anh đều
lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Bởi vì ngay cả trong cả hai trường hợp dẫn
đây, mặc dù cơ duyên thoại ngữ của Tịnh Không cũng như của Nguyện Học
hầu như hoàn toàn đồng nhất với cơ duyên thoại ngữ của Giáp Sơn Thiện
Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục, tác giả vẫn không thể loại bỏ, với
lý do là: “chúng đã chép đủ trong Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật”. Huệ
Nhật này là ai và sống vào khoảng nào, ngày nay ta hiện chưa biết. Về
nội dung của Liệt tổ yếu ngữ, ta đã biết một phần nào.
26. THIỀN SƯ ĐẠI XẢ
(1)
Tức Trâu Sơn, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, viết: ”Trâu Sơn,
một tên là núi Vũ Ninh ở phía đông huyện lỵ Quế Dương 12 dặm, hình núi
liên tiếp, trên núi có Việt Tỉnh. Tương truyền đời Hùng Vương, vua nhà
Ân đến xâm lăng, đóng quân ở dưới núi, Đổng thần vương đánh phá, vua Ân
chết tại núi đó, thổ nhân lập đền thờ, lâu năm đền bỏ hoang. Đến đời
Tần, Thôi Lượng lại sửa sang miếu thờ. Ân Vương cảm bội, khiến tiên Ma
Cô trao cho Lượng một món thuốc tiên, trị được bệnh ngọc kinh xà lũ. Bên
núi có đền thờ tiên Ma Cô, lại có đền thờ Triệu Vũ Đế và Triệu Việt
Vương”. An nam chí nói: “Núi Vũ Ninh ở tại châu Vũ Ninh, núi có Tỉnh
cương, có rắn đá tên Ngọc kinh tử, có mộ Việt vương”. Sử ngoại ký nói:
“Triệu Đà lấy núi Vũ Ninh để cùng với An Dương Vương giảng hòa, tức là ở
đây”. Núi Vũ Ninh như vậy là núi Trâu ở tại huyện Quế Dương tỉnh Bắc
Ninh hiện nay.
Về
chùa Báo Đức, Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 viết: “Năm Long Thụy Thái Bình
thứ 6 (1059) mùa xuân tháng ba, vua đi săn ở sông Nam Bình tại Lạng
Châu, nhân đó đến thăm nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên, dựng chùa Sùng
Nghiêm Báo Đức ở châu Vũ Ninh”. Chùa Báo Đức như vậy gọi cho đủ phải là
Sùng Nghiêm Báo Đức và do Lý Thánh Tông dựng vào năm 1059. Hiện không
biết có còn vết tích gì của chùa này tại Trâu Sơn hay không?
(2)
Bắc thành địa dư chí lục 1 có chép tên phường Đông Tác giữa những phố
phường của thành phố Hà Nội đầu thời Gia Long. Trong bốn tổng của huyện
Thọ Xương, đây là những tổng Hữu Túc, Hậu Túc, Tiền Nghiêm và Tả Nghiêm,
nó đều ghi là phường Đông Tác. Phường này như vậy có thể là một đường
dài ăn thông qua bốn tổng, hay cũng có thể là nó ở vào nơi bốn tổng ấy
giáp giới nhau. Vì thiếu bản đồ, chúng tôi chưa thể xác định được. Nhưng
cứ Phương đình dư địa chí 2 thì phường Đông Tác ở vào tổng Hữu Túc. Mấy
tổng khác không thấy ghi.
(3)
Hoa nghiêm diệu môn Phổ Hiền thần chú, tức Tốc tật mãn Phổ Hiền hạnh
nguyện đà là ni, có lẽ do Bất Không thêm vào trong lời nguyện của Phổ
Hiền trong bản dịch kinh Hoa nghiêm 40 ĐTK 293 tờ 847a2-848b9 của ông và
sau này đã trích thành một bản văn riêng rẽ, mà người ta gọi là Phổ
Hiền bồ tát hạnh nguyện tán ĐTK 297 tờ 880a1-882c17. Nó đọc: “Nẵng ma
tát để rị giả địa vỹ ca nam đát tha nghiệt đa nam. Án a mậu phạ ra vĩ
nghì dỉ sa phạ ha”.
(4)
Đại Việt sử lược 3 tờ 11a6-8 viết: “Năm Trinh Phù thứ 10 (1185) mùa
xuân, Kiến Ninh Vương Long Ích đem quân 12 ngàn người hơn, đi đánh Lào
núi ở Linh Sách để trả thù trận La Sách. Quân đến thôn Đỗ Gia, bèn sai
người đi chiêu dụ. Thủ quân Đinh Vũ, quan lang Đinh Sáng v.v... đều
hàng. Long Ích bắt hết...”.
Kiến
Ninh Vương như vậy là tước của Lý Long Ích, con của Lý Anh Tông. Về sự
việc đó, Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 21a8 viết: “Trinh Phù năm thứ 10
mùa thu tháng 7, sai Kiến Khương Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn
mọi Viêm sách, bình định được”. Thế thì Kiến Ninh Vương và Kiến Khương
Vương là một người. Ta không hiểu tại sao Đại Việt sử ký toàn thư lại có
Kiến Khương Vương. Có lẽ bị người đời Lê Trung Hưng cải chữ Ninh thành
chữ Khương để tránh húy của Lê Trang Tông chăng ?.
