CHÚ THÍCH THIỀN UYỂN TẬP ANH
BÀI TỰA IN LẠI
THIỀN UYỂN TẬP ANH
(1) Uy Âm
Phật, tức Đức Phật đầu tiên của thế giới Không kiếp, trước đó không có
một Đức Phật nào hết. Cho nên tên Đức Phật này được dùng để chỉ cho ranh
giới giữa giai đoạn lúc chưa có sự phân biệt của chúng sanh và giai
đoạn sau đó khi đã có sự phân biệt. Xem Pháp hoa thông nghĩa 6 và Tổ
đình sự uyển 5.
(2)
Ta bà: Phạn: Sahà, tên thế giới của chúng ta, được định nghĩa là thế
giới “chịu nhận ba thứ độc (tức tham, sân, si) và các loại phiền não”.
Xem Bi hoa kinh 5 tờ 119c 22-23
(3) Cửu kiếp lịch tu: Điển tích Phật Thích Ca, nhờ ngợi ca Đức Phật Phất Sa bằng bài tán:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỉ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
trong
khi đang làm một vị Bồ tát trên đường đi tới giác ngộ, mà đã có thể
thâu ngắn thời gian tu hành của mình bằng cách vượt được chín kiếp, để
trở thành Phật Thích Ca, trong khi Di Lặc còn phải đợi chín kiếp nữa.
Xem Đại trí độ luận 25 tờ 87b27.
(4)
Lục đạo, cũng gọi là Lục thú, tức chỉ cho sáu con đường sống sáu lối
sống, đây là con đường sống của thiên thần, của con người, của phi
thiên, của súc sanh, của quỉ đói và của địa ngục.
(5)
Tam đồ, tức ba con đường, đấy là: 1. con đường lửa chỉ cho chỗ lửa dữ
của địa ngục, 2. con đường máu chỉ cho thế giới ăn nuốt lấy sinh mạng
của nhau tức loài súc sanh và 3. con đường đao kiếm chỉ cho thế giới đấu
tranh bức hiếp lẫn nhau tức loài quỷ đói. Xem Tứ giải thoát kinh.
(6)
Tức Bồ Đề Đạt Mạ, Phạn Bodhidharma, đến Trung Quốc vào năm 520 và mất
năm 528, người được coi thực sự khai sáng ra nền thiền Trung Quốc. Về sự
tích, xem Truyền đăng lục 3 tờ 217a9-220b25 và Tục Cao tăng truyện 16
tờ 551b27-c26 và Lịch đại pháp bảo ký tờ 180 c3- 181a18.
(7)
Tức Phật Đồ Trừng (232- 348). Chú sen có nghĩa là đọc chú làm cho hoa
sen mọc lên từ một bát nước. Sự tích lấy từ chuyện Trừng gặp Thạch Lặc,
và Lặc hỏi Trừng về chuyện “Đạo Phật có linh nghiệm gì? Trừng biết Lặc
không hiểu tới lẽ sâu của Đạo, nên có thể dùng đạo thuật để làm bằng cớ,
nhân đó nói rằng: “Đạo cả tuy xa, nhưng có thể lấy việc gần để làm
chứng”. Bèn lấy một cái bình bát đựng đầy nước, đốt hương và niệm chú
thì phút chốc mọc lên một hoa sen xanh, sắc đẹp sáng chói mắt. Lặc do đó
tin phục. Xem Cao tăng truyện 9 tờ 383c3-10.
(8)
Huyền trung chi huyền. Đây là một trong ba thứ huyền của phái Lâm Tế,
đấy là: 1; Huyền trung huyền, 2; Thể trung huyền và 3; Cú trung huyền.
Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 311b19. Xem thêm Lão Tử, Đạo đức kinh
thượng thiên tờ 1b3, Huyền chi hựu huyền, Chúng diệu chi môn.
(9)
Sáu trần, tức sáu đối tượng của sáu giác quan, mà thông thường thì gồm
sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của tai, hương là đối tượng
của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của thân, và pháp
là đối tượng của ý.
Bốn
tướng, tức bốn diễn trình của sự vật, đấy là sự sinh ra, sự trì giữ, sự
thay đổi và sự diệt chết. Xem Câu Xá luận 5 tờ 27a12- 20a9.