Đại
Việt sử lược 3 tờ 7b2-3 viết: “Năm Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) gả
Thiên Cực công chúa cho châu mục Lạng Châu Hoài Trung Hầu”. Đến năm Trị
Bình Long ứng thứ năm (1209) nó lại viết ở tờ 19b4-7: “Vua sai Phạm Du
đến Hồng Lộ huấn luyện quân sĩ, ý muốn đánh người Thuận Lưu. Khi người
Hồng Lộ tới đón đã đúng hẹn, thì Du đang còn cùng Thiên Cực công chúa
thông dâm, không biết hẹn đã quá lúc, bèn cùng với người Hồng Lộ mất
nhau”. Du bèn lên thuyền do đường sông mà đi, tới bến Cổ Châu lên bộ đi
tới xã A Cảo ở Ma Lãng thì bị người Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn
Nãi bắt, đưa tới vương tử Sám giết”. Không những Phạm Du đã chết trên
tay cô công chúa này, mà một tay kiệt hiệt khác cùng số người khác cũng
sắp mất, đây là Tô Trung Tự. Đại Việt sử lược 3 tờ 22a7-8 viết: “Năm
Kiến Gia thứ nhất (1211) tháng 6 Tô Trung Tự đêm đến nhà ở Gia Lâm cùng
Thiên Cực công chúa thông dâm, bị chồng nàng là Quan nội hầu Vương
Thượng giết”. Năm sau, nhà cô ở Lạng Châu bị nghĩa quân Đinh Cỗi lấy của
cải. Đến năm 1214, Lý Huệ Tông cùng mẹ đến ẩn ở nhà cô. Đấy là những gì
ta hiện biết về cô công chúa khá đào hoa này của triều Lý.
(6)
Nguyên văn: Tuyên minh Hổ Nham. Có người dịch là “hang Tuyên minh hổ”.
nhưng Tuyên minh vốn là tên một trại, mà Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ
2a5 nói tới khi kể ra việc tham dự trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi
của chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm, còn Hổ Nham thì Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Sơn Tây, dẫn Thiên hạ quân quốc lợi bệnh, nói: “Năm Minh
Vĩnh lạc thứ 5 (1407) mới đặt phủ Giao Châu thì châu Tuyên Giang lãnh
ba huyện Tây lAn, Đông Lan và Hổ Nham. Năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) sáp
nhập huyện Hổ Nham vào châu Tuyên Giang”. Vậy Hổ Nham là tên một huyện
thời thuộc Minh, và cứ truyện Đại Xả ở đây thì nó có thể là tên huyện
thời Lý, Trần nữa.
Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục Từ quán, còn chép một ngôi chùa
tên Hổ Nham. Nó viết: “Chùa Hổ Nham ở tại sơn phần xã Vân Nham huyện
Hùng Quan, trên vách đá có đề ba chữ lớn “Hổ Nham cương”, gần phía đông
núi có Mãn, phía tây có sông Lô và ngọn núi Ám chạy bên cạnh, là thắng
cảnh của một phương. Khoảng năm Lê Hồng Đức, thổ dân dựng lầu ở trên
động, mỗi năm ngày mồng năm tháng giêng, sĩ nữ đều hội lại để đi xem
chơi. Khoảng năm Đại Chính đời Nhuận Mạc, trùng tu lại, mới đổi tên là
chùa Hổ Nham, có đủ bia ký”.
Như
thế, Hổ Nham không những là tên huyện Hổ Nham và từ đó chắc có làng Hổ
Nham, mà còn có gò Hổ Nham, hay Hổ Nham cương tại phần núi của xã Vân
Nham, huyện Hùng Quan tỉnh Sơn Tây thời Nguyễn, tức phần đất phía nửa
đông bắc tại huyện Đoan Hùng tỉnh Vĩnh Phú hiện nay tại tả ngạn sông Lô
và sông Cháy. Xã Vân Nham hiện ở phía nam chỗ hợp lưu của hai con sông
đấy. Dù Đại nam nhất thống chí có nói cái tên chùa Hổ Nham đến thời Mạc
mới có tên, ta vẫn có thể giả thiết nó rất có thể dựng từ thời Lý và
chắc bắt đầu với nhà sư Đại Xả nói tới ở đây. Một cuộc nghiên cứu hiện
địa tương lai sẽ giải đáp vấn đề đó cho ta.
(7)
Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 14a4 nói: “Đại Định năm thứ 19 (1158) mùa
thu tháng 8 Đỗ Anh Vũ chết”. Nếu vậy, làm gì có chuyện “trong khoảng
Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) Thái úy Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt Đại Xả vào
trong cung cấm và hết lời nghiêm trách” nói tới ở đây. Phải chăng, Đại
Việt sử ký toàn thư chép sai năm mất của Anh Vũ? Đây là một có thể, cứ
vào một số trường hợp sai khác đã xảy ra.
(8)
Phép mười hai nhân duyên hay đạo lý 12 nhân duyên là một phạm trù cơ
bản của tư tưởng Phật giáo nhằm giải thích sự sống chết của con người.
Khởi hành từ cái thực tiễn già chết, ta hỏi nguyên nhân tại sao, thì câu
trả lời là vì có sự sinh ra. Hỏi tại sao có sự sinh ra, ta trả lời vì
sự có thai. Hỏi tại sao có thai, ta trả lời vì có sự giao cấu. Hỏi tại
sao có sự giao cấu, ta trả lời vì có sự thương yêu. Hỏi tại sao có yêu
thương, trả lời vì có cảm giác. Hỏi sao lại có cảm giác, ta trả lời vì
có va chạm. Tại sao có va chạm, ta trả lời vì có sáu giác quan. Tại sao
có sáu giác quan, ta trả lời vì có những điều kiện tâm lý và vật lý. Hỏi
tại sao có những điều kiện tâm lý và vật lý, ta trả lời vì có thức. Hỏi
tại sao có thức, ta trả lời vì có hành động liên tục. Hỏi tại sao có
hành động, ta trả lời vì vô minh. Đây là một dây chuyền 12 khâu kết nối
với nhau, mà từ ngữ Phật học Trung Quốc thường gọi là vô minh, hành,
thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Sự liên
hệ giữa 12 khâu này, từ Phật học Trung Quốc thường diễn tả bằng chữ
duyên. Do thế, khi nói vô minh duyên hành, có nghĩa vô minh làm điều
kiện cho hành động xuất hiện. Hay nói, hành duyên thức,tức cũng nói,
hành làm điều kiện cho thức ra đời... cho đến sự ra đời của lo buồn, khổ
não tức bắt nguồn từ sự sinh ra. Vì có một liên hệ nhân quả liên tục
như thế, nghĩa là một sự liên hệ trong đó nhân trở thành quả và quả trở
thành nhân, nên 12 khâu trên được gọi là 12 nhân duyên.
Kinh
sách Phật giáo khẳng định rằng đạo lý 12 nhân duyên vừa mô tả có thể
được khám phá trong những lúc và tại những nơi không có tư tưởng hay
kinh sách Phật giáo. Những người khám phá ra đạo lý đó không dựa hay nhờ
Phật giáo thì Phật giáo gọi họ là những Bích Chi Phật, tức những người
giác ngộ nhờ vào chính mình và chỉ một mình mình mà thôi. Bích Chi Phật
là một phiên âm chữ Phạn Pratyekabuddha, mà từ Phật học Trung Quốc dịch
là “Độc Giác”.
(9)
Lương Vũ Đế hay vua Vũ Đế nhà Lương, tên thật là Tiêu Diễn, người đã
lật đổ nhà Tề tại miền nam Trung Quốc và lập nên nhà Lương vào năm 502.
Đến năm 549, Hầu Cảnh khởi nghĩa và bức tử tại Đài thành. Lương Vũ Đế
thường được coi là vị vua sùng thượng Phật giáo nhất trong lịch sử các
vua chúa Trung Quốc. Xem Lương thư 1-2.
(10)
Bảo Chí (419?-515), một nhà sư có những hành tung tương tự như của Đại
Xả ở đây, có những liên hệ sấm ngữ với Lương Vũ Đế. Về cuộc đời ông xem
Truyền đăng lục 27 tờ 429c18- 430a23.
(11)
Đoạn đối thoại giữa Lý Anh Tông và Đại Xả ở đây hoàn toàn lấy ra từ
truyện của Bảo Chí trong Truyền đăng lục 27 tờ 430a6-11, theo đấy
(Lương Vũ) Đế một hôm hỏi Bảo Chí rằng: “Đệ tử phiền hoặc, lấy gì mà
chữa?” Sư đáp: “Lấy 12. Kẻ hiểu biết cho rằng 12 nhân duyên là thuốc trị
phiền hoặc”. Lại hỏi về ý chỉ của 12. Sư đáp: “Ý chỉ ở tại trong 12 chữ
viết chỉ thì giờ của đồng hồ. Kẻ hiểu biết cho rằng nó được viết vào
trong 12 giờ khắc”. Lại hỏi: “Đệ tử lúc nào thì được tĩnh tâm mà tu
hành?” Sư đáp: “An lạc tâm. Kẻ hiểu biết cho rằng tu hành những giới cấm
là để làm dừng nghỉ, nghĩa là đến lúc tới được cho sung sướng rồi thì
mới thôi”.
(12)
Hình ảnh lấy từ phẩm Quang Minh biến chiếu cao quý đức vương Bồ tát của
kinh Đại bát niết bàn, theo đấy có một ông vua đem bốn con rắn độc đựng
chung vào một cái lồng, bảo người thị thần nuôi dưỡng. Nếu để cho chúng
không vừa lòng thì người đó bị xử tử. Người đó bỏ chạy, vua cho năm
người chiên đà la đuổi bắt lại. Đuổi không kịp, bèn sai một người giả bộ
hiền lành đi dụ dỗ, thì người kia đi đến một làng trống vắng. Vừa tới,
người kia nghe nói đêm đó sẽ có sáu tên cướp đến cướp. Bèn sợ hãi, chạy
đến gặp một con sông cuồn cuộn nước. Bèn quyết ý vượt qua, bấy giờ mới
giải thoát thảnh thơi. Bốn con rắn độc đấy, kinh này nói là dụ cho bốn
nhân tố vật chất tạo nên con người, đấy là đất, nước, gió, lửa. Từ Phật
học Trung Quốc gọi là tứ đại. Xem Đại bát niết bàn kinh 23.
(13)
Hình ảnh lấy từ phẩm Sư Tử Hống Bồ tát của kinh Đại bát niết bàn, ở
đấy, sự sinh, già, bệnh, chết của con người được ví với bốn ngọn núi lớn
“từ bốn phương đến muốn hại nhân dân”. Xem Đại bát niết bàn kinh 29.
Ngũ
ấm, tức năm nhân tố tâm vật lý tạo nên con người, đấy là vật chất, cảm
giác, tưởng tượng, ý chí, và tri giác hay nhận thức. Từ Phật học Trung
Quốc thường gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
(14) Ngựa đá, trâu đất, Thiền gia thường dùng để chỉ cho công vị của thiền. Thiền sư Thúy Nham, Công huấn vấn đáp:
“Nê ngưu ẩm tận trừng đàm nguyệt
Thạch mã gia tiền bất chuyển đầu”.
(Trâu đất uống hết trăng đầm lặng
Ngựa đá roi quất chẳng ngoảnh đầu).
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 316b5-6.
27. THIỀN SƯ TỊNH LỰC
(1)
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn Xuyên, trong khi viết về
Trâu Sơn, nói: “Trâu Sơn, một tên là núi Vũ Ninh”, rồi dẫn An nam chí
rằng: “Núi Vũ Ninh ở châu Vũ Ninh, có Tỉnh cương và có Thạch xà gọi là
Ngọc kinh tử, lại có mộ của Việt Vương.
Tỉnh
Cương như vậy là một cái gò trên núi Trâu hiện nay. Cái gò này vì có
một cái giếng, nên gọi là gò Giếng hay Tỉnh Cương. Bên cạnh gò có lẽ có
một cái đầm và vì nó ở gần mộ của Việt Vương, nên gọi là Việt Vương trì
hay Vương Trì. Còn Vũ Ninh, cái tên đặt ra từ thời Tôn Ngô, đến thời Lý
vẫn còn dùng để gọi một châu. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: “Năm Long
Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) vua dựng chùa Sùng Nghiêm Báo Đức ở châu Vũ
Ninh”. Đất châu này ngày nay thuộc địa phận hai huyện Quế Dương và Vũ
Giang tỉnh Bắc Ninh.
(2)
Theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục tiền biên 3 tờ 15a1-4 thì
“Vũ Bình vốn đất huyện Phong Khê, khoảng đầu đời Ngô đặt ra, gồm có 7
huyện. Đời Tùy bỏ quận, đổi làm huyện Long Bình, đời Đường đổi làm huyện
Vũ Bình, sau đó lại đặt làm Đằng Châu. Đời Đinh và Lê lấy làm phủ Thái
Bình. Đời Trần đổi làm Khoái Lộ. Đời Lê đổi làm hai phủ Tiên Hưng và
KhoÁi Châu, nay là đất tỉnh Hưng Yên vậy”.