(10)
Chiên đường: Điển lấy từ việc Dương Chấn (?- 124) dạy học, trước nhà có
treo bảng một con chim ngậm trong mỏ ba con cá chiên, nên sau này người
ta gọi nhà chiên hay chiên đường, để chỉ chỗ các thầy đồ dạy học. Xem
Hậu hán thư 84 tờ 1b5-9.
(11) Dẫn Chu dịch: “Quẻ Mông”: “Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã”. Xem Chu dịch 1 tờ 9a3.
1. THIỀN SƯ VÔ NGÔN THÔNG
(1) Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc:
(a).
Truyền đăng lục 9 ĐTK. 2076, tờ 268a28- b13: Hoài Nhượng thiền sư, đệ
tam thế Hồng châu Bách Trượng Hoài Hải thiền sư pháp tự Quảng Châu, An
hòa tự, Thông thiền sư giả, Vụ châu, Song Lâm tự thọ nghiệp, tự ấu, quả
ngôn, thời nhơn vị chi Bất Ngữ Thông dã. Nhân lễ Phật, hữu thiền giả vấn
vân: “Tọa chủ lễ để thị thập ma?” Sư vân: “Thị Phật” Thiền giả nãi chỉ
tượng vân: “Giá cá thị hà vật?” Sư vô đối. Chí dạ, cụ oai nghi, lễ vấn
thiền giả vân” Kim nhật sở vấn, mỗ giáp vị tri ý chỉ như hà”. Thiền giả
vân: “Tọa chủ kỷ hạ da?” Sư vân: “Thập hạ” Thiền giả vân: “Hoàn tằng
xuất gia dã vị?” Sư chuyển mang nhiên. Thiền giả vân: “Nhược dã bất hội,
bách hạ hề vi?” Thiền giả nãi mệnh Sư đồng tham Mã Tổ. Hành chí Giang
Tây, Mã Tổ dĩ viên tịch. Nãi yết Bách Trượng, đôn thích nghi tình. Hữu
nhân vấn: “Sư thị thiền sư phủ?” Sư vân: “Bần đạo bất tằng học thiền”.
Sư lương cửu khước triệu kỳ nhân. Kỳ nhân ứng nặc. Sư chỉ tông lư thọ
tử. (kỳ nhân vô đối). Sư nhất nhật linh Ngưỡng Sơn tương sàng tử lai.
Ngưỡng Sơn tương đáo. Sư vân: “Khước tống hoàn bản xứ. Ngưỡng Sơn tùng
chi. Sư vân: “Sàng tử na biên thị thập ma vật?” Ngưỡng Sơn vân: “Vô vật”
Sư vân: “Giá biên thị thập ma vật?” Ngưỡng Sơn vân: “Vô vật” Sư triệu:
“Huệ Tịch” Ngưỡng Sơn vân: “Nặc” Sư vân “Khứ”.
(b). Liêu đăng hội yếu 7(Vạn 136 tờ 275a15), chép giản lược hơn, và nói Huệ Tịch lúc bấy giờ còn là một Sa di.
(c).
Đại Quang Minh tạng, quyển trung (Vạn 137 tờ 422b), chép từ đoạn “có
người hỏi Sư có phải thiền sư?” vân vân, như Truyền đăng lục (đã dẫn),
cuối cùng có lời bình của Bản Đàm: “Cổ nhân tự lợi căn thượng trí dĩ
hoàn nhất đẳng phác mậu chi tư, đại lược tương tợ. Kỳ thọ đạo ký bất
tương viễn, nhi dụng xứ diệc nhiên. Bất Ngữ Thông dĩ hạ chí vu Đại An
chư sư, thân tự Bách Trượng lô bị trung lai, nhi đoàn liễu tinh kim,
lược vô chỉ uế. Thử đản trước kỳ nhất thời ứng cơ nhi dĩ; yếu nghiệm kỳ
khí lực tương địch, lợi độn tương ma, tự phi kỳ gia đệ huynh, thục cảm
khinh xúc?”
(d).