Đại
nam nhất thống chí tỉnh Hưng Yên, mục phần dã cũng có một ý kiến tương
tợ, đấy là đặt Đằng Châu và KhoÁi Châu làm tên cho quận Vũ Bình đời
Lương, Rồi chú là “chép trong sử Lý Cao Tông”. Đại Việt sử ký toàn thư
B4 tờ 25a8 có ghi “Năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209) mùa xuân tháng
giêng Phạm Bỉnh Di đem người Đằng Châu và KhoÁi Châu đi đánh Phạm Du”.
Nhưng không nói gì đến chuyện đặt tên Đằng Châu và KhoÁi Châu cho Vũ
Bình hết. Mà truyện Tịnh Lực ở đây xác nhận là cái tên Vũ Bình cho tới
thời Lý vẫn đang còn dùng.
Các
sử sách Trung Quốc thì Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 12b4-9 nói
“Huyện Vũ Bình, từ huyện lỵ đến phủ lỵ (Giao Châu) phía tây nam 19 dặm,
vốn là đất thành bọn mọi Phù Nghiêm. Năm Kiến Hoạch thứ 3 (271) đời Quy
Mạng Hầu nhà Ngô đánh tan bọn mọi Phù Nghiêm, đặt quận Vũ Bình, năm Khai
Hoàng thứ 10 (590) bỏ quận, lập huyện Sùng bình thuộc Giao Châu. Năm Vũ
Đức thứ 4 (621) đổi tên là Vũ Bình”. Huyện Vũ Bình như vậy ở vào phía
đông bắc của phủ trị Giao Châu, mà vào thời Lý Cát Phủ viết Nguyên hòa
quận huyện đồ chí, tức những năm 806-820, thì đã ở tại phần đất của thủ
đô Hà Nội ngày nay. Cứ vào mô tả đó thì huyện Vũ Bình có thể ở vào địa
phận tỉnh Hưng Yên lắm.
Thái
Bình hoàn vũ ký 170 tờ 8b9-9a3 cũng có những mô tả tương tự. Nó viết:
“Huyện Vũ Bình, nhà Ngô đặt quận Vũ Bình, nhà Tùy đổi thành huyện. Nó
vốn là huyện Phong Khê thời Hán. Khoảng đầu năm Kiến Vũ, người con gái
huyện Mê Linh tên Trưng Trắc làm phản, đánh hãm Giao Chỉ. Mã Viện đem
quân tới đánh, ba năm mới bình. Vũ đế bèn đặt thêm hai huyện Vọng Hải và
Phong Khê. Phong Khê tức huyện này. Đời Tùy gọi nó là Long Bình. Đường
Vũ Đức năm thứ 4 (621) đổi nó làm huyện Vũ Bình”. Những mẫu tin của Nhạc
Sử ở đây đều chép lại nguyên văn của phần địa lý về huyện Vũ Bình trong
Cựu đường thư 41 tờ 43a8-11, Tân Đường thư 43 thượng tờ 10a1 cũng không
một điểm gì mới lạ.
Chúng
tôi nghĩ rằng, cứ vào những tài liệu Trung Quốc vừa dẫn thì huyện Vũ
Bình đời Đường cho đến đời Lý vẫn là một địa phận với những thêm bớt cắt
xén nào đó. Vũ Bình thời nhà Lý rất có thể là tên một quận hay một
châu, và nó nằm tại phần đất tỉnh Hưng Yên ngày nay. Bắc thành địa dư
chí lục 3 tờ 18b2 và 19a2 có kê một tổng xã tên Cát Dương thuộc huyện
Phù Dung và một tổng xã tên Cát Lăng thuộc huyện Tiên Lữ, phủ KhoÁi
Châu. Cát Lăng quê hương của Tịnh Lực ở đây có thể gồm địa phận các tổng
Cát Dương và Cát Lăng vừa nói.
(3)
Niệm Phật tam muội, Phạn: Buddhànusmrti-samàdhi. Phương pháp thiền định
bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này hoặc bằng một lòng quán
tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của pháp thân Phật
thì gọi là quán tưởng niệm Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật
thì gọi là xưng danh niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến
khi vào thiền định mà thấy được chính Phật hiện ra trước mắt hay thấy
được pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của việc niệm Phật tam muội. Xem
Quán vô lượng thọ kinh ĐTK 365 và Niệm Phật tam muội kinh 7 ĐTK 1996.
(4)
Hùng hoàng theo Thần nông bản thảo kinh là một loại đá có thể làm cho
người ta “nhẹ người thần tiên” và chống lại được bệnh do “tà ma quỉ
quái” tạo ra. Ngô Phổ giải thích nó là thứ hùng của các loại đan nên gọi
là hùng hoàng. Xem Thần nông bản thảo kinh 2 tờ 2b1-11 và Bản thảo
cương mục 9 tờ 21b9-28b1.
(5)
Thừa Tiên là tự của Lâu Huyền đời Tôn Ngô và của Thái Hựu đời Bắc Chu.
Họ đều là những trung và công thần của hai triều đại ấy. Xem Ngô chí 20
tờ 2a2-3a1 và Chu thư 27 tờ 2b13-4b6.