Ngũ đăng hội nguyên 4 (Vạn 138 tờ 63b), chép như Truyền đăng lục, đã
dẫn, từ đầu đến cuối, chi tiết đối thoại với Ngưỡng Sơn có khác một
chút: “Sư nhất nhật triệu Ngưỡng Sơn: “Tương sàng tử lai”. Sơn tương
đáo. Sư viết: “Khước tống bản xứ trước”. Sơn tùng chi. Sư triệu: “Huệ
Tịch”. Sơn ứng nặc. Sư viết: “Sàng tử na biên thị thậm ma vật?”. Sơn
viết: “Chẩm tử” giá biên thị thậm ma vật?” Sơn viết: “Vô vật” Sư phục
triệu: “Huệ Tịch”. Sơn ứng nặc. Sư viết: “Thị thậm ma” Sơn vô đối. Sư
viết: “Khứ”.
(e). Ngũ đăng nghiêm thống 4 tờ 103b. và Chỉ nguyệt lục 11 tờ 125c cả hai bài đều chép như Ngũ đăng hội nguyên đã dẫn.
(2)
Tức huyện Tiên Du. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, nói: “Huyện
Tiên Du ở xiên về phía đông bắc phủ lỵ Từ Sơn 10 dặm, rộng từ đông sang
tây 18 dặm, nam xuống bắc 10 dặm, phía đông 10 dặm thì đến địa giới
huyện Quế Dương, tây 7 dặm thì đến địa giới huyện Yên Phong, nam 11 dặm
thì đến địa giới huyện Siêu Loại của phủ Thuận An, bắc 6 dặm đến địa
giới huyện Yên Phong. Đời Trần về trước nguyên đã có tên huyện này. Sử
ký nói Nguyễn Thủ Tiệp chiếm cứ Tiên Du, tức là ở đây4. Đời thuộc Minh,
châu Vũ Ninh gồm lấy nó và thuộc phủ Bắc Giang. Đời Lê Quang Thuận, đổi
nó thuộc phủ Từ Sơn. Triều ta nhân theo đấy. Nó gồm hai tổng, 56 xã
thôn”. Nay tức là huyện Tiên Du, tỉnh Hà Bắc. Làng Phù Đổng ở tại huyện
này. Chùa Kiến Sơ, như truyện của Cảm Thành xác định là do một nhà giàu
họ Nguyễn của làng đấy đem nhà mình cải thành chùa, rồi đem cúng cho
Cảm Thành có lẽ khoảng năm 820 hay trước đó không lâu.
Huyện
Tiên Du này, vào thời kỳ nhà Lý chắc gọi là quận Tiên Du, bởi vì trong
truyện Cảm Thành nói Thành người Tiên Du, xuất gia ở núi Tiên Du quận
mình”.
(3) Vụ châu, địa danh đời Đường, sau đổi là Tư châu. Nay là huyện lỵ huyện Vụ xuyên, Quý châu.
(4)
Tức Truyền đăng lục do Đạo Nguyên khởi viết năm 1004. Nó gồm cả thảy 30
quyển, mô tả lịch sử truyền thừa của thiền tông từ Phật Tỳ Bà Thi trở
xuống cho tới thiền sư Huệ Thành (941- 1007). Năm Cảnh Đức thứ 4 (1007)
là năm ông hoàn thành tác phẩm này. Vì nó được viết trong khoảng Cảnh
Đức (1004- 1007) đời Tống Chân Tôn nên cũng có tên Cảnh Đức Truyền đăng
lục, hiện ở trong Đại tạng kinh số ĐTK 2076.
(5)
Tức thiền sư Đạo Nhất (709- 788) ở Giang Tây, là học trò đắc pháp duy
nhất của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sư người họ Mã, nên cũng thường gọi là Mã
Tổ. Về tiểu sử, xem Truyền đăng lục 6 tờ 245 c23-246c6.
(6) Giang Tây, vùng đất ở phía nam thuộc lưu vực trung bộ sông Dương Tử. Tương đương với phần đất tỉnh Giang Tây ngày nay.