(6)
Nguyên văn: Vị ngộ hiện long vi Phật tử. Hiện long là một từ lấy từ quẻ
càn của Chu dịch: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”. (Rồng ra ở
ruộng, lợi thấy đại nhân). Khổng tử giải thích: Đức rồng ở chính trung
thì lời nói thường mà tin, việc làm thường mà cẩn thận, tránh điều tà mà
giữ lòng thành, giỏi việc đời mà không khoe khoang, đức hạnh rộng để
giáo hóa. Dịch nói: “Rồng ra ở ruộng, nên thấy đại nhân, đó là đức của
vua vậy”. Xem Chu dịch 1 tờ 2b7-10
(7)
Nguyên văn: Hốt tào thử xuất tịch vô cùng. Chuột trong câu này là chỉ
bọn bầy tôi phá hoại quốc dân, một từ lấy ra ở thiên Chính lý của Thuyết
uyển: “Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: “Nước có nạn gì?” Quản Trọng đáp:
Nạn là nạn chuột xã. Hoàn Công hỏi: Sao gọi thế? Quản Trọng đáp: Cái xã
là do bó cây mà trét đất lên. Chuột nhân đó đến ở gá vào. Đốt chúng đi
thì sợ cháy cây. Tạt chúng đi thì sợ lở đất. Chúng do đó không thể giết
được làvì ngôi xã. Nước cũng có loại chuột xã, tức là kẻ hầu hạ hai bên
vua vậy. Bên trong thì chúng bưng bít việc thiện ác đối với vua. Bên
ngoài thì chúng mua bán quyền hành đối với dân. Không diệt chúng thì
nước loạn, mà giết chúng thì bị vua xét hỏi. Nên chúng cứ chiếm lấy vua
mà sống. Đấy tức là bọn chuột xã của nước vậy”. Xem Thuyết uyển 7 tờ
11a1-7.
28. THIỀN SƯ TRÍ BẢO
(1)
Những tư liệu thời Lý, Trần hiện còn thì hoặc có tên Cát Lợi, hoặc có
tên Lợi hy, chứ chưa thấy tài liệu nào có tên Cát Lợi Hy. Về tên Cát
Lợi, Đại Việt sử lược 3 tờ 24a2, ghi lại việc “năm Kiến Gia thứ 2 (1212)
tháng 2 Nguyễn Tự tấn công người Cát Lợi là Ngô Thưởng ở Vũ Cao, bị tên
độc trúng, bèn trở về xóm Tây Dương, tuần hơn lỡ giao cấu với đàn bà,
khí độc phát lại mà chết”. Còn tên Lợi Hy, văn bia của chùa Báo Ân tại
xã Tháp Miếu, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú dựng năm Trị Bình Long Ứng
thứ 5 (1210) triều Lý Cao Tông thì ghi nó như một tên xã. Về vị trí nó,
xem chú thích (2) truyện Khuông Việt.
(2)
Cương mục tiền biên 4 tờ 12a4-6 viết: “Ô Diên là đất Giao Chỉ xưa, năm
Đường Vũ Đức thứ 4 (621) đặt huyện Ô diên cùng với Từ Liêm và Vũ lập là
ba huyện đều thuộc Giao Chỉ. Sử cũ chùa Ô diên là xã Hạ mỗ ở Từ Liêm. Xã
ấy có đền thờ Bát Lang thần, “đó tức là đền thờ Nhã Lang vậy”. Sử cũ mà
Cương mục dẫn ra đây, tức là Đại Việt sử ký toàn thư N4 tờ 20a1. Kiến
văn tiểu lục 6 tờ 1b5-7 cũng lập lại những gì Đại Việt sử ký toàn thư đã
nói, như Cương mục đã dẫn. Nó viết: “Xã Hạ Mỗ, sử nói tức là thành Ô
diên, nơi ở của Triệu Việt Vương”. Xã đó có đền thờ của Bát Lang thần,
tức là Lý Nhã Lang, rể của Triệu Việt Vương. Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà Nội, mục Từ miếu cũng ghi thế. Quê hương của Trí Bảo như vậy
phải là làng Hạ Mỗ, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây ngày nay.
(3)
Tô Hiến Thành (?-1179). Cứ Đại Việt sử lược 3 và Đại Việt sử ký toàn
thư B4 thì trong trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi vào năm 1139 (Đại
Việt sử ký toàn thư ghi vào năm1141) Tô Hiến Thành mang chức Thái phó.
Đến năm 1159, Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 14a7 nói: “Vua phong Hiến
Thành làm Thái úy”.
(4)
Ý và chữ lấy ra từ câu nhận xét về Vô Nghiệp của Đạo Nhất. Khi Nhất lần
đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao lớn, tiếng nói như
chuông, Nhất bảo: “Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có Phật” (Nguy nguy
Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền đăng lục 8, tờ 257a8-9. Xem
thêm chuyện Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến học với Bách
Trượng rồi trở về, thầy Tán hỏi: “Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ có được sự
nghiệp gì không?” Tán đáp: “Không có sự nghiệp gì ráo”, nên bị thầy sai
hầu hạ. Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói: “Điện
Phật đẹp mà Phật không thiêng”. (Hảo sở Phật điện, nhi Phật bất thánh).
Xem Truyền đăng lục 9 tờ 168a10-14.
(5)
Có người hỏi Tôn Triệt: “Tính địa nhiều u tối làm sao hiểu rõ?” Triệt
đáp: “Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong”. Xem Truyền đăng lục 12 tờ
293a 22-23.
(6)
Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: “Hòa thượng có thấy rõ ràng chỗ thấy
không?” Bị đáp: “Biết nhau khắp thiên hạ”. (Tương thức mãn thiên hạ).
Xem Truyền đăng lục 18 tờ 347a13-14. Xem thêm Viên Ngộ Phật Quả thiền sư
ngữ lục 1tờ 715b24 thiền sư Kế Bằng thượng đường, chập tay hỏi:
“Biết nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người”
(Tưởng thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 476b 20-21.
Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 12 tờ 302a 24-25.
Can mộc phụng Văn hầu
Tri âm hữu kỷ nhân
(7)
Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương Ly cấu của
phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: “Bồ tát ư tự tư tài, thường tri chỉ
túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha, khởi tha vật
tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm. Nãi trí thảo diệp, bất dự bất
thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư tự thê
tri túc, bất cần tha thê. Ư tha thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc môi
định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhiễm chi tâm, hà huống
tùng sự, huống ư phi đạo”. (Bồ Tát đối với của cải mình, biết vừa đủ,
đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật
thuộc của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc
không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không cho, mình
không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết
đủ đối với vợ mình, mà không vợ ngườẵi. Đối với thê thiếp của người, con
gái do người bảo hộ, do thân tộc môi định và do pháp luật bảo hộ, mình
còn không móng lòng tham nhiễm, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa
là nơi phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 35 tờ 185a
25-b2.