(7)
Bách Trượng Hoài Hải (749- 814) là học trò của Mã Tổ. Sư người Trường
Lạc, Phúc Châu. Sau khi đắc pháp với Mã Tổ rồi, bèn đến tại núi Đại Hùng
ở Hồng Châu, vì ở ngọn núi này cao dốc nên cũng gọi là Bách Trượng. Xem
Truyền đăng lục 6 tờ 249b26- 250c. Ở Trung Quốc, Hải được coi như là vị
thầy của hai người học trò đã khai sinh ra hai phái thiền lớn của Trung
Quốc, đấy là Linh Hựu ở Qui Sơn, người đã cùng với học trò mình là Huệ
Tịch ở Ngưỡng Sơn khai sinh ra phái thiền Qui Ngưỡng, và Hy Vận ở Hoàng
Bá, người đã dạy cho học trò mình là Nghĩa Huyền ở Lâm Tế thành lập nên
phái thiền Lâm Tế. Ở đây, ta có thể nói Hải còn có một người học trò
thứ ba cũng khai sinh ra một thiền phái lớn khác ngoài đất Trung Quốc,
đấy là thiền phái Kiến Sơ của Vô Ngôn Thông ở Việt Nam.
(8)
Tham chiếu Truyền đăng lục 6 tờ 250a17: thiền sư Bách Trượng, có tăng
hỏi: “Như hà thị Đại thừa đốn ngộ pháp môn?” Sư viết: “Nhữ đẳng tiên
hiết chư duyên, hưu tức vạn sự; thiện dữ bất thiện, thế, xuất thế gian,
nhất thiết chư pháp, mạc ký ,mạc ức, mạc duyên niệm, phóng xả thân tâm
linh kỳ tự tại. Tâm như mộc thạch, vô sở biện biệt. Tâm vô sở hành. Tâm
địa nhược không, tuệ nhật tự hiển. Như vân khai nhật xuất (....)”
(9) Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (814-890); Xem Truyền đăng lục 11 tờ 282a-283c; Huệ Tịch Ngữ Lục ĐTK 1910, tr. 582a và tr. 584c23.
(10) Tức chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng.
(11)
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744), đệ tử đắc pháp của Huệ Năng và thầy của
Mã Tổ Đạo Nhất. Xem Truyền đăng lục 5 tờ 240c7-241a26.
(12) Nguyên văn:
Nhất thiết chư pháp,
Giai tùng tâm sanh.
Tâm vô sở sanh,
Pháp vô sở trụ.
Nhược đạt tâm địa,
Sở tác vô ngại.
Phi ngộ thượng căn,
Thận vật khinh hứa.
So
sánh Truyền đăng lục 5 tờ 241a13: (Nam Nhạc thiền sư nói:) Nhất thiết
pháp giai tùng tâm sinh, tâm vô sở sinh, pháp vô năng trụ. Nhược đạt tâm
địa, sở tác vô ngại. Phi ngộ thượng căn, nghi thận từ tai.
(13) Trà tỳ, cũng gọi là Xà duy, là những phiên âm của chữ Phạn savya, nghĩa là sự đốt xác người sau khi chết, tức hỏa táng.
Xá
lợi, phiên âm của chữ phạn sàrìra, chỉ cho số xương cốt còn lại sau khi
đốt, mà người ta thường gọi là linh cốt của đức Phật và các vị tổ.
(14)
Nguyên văn: Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính ngọ chính nguyệt thập nhị
nhật nhị thập bát niên. Câu này đoạn đầu thật quá rõ ràng, đây là “Bấy
giờ ngày 12 tháng giêng năm Bính Ngọ. Đường Bảo Lịch thứ hai”. Điểm khó
khăn nằm ở bốn chữ cuối cùng, mà nhiều người đã nhận thấy. Xem
Gaspardone, Bibliographie annamite tr.174 chẳng hạn. Chúng tôi nghĩ rằng
bốn chữ “nhị thập bát niên” nếu thêm chữ “thọ” vào trước chữ “nhị” và
sửa chữ nhị thành chữ “lục”, thì ta sẽ có “thọ lục thập bát niên”. Và
tuổi thọ của Vô Ngôn Thông chắc chắn phải là 68, như ta có thể truy ra
sau. Cứ vào tiểu sử, ta biết Thông xuất gia từ nhỏ, vì Thông “thiếu mộ
không môn, bất trị gia sản”. Vậy, với tư cách một đồng chân nhập đạo,
với sự “quả ngôn mặc thức” của mình, Thông chắc chắn phải thọ giới Tỳ
kheo, để thực sự làm một nhà sư Phật giáo vào lúc Thông 20 tuổi. Đến khi
Thông gặp vị thiền khách thì bấy giờ theo chính lời Thông, Thông đã
trải qua 10 hạ, nghĩa là đã trải qua 10 năm từ lúc thọ giới. Nói cách
khác, khi gặp vị thiền khách Thông đã 30 tuổi. Năm Thông 30 tuổi này
cũng là năm Thông được vị thiền khách vừa nói đem đến yết kiến Mã Tổ Đạo
Nhất. “Nhưng vừa tới Giang Tây thì Tổ đã thị tịch”. Tổ đây tức Mã Tổ,
và năm Mã Tổ mất là năm 788. Vậy, năm 788 này cũng là năm Thông 30 tuổi.