29. THIỀN SƯ TRƯỜNG NGUYÊN
(1) Về Bình Lỗ và núi Vệ Linh, xem chú thích (5) truyện Khuông Việt.
(2) Về Tiên Du, xem chú thích (2) truyện Vô Ngôn Thông.
(3 ) Thiện Hội ở Giáp Sơn, có người hỏi về cảnh Giáp Sơn, đáp:
“Viên bảo tử quy thanh chướng lý
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền”.
(Vượn bồng con về trong núi xanh
Chim ngậm hoa rơi trước hang biếc)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b20-21.
(7)
Những từ chủ yếu trong 4 câu đều lấy từ chương 56 của Đạo đức kinh:
“Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, tỏa kỳ
nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng, cố
bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi lợi, bất khả
đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị thiên hạ
vi”. (Người biết không nói, người nói không biết, ngậm miệng lưỡi, bịt
tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hòa ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi
là huyền đồng cho nên không thể được mà thân, không thể được mà sơ,
không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà sang,
không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ). Xem Đạo
đức kinh hạ thiên tờ 12a13-b6.
(5)
Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51của Đạo đức kinh,
“Đạo sinh chi, đức súc chi...trưởng chi, dụ chi, đình chi, dưỡng chi,
phú chi..”. (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, ..., lớn đó, nắn đó, đúc đó,
dưỡng đó, che đó). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 9b6-10a6. Xem thêm Biên
mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ 7b13- 8a8:
“Rằng sinh hết muôn vật thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là
tự nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình
vậy... , sinh ra, không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ..”.
(Phù thông sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự
nhiên, tự nhiên giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên...., sinh
chi, vô đình độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí)
(6) Gái sắt, người gỗ, thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của thiền. Thiền sư Đồng An Sát, Thập Huyền Đàm:
“Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ
Thạch nữ thiên minh đái mạo quy”
(Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi
Sáng mai gái đá đội nón về)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c6-7. Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn đáp:
“Mộc nhân tuy bất ngữ
Thạch nữ dẫn hồi đầu”
(Người gỗ tuy không nói
Gái đá hết ngoảnh đầu)
Xem Nhân thiên nhãn mục 1 tờ 305c5-6.
30. THIỀN SƯ TỊNH GIỚI
(1)
Trong mấy chục ngọn núi của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ghi trong Đại
nam nhất thống chí 13-15, tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Nghệ An, không thấy ghi
ngọn núi nào tên Bí Linh cả. Phải chăng nó đã bị đổi tên? Trong tình
trạng hiểu biết và tư liệu hiện tại, chúng tôi chưa thể trả lời được.
(2)
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 2 tờ 11a2 nói: “Phủ
Trường An, đời Lý là phủ, đời Trần và Lê nhân theo, nay là phủ Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình vậy”. Phủ Yên Khánh, theo Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Ninh Bình, mục phần dã thì đời Nguyễn gồm bốn huyện, đây là Yên
Khánh, Gia Viễn, An Mô và Kim Sơn. Nó như vậy tương đương với phần đất
của những huyện Yên Khánh, Gia khánh, Gia Viên và Yên Mô, tỉnh Ninh Bình
hiện nay. Phủ Trường Yên là do Lý Công Uẩn đổi thành Hoa Lư, kinh đô
của nhà Đinh và Lê, vào năm 1010 mà ra.
(3)
Lô Hải đây chắc phải nằm trong địa phận những huyện Hoằng Hóa và Hậu
Lộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay, bởi vì, Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh
Thanh Hóa, mục Sơn Xuyên, tờ 43a4-6 có kể tên một con sông tên Ngung
Giang. Nó viết: “Ngung Giang ở tại ranh giới của ba huyện Hoằng Hóa, Mỹ
Hóa và Hậu lộc, một tên là Ngung Giang. Nguồn nó bắt từ hai sông Mã và
Lương mà tới, đến cửa An Phái thì phân dòng mà chảy qua những huyện
Hoằng Hóa và Mỹ Hóa, rồi ngoặt qua huyện Hậu Lộc thì có nước Khe Trà,...
một tên Bào Giang chảy vào, rồi đổ vào cửa Ỷ Bích. Cái gọi là sông Nhị,
sông Cát, sông Bút, sông Bích đều là những tên khác của sông này. Sử
nhà Lê nói trong khoảng Thiên Hựu (1557) Mạc Kính Điển đánh bị thua, về
giữ sông Bút Cương, tức nơi đây”.
Ngung
Giang ở đây chắc là Ngung Giang của chúng ta, bởi vì cả chữ Ngu lẫn chữ
Ngung đều có âm phù ngu. Âm phù đó cũng đọc ngung, cho nên trị sở của
Quảng Châu thời Hán đúng ra phải đọc Phiên Ngu, nhưng chúng ta cũng
thường đọc là Phiên Ngung. Chúng tôi do đó coi Ngu Giang cũng là Ngung
Giang. Vào thời Lý, việc lấy tên sông mà đặt tên cho một địa phận cũng
thường xảy ra, đặc biệt là tại vùng Thanh Hóa. An nam chí lược 1 tờ 21
nói: “Phủ lộ Thanh Hóa là quận Cửu Chân đời Tây Hán, Ái Châu đời Tùy
Đường. Những thuộc ấp của nó ngày nay gọi là giang, trường, giáp, xã”.
Về
vị trí thực sự của Lô Hải, cũng như của Ngung Giang, chúng tôi nghĩ
rằng nó nằm khoảng vào tổng Lỗ Hương, mà trước năm 1839 thuộc huyện
Hoằng Hóa mà sau đó thì bị cắt làm huyện Mỹ Hóa cùng những tổng khác,
rồi đến năm 1850 lại thuộc huyện Hoằng Hóa. Từ tổng Lỗ Hương đó đi ra
phía đông đến biển và cửa Ỷ bích có thể là địa phận của Lô Hải xưa thời
Lý. Nói khác đi nó bao gồm phần lớn đất do Ngung Giang chảy qua. Ngung
Giang ngày nay là sông Lạch Trường. Cửa Ỷ Bích là cửa Lạch Trường. Nên
Lô Hải là Ngung Giang nằm tại vùng Lạch Trường đó.
Những
địa danh như Mão Hương, Ngung Giang và Lô Hải bàn cãi ở đây, chúng tôi
chưa thấy một sách sử nào nói tới. Do thế không cần phải nói là những
bàn cãi trên có tính chất tạm thời và giả thiết.
Cứ
An nam chí nguyên 3 tờ 209 thì “Thiền sư Tịnh Giới là vị Sư huyện Đông
Quan, tu hạnh đầu đà, cảm hóa như thần, Giao Châu có hạn, họ Lý sai sứ
đi đón về. Nửa đêm Sư đứng giữa sân đốt hương. Mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý
khen, tặng làm thầy Mưa”. Nói là gốc huyện Đông Quan, bởi vì Giới về ở
chùa Báo Thiên, tại Hà Nội, chứ thật sự không phải.
(4)
Lãng Sơn đây nghi là Lãng Sơn ở huyện Lập Thạch, tỉnh Sơn Tây thời
Nguyễn tức nay là huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú. Dù chữ Lãng trước viết
với bộ thủy và Lãng sau viết với bộ nguyệt. Thiền uyển tập anh thường có
cái tật thay chữ đồng âm này với một chữ đồng âm khác, mà không sợ đổi
nghĩa, nhất là trong những trường hợp danh từ riêng. Ví dụ ở tờ 4b1 chữ
hoài chứa hết 1 chữ hán của Bách Trượng Hoài Hải thì bị viết thành hoài.
Về Lãng Sơn Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b8 nói: “Núi Lịch ở tại xã An
Lịch, huyện Sơn Dương, bắt từ núi Sư khổng của huyện Đương Đạo chạy
xuống đến xã đây thì giữa đất bằng nổi lên năm sáu ngọn núi đất, rồi rẽ
ngang thành một nhánh chạy xuống huyện. Lập Thạch thành Lãng Sơn. Trên
Lãng Sơn - tục gọi là núi Lạng - cũng có đền thờ vua Thuấn. Trước núi
lại nổi lên một ngọn núi đất hơi thấp. Trên đỉnh nó, như hình cây giao
nhau bên trong rộng ước độ vài sào, có thể trồng loại tiêm nha 100 bông -
1 bông 40 bó, 100 bông 4000 bó - tục truyền đó là chỗ vua Thuấn trồng,
nhân đó gọi là núi Bách Bông”. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn Tây, mục
Sơn xuyên, cũng dẫn đoạn vừa viết của Kiến văn tiểu lục, khi nói về
Lịch sơn.
Lãng
Sơn như vậy là chi nhánh của núi Lịch ở tại huyện Lập Thạch. Ngày nay
huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú còn có Lãng Sơn, mà người ta thường gọi là
núi Hạng. Ta hiện chưa biết núi Hạng này còn có một ngôi chùa nào
chăng? Truyện Tịnh Giới ở đây nói khi Giới đã xách gậy đông du, tức từ
Thanh Hóa đi ra miền Bắc, để đến tại Lãng Sơn thì “trải bảy năm tham
học, Giới gặp Bảo Giác chùa Viên Minh”. Thế thì phải chăng Giới đã gặp
Bảo Giác tại Lãng Sơn? Phải chăng chùa Viên Minh ở tại núi đó? Chúng tôi
hiện chưa rõ.
(5)
Tiểu sử của Viên Thông thuộc đời thứ 18 của phái Pháp Vân nói: “Cha của
Viên Thông là Huệ Dục, làm quan dưới triều Lý Nhân Tông đến chức tả hữu
nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác”. Phải chăng Bảo Giác chùa Viên
Minh nói ở đây là cha của Viên Thông? Thật khó mà trả lời. Viên Thông
mất năm 1151 lúc đã 72 tuổi. Cha của Viên Thông do thế không thể sống
quá năm 1151 này, có quá lắm thì sống sau đó khoảng năm hay mười năm là
cùng, nghĩa là tới khoảng năm 1161. Nhưng Bảo Giác chùa Viên Minh ở đây
lại mất vào năm 1173, như vậy khó có thể làm cha Viên Thông.
Thế
thì phải chăng Bảo Giác chùa Viên Minh đây là một viết lộn cái tên của
Bảo Giác chùa Bảo Phúc tại Đa Vân thuộc thế hệ thầy của Tịnh Giới? Đây
là một có thể, bởi vì tiểu sử của Bảo Giám nói Giám mất vào năm1173 cùng
năm với Bảo Giác chùa Viên Minh, chỉ khác tháng mà thôi. Một bên mất
vào tháng 10, một bên mất vào tháng 5. Nhưng không quan trọng cho lắm,
bởi vì chữ ngũ có thể viết lộn thành chữ thập và ngược lại. Có khác
chăng là khác chùa, một bên chùa Bảo Phúc, một bên chùa Viên Minh, nhưng
cũng không thiết yếu lắm với sự dời đổi thường xuyên của phần lớn
những vị thiền sư.
Dầu
sao, cuối tiểu sử của Tịnh Giới ở đây, người viết đã chú thích là
“truyện của Giới đại khái so với Quốc sử và văn bia không giống, nay xin
khảo chính lại”, thì cũng đủ thấy, ngay từ thời Thiền uyển tập anh ra
đời, cuộc đời của Giới cũng đưa ra khá nhiều vấn đề, đến nổi cần phải
khảo chính lại. Vì thế, Tịnh Giới cuối cùng có thể là đệ tử của Bảo
Giác, cha của Viên Thông.
(6) Nguyên văn:
Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chơn như mục tiền ky
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi
Câu
2 theo luật thơ phải là “Chân như quy tịch mục tiền ky”. Còn chữ “nghi”
trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi. Xem
thiên Tứ sử, phần Xuân quan của Chu lễ 19 tờ 6b 12-13 và nghi cũng có
nghĩa là “hướng đến”. Xem Ngoại thích truyện của Tiền hán thư 97 thượng
tờ 18b 13-19a1. Nên “mẫn tâm nghi” chúng tôi dịch là “dứt mọi xen”, tức
dứt mọi thú hướng của tâm.