Từ đó, suy ra năm sinh của Thông tức rơi vào năm 759. Bấy giờ, ta biết
Thông mất vào năm 826. Như thế tuổi thọ của Thông tính theo lối đông
phương đúng là 68 tuổi. Do đó, chúng tôi nghĩ “nhị thập bát niên” là một
viết sai và thiếu của “thọ lục thập bát niên”. Viết thiếu chữ , trường
hợp này Thiền uyển tập anh bản in năm 1715 có khá nhiều. Chẳng hạn, ở tờ
17b6 hai cái tên khá quen thuộc là Bảo Tính và Minh Tâm thì bị viết
thành Bảo Tính Minh. Về việc chữ lục bị viết thành chữ nhị thì cũng khá
dễ xẩy ra, vì tự dạng chúng rất dễ lầm.
(15)
Nguyên văn: Hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu nhị thập tứ niên. Câu này cùng có
một trường hợp tương tự như câu trên, và chúng tôi đề nghị cách đọc và
hiểu nó thế này. Thứ nhất, chữ hựu chắc phải là chữ dĩ viết lộn, bởi
dáng chữ khá giống nhau. Tiếp đến, những chữ nhị thập tứ niên, chúng tôi
nghĩ chúng là một viết lộn, sai và thiếu cũng có thể những chữ sau
“phàm ngũ bách thập nhị niên”. Nhị thập là một viết ngược của thập nhị.
Sự viết ngược này xuất hiện khá nhiều trong Thiền uyển tập anh, như
Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm trong truyện của Cửu Chi.
Chữ tứ chắc là một viết sai và ngược của chữ bách, bởi dáng chữ chúng
khác giống nhau. Như vậy, nhị thập tứ niên đúng ra phải đọc bách thập
nhị niên. Cuối cùng, vấn đề thêm hai chữ “phàm ngũ” Ngó vào tự dạng của
hai chữ đấy, ta thấy chúng có những nét rất giống với chữ sửu đi trước.
Có thể, người hiệu đính bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh, vì để
bản đã lu mờ hay bị mọt cắn, đã không thấy ý nghĩa của chữ phàm ngũ ấy
và coi chúng như những điển tự của chữ sửu đứng trước, nên đã loại ra.
Còn chữ bách thập nhị, một khi đã loại chữ phàm ngũ thì bỏ chữ bách,
hoặc sửa nó lại thành chữ tứ hay một chữ gì đó. Trong trường hợp này, có
lẽ họ đã sửa thành chữ tứ và tạo nên sự viết lộn ngược trên. Dầu sao đi
nữa, chúng tôi nghĩ rằng một đề nghị giải quyết một đoạn văn như thế
không đến nỗi hoàn toàn không có lý. Và lý do cho đề nghị ấy là sau.
Ta
biết tác giả Thiền uyển tập anh biết khác nhiều về Truyền đăng lục của
Đạo Nguyên. Mà cứ theo lối viết của Nguyên thì sau những vị tổ chính yếu
của thiền tông Trung Quốc như Bồ Đề Đạt Mạ cho đến Huệ Năng mất, Nguyên
đều tính từ năm mất của họ đến năm Nguyên đang viết Truyền đăng lục,
tức năm Cảnh Đức thứ nhất (1004), và nói “đến nay năm Giáp Thìn Cảnh Đức
thứ nhất, phàm bao nhiêu năm. Ví dụ, về Huệ Năng thì ông nói “đến nay
năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm 292 năm”. Năng mất năm 713, đến năm
1004 thì quả là 292 năm. Trường hợp Thiền uyển tập anh cũng vậy. Tác
giả muốn tính cho ta biết từ khi Vô Ngôn Thông mất đi cho tới lúc ông
đang viết tác phẩm của mình gồm cả thảy bao nhiêu. Thông mất năm 826 đến
đời Trần, Khai Hựu Đinh Sửu (1337), thì Thông cách ta đúng 512 năm theo
lối tính phương đông. Đấy là lý do tại sao chúng tôi đề nghị sửa nhị
thập tứ niên thành phàm ngũ bách thập nhị niên và dịch theo đó.
(16)
Nguyên văn: Ngã việt thiền học tự Sư chi thỉ. Câu này đã làm một số
người như Gaspardone (sđd.). tự hỏi làm sao tác giả Thiền uyển tập anh
có thể viết một câu như thế, trong khi biết rõ ràng rằng, thiền học Việt
Nam không phải bắt đầu với Vô Ngôn Thông, mà là với Tỳ Ni Đà Lưu Chi
như chính ông đã ghi lại. Phải chăng đã có những sai lầm văn cú trong
lúc truyền bản? Thực ra, viết như thế, tác giả Thiền uyển tập anh muốn
phơi bày quan điểm và lập trường viết sử của mình, để từ đó biện minh
cho việc ông đã bắt đầu cuốn sử về thiền tông Việt Nam của mình bằng
dòng Vô Ngôn Thông. Nói khác đi, thiền của Vô Ngôn Thông mới là phái
thiền chính thống theo quan niệm của ông. Thiền của Tỳ Ni Đa Lưu Chi dù
có xưa hơn vẫn không thể có danh dự đó được. Viết về lịch sử thiền tông
Việt Nam cho đến thời ông đã có nhiều đánh giá khác nhau, mà việc nổi
bật nhất là việc Thông Biện không thừa nhận có phái thiền của Nguyễn Bát
Nhã, tức thiền phái Thảo Đường, và thiền phái của Nguyễn Đại Điên. Quan
điểm này sau đó được Thường Chiếu, tác giả của Nam tông tự pháp đồ,
chấp nhận, đến nổi Quách Thần Nghi phải tra hỏi. Nhưng đến tác giả Thiền
uyển tập anh dù quan điểm vừa nói vẫn đang còn có giá trị, ông đã phải
thêm vào phần ghi lại sự truyền thừa của phái Thảo Đường. Ta không biết,
đây có phải là vì ảnh hưởng của Huệ Nhật, tác giả Liệt tổ yếu ngữ, một
người được tác giả Thiền uyển tập anh Tông trọng dẫn ra với một niềm
tôn trọng và tin tưởng khá vô biên? Và Huệ Nhật, một sử gia Phật giáo
khác thời Lý Trần, phải chăng đã gồm thêm phái Thảo Đường trong cuốn
sách của mình ?
Ngoài
ra, như đã chứng minh trong phần nghiên cứu, tác giả Thiền uyển tập anh
thuộc phái thiền Trúc Lâm. Mà phái thiền đấy xuất phát từ dòng Kiến Sơ.
Cho nên không có gì là lạ khi ông bắt đầu thiền Việt Nam từ Vô Ngôn
Thông.
2. THIỀN SƯ CẢM THÀNH
(1)
Bản đời Lê viết “Tánh Thị”, thì Thị đây chỉ họ của Cảm Thành. Thành như
vậy họ Thị. Họ Thị không phải là không biết đến trong lịch sử. Tam quốc
chí 63 còn ghi lại một nhân vật của triều Tôn Ngô tên Thị Nghi, rồi chú
rằng: Nghi nguyên có họ Thị nhưng sau viết cải lại thành Thị. Bản đời
Nguyễn trước chữ “Tánh Thị”, viết thêm hai chữ “vị tường”. Đây chắc là
một tăng bổ của Phúc Điền, nếu không phải là của Tiêu sơn tự cổ bản.