Tư
tưởng “vạn pháp qui không” là một tư tưởng lớn và căn bản của những
trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ không đó có nghĩa gì thì mọi
trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền.
Xem Truyền đăng lục 8 tờ 262c5. Phúc Khê có người hỏi: “Duyên tán qui
không, không qui hà sở?”. Sư đáp: “Ta”. “Mục tiền ky” là cơ duyên trước
mắt, thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng
lục 8 tờ 263a 12-13.
Khốc thanh sư dĩ hiểu
Dĩ hiểu phục thùy tri
Đương thì Ma kiệt quốc
Kỷ táng mục tiền ky.
Đương thì ma kiệt quốc
Kỷ tắng mục tiền ky
(7) Về chùa Báo Thiên, xem chú thích (6) truyện Đạo Huệ.
(8)
Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói
về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời Lý Anh
Tông. Truyện đó viết: “Lý Anh Tông, nhân có hạn, sai thiền sư Tịnh Giới
cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem,
bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo
xanh quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ
hỏi thì họ đáp: “Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến
làm mưa”. Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến
tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ Sư
để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ Lai, vua nghe
theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân”.
Truyện
Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả
Đại Việt sử lược lẫn Đại Việt sử ký toàn thư không ghi một lần hạn nào
cả cho đến 1188. Năm đấy, Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói:
“Thiên Tư Gia Thụ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5 hạn, vua thân hành đến chùa
Pháp Vân ở Luy Bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. LMT chú) cầu mưa,
nhân đó nghênh tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên. Như vậy, phải
chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tông?
Chúng tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9
thì “năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh
phu nhân ở ngoài cầu Tây Dương”. Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ
truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do Lý Anh Tông phong. Hơn nữa, vì
đền này xây ở “ngoài cầu Tây Dương”, nó chắc phải xảy ra sau khi việc
cầu mưa của Tịnh Giới thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì
đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ Sư. Nói khác đi, phải có hạn
trước năm 1172.
Cứ Đại Việt sử lược 3 và Đại Việt sử ký toàn thư B4 thì dười triều Lý Anh Tông ta có những năm hạn sau đây:
1140 “Từ xuân đến hạ không mưa, vua mới cầu mưa.
1142 “Từ xuân đến hạ hạn, vua thân hành cầu, tháng 6 Đinh Sửu mới mưa.
1146 “Mùa hạ tháng 4 trâu bò bị dịch chết, hạn, cầu thì mưa”.
1150 “Mùa xuân tháng 3 hạn. Mùa thu tháng 7 hạn”.
1148 “Mùa hạ hạn, cầu thì mưa”.
1165 “Mùa hạ tháng 6 đại hạn, dân chúng bị bệnh dịch lớn, trâu, bò chết phần lớn, giá gạo nhảy vọt”.
Như
thế, trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tông, năm lần hạn đã xảy ra,
khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn này lại kéo dài thường
từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc “vua ban
chiếu cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa” như truyện Tịnh Giới đã
ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham dự việc cầu mưa theo tục truyền, như
chính truyện đã viết, là để hợp thức hóa số thuế của Giới, mà “người chị
Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế”. Với môt mục đích đấy,
Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có
lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tông, như Việt điện u
linh tập đã có.
Tuy
nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình
cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc Thanh. Ta
có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất
trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90
tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ
những năm 1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây,
nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô căn cứ.
(9)
Đại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10 viết: “Năm Trinh Phù thứ 4 (1179) tháng 5
sửa thêm chùa Chân Giáo, xuống chiếu lấy chùa đó làm nơi hành hương vào
ngày kỵ của Anh Tông”. Việc này, Đại Việt sử ký toàn thư và các sử khác
không ghi.
Về
chùa Chân Giáo tại núi Vạn Bảo, Tây hồ chí, phần Tự am tập viết: “Chùa
Chân Giáo xưa tại đỉnh ngọn Phục Tượng của núi Vạn Bảo trong thành Đại
La. Chùa dựng vào mùa thu năm Thuận Thiên thứ 15 (1024) để làm nơi vua
ngự xem tụng kinh. Nay chùa chỉ còn một gian, biển cũ cũng mất, vì vậy
ít người biết gốc tích. Tục chỉ gọi chùa Tượng Sơn. Núi và chùa nay ở
tại trại cần bảo huyện Vĩnh Thuận, phía tây ngoài thành. Lại xét chỗ đất
trũng trước chùa có nước đọng, thời xưa là ao Ngoạn Thiềm, triều Trần
bắc cầu Lâm Ba trên nó, nay di tích không còn”.
Về
núi Vạn Bảo, Tây hồ chí, mục Sơn xuyên, viết: “Núi Vạn Bảo gồm 15 ngọn ở
về phía nam của hồ, nay thuộc tổng Vĩnh Thuận nội, các ngọn chia thuộc
16, 17 trại, điếm. Những cung điện, chùa miếu của ba triều Lý, Trần, Lê,
nền cũ phần nhiều còn đó. Có nói rõ trong Thăng Long chí. Ba ngọn Phục
Tượng, Phục Hổ và Thần Bút là chi nhánh núi Vạn Bảo.
(10) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b6-8 chép:
Thu lai lương khí giáp khâm trung
Bát đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm
Những chữ đậm là đọc khác với bản của Thiền uyển tập anh
(11)
Nguyên văn: Thử truyện lược dự Quốc sử cập bi văn bất đồng, kim phục
khảo chính. Quốc sử đây chắc phải là Đại việt Sử ký của Trần Chu Phổ và
Lê Văn Hưu. còn văn bia của Tịnh Giới hiện ta chưa tìm lại được. Vì Quốc
sử là của Phổ và Hưu, cho nên qua những bàn cãi trên, ta thấy những sự
việc ghi trong truyện Tịnh Giới không thấy nói tới trong Đại Việt sử ký
toàn thư. Ngược lại, một trong những việc ấy lại do Đại Việt sử lược,
một tác phẩm sử học đời Trần hiện còn chép.