(2)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a6-7 nói: “Phật Tích ở tại huyện
Tiên Du, lại có tên là núi Tiên Du. Xưa có tiều phu Vương Chất vào thấy
hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng, bèn dựa búa đứng xem. Xem xong
cuộc cờ, ngó lại thì không thấy ai cả, mà cán búa đã mục bao giờ, nên
lại tên là thôn Lạn Kha”. Vậy núi Tiên Du cũng có tên là núi Phật Tích
hay núi Lạn Kha. Và núi Lạn Kha này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc
Ninh, nói: “Núi Lạn Kha ở tại huyện Tiên Du về phía nam cách bốn dặm,
trên núi có ao Thú Long, trên chóp Thất Sơn có bàn cờ đá. Tương truyền
xưa có tiều phu Vương Chất vào núi thấy hai ông già đánh cờ dưới cây
tùng bèn dựa búa đứng nhìn, đến khi cuộc cờ tan, mà không biết cán đã
mục tan. Dưới núi có động tên Vạn Phúc, cảnh trí thanh vắng tương truyền
đời Lý dựng nên. Sử ký nói “Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du đánh với
An Dương Vương, tức là nơi đây. Truyền kỳ lục nói Từ Thức cởi áo cừu cho
Tiên nữ, tức cũng ở núi đây”. Tuy nhiên, An nam chí lược 1 tờ 22 cũng
ghi: “Núi Tiên Du có bàn đá lấp loáng dấu những đường gạch, tương truyền
Tiên đánh cờ trên đó, sau bọn con gái đi hái củi giao hợp ở trên đó nên
nó lật xuống và vỡ ra”. Nay tức núi Lạn Kha, huyện Tiên Du, Hà Bắc.
(3)
Kinh Pháp hoa, phẩm Phương tiện: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện ở đời”. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 1 tờ 7a21.
(4)
Truyền đăng lục 1tờ 205b.26-28 nói, khi Phật sắp nhập diệt, Phật nói
với đệ tử Ma Ha Ca Diếp rằng: “Ta đem thanh tịnh pháp nhãn, niết bàn
diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu chánh pháp, đem giao cho ngươi,
ngươi nên giữ gìn”.
(6)
Cả đoạn từ “Khi Đạt Mạ mới đến” cho tới “không nên truyền nữa” ở đây là
dẫn y nguyên văn câu nói của Hoằng Nhẫn cho Huệ Năng lúc Nhẫn truyền ca
sa cho Năng, mà cả Pháp bảo đàn kinh tờ 394a28 lẫn Truyền đăng lục 3tờ
223a20 đều có chép. Nguyên văn nó đọc: “Tích Đạt Mạ sơ chí, nhân vị chi
tín, cố truyền y bát dĩ minh đắc pháp. Kim tín tâm di thục, y nãi tranh
đoan. Chỉ ư nhữ thân, bất phục truyền dã”. Vì dẫn nguyên văn này, cho
nên chữ ông trong đoạn này ta phải hiểu là chỉ Huệ Năng.
(7) Sự truyền thừa nói đến trong đoạn này, ta có thể vẽ thành đồ biểu như sau:
Thích Ca Mâu Ni
Ma Ha Ca Diếp
Bồ Đề Đạt Mạ (?-528)
Huệ Khả (487-593)
Tăng Xán (?-606)
Đạo Tín (580-651)
Hoằng Nhẫn (601-674)
Huệ Năng (638-713)
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744)
Mã Tổ Đạo Nhất (709-788)
Bách Trượng Hoài Hải (720-814)
(8) Nguyên văn: Nhất hoa khai ngũ diệp. Đạt Mạï truyền pháp cho Huệ Khả đọc bài kệ
Ngô bản lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c 17-18
(9) Nguyên văn: Tiềm phù mật chứng, thiên vạn hữu dư. Lời phú chúc của Đạt Mạï cho Huệ Khả cũng nói:
Tiềm phù mật chứng
Thiên vạn hữu dư
Nhữ đương xiển dương
Vật khinh vị ngộ
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c15
(10) Nguyên văn : Xúc đồ thành trệ. hòa thượng Bảo Chí, Thập tứ khoa tụng:
Ngu nhân bị tha cấm hệ
Trí giả tạo tác giai không
Thanh văn xúc đồ vi trệ
Đại sĩ nhục nhãn viên thông
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450 c13-14. Xem thêm Bích nham lục 5 tắc 4 (tờ 182a5).
Nguyên
văn: Ngã bản vô ngôn. Có thể dịch: ”Ta vốn không lời”. Vô Ngôn có thể
chỉ Vô Ngôn Thông, cũng có thể chỉ cái chân lý không thể diễn tả được.
3. THIỀN SƯ THIỆN HỘI
(1)
Đây chắc là một viết đảo của tên chùa Thiền Định tại làng Khương Tự
huyện Siêu Loại ngày xưa, nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc. Đại nam nhất
thống chí tỉnh Bắc Ninh, viết: “Chùa Diên Ứng ở tại xã Khương Tự, huyện
Siêu Loại, có bốn pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện
rất có dấu thiêng”. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa một trăm gian, tháp
chín tầng, cầu chín nhịp, nền cũ nay hãy còn. Xét Pháp Vân Phật truyện
thì thuở Sĩ Nhiếp làm thái thú đóng tại thành Luy Lâu, ở núi xanh phía
tây thành ấy có một vị Sư tên Khâu Đà La. Có người con gái của Tu Định
tên A Man bị Sư phạm đến mà có thai, sinh ra một đứa con gái. Sư đem
giấu trong một cây to giữa núi sâu, sau bị gió mưa lớn, cây trốc gốc,
nổi trong nước trôi đến bến Luy Lâu. Người ta cho là lạ, vớt cây lên bờ,
đẽo thành bốn pho tượng Phật, rồi cất chùa tên là Thiền định, tức nay
là chùa Diên Ứng để đặt bốn tượng ấy mà thờ. Về sau mỗi khi cầu mưa đếu
có linh ứng, nên đặt tên là Pháp Vân. Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Thập
di ký của Lý Tế Xuyên nói: “Người Cổ Châu mỗi năm mừng ngày Phật Đản
đều họp nhau ở chùa Thiền Định”. Đời Trần Nghệ Tông có khen ban mỹ hiệu.
Sử đời Lê chép Lê Nhân Tông vào năm Thái Hòa thứ 6 (1448) sai Lê Thái
úy đến Cổ châu rước tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên tại kinh thành
để cầu mưa”.
(2)
Tức huyện Siêu Loại. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh viết: “Huyện
Siêu Loại, từ đông sang tây 27 dặm, từ nam xuống bắc 9 dặm, đông đến
địa phận huyện Lương Tài 7 dặm, tây đến địa phận huyện Gia Lâm thuộc
phân phủ 6 dặm, bắc đến địa giới huyện Gia Bình 3 dặm, thuộc đất Luy Lâu
đời Hán. Sử ký nói Sứ quân Lý (Lãng Công) chiếm cứ Siêu Loại, tức là ở
đây. Năm Thiên Huống Bảo Tượng (1068) đổi làng Thổ Lôi làm làng Siêu
Loại (xin ghi vào đây để tiện tham khảo), sau đổi làm huyện. Đời thuộc
Minh nó thuộc Bắc Giang. Lê Quang Thuận cải thuộc phủ Thuận An và do phủ
đó kiêm lý. Triều ta nhân theo. Nó coi 6 tổng 68 xã thôn”. Hiện nay là
huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
Khâm
định Việt sử thông giám cương mục chính biên 3 tờ 26b6 nói: “Làng Siêu
Loại ở tại huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Thuận Quang”. Nhưng
hiển nhiên xã Thuận Quang hiện không có chùa Thiền Định. Do đó, làng
Siêu Loại đời Lý phải coi là tương đương với huyện Siêu Loại tức huyện
Thuận Thành ngày nay.
(3)
Điển Lãnh, tên làng. Truyện này nói Thiện Hội “lúc nhỏ xuất gia với Sư
Tiệm Nguyên chùa Đông Lâm cùng làng”. Vậy chùa Đông Lâm ở tại làng Điển
Lãnh. Bây giờ cứ Cổ châu Pháp Vân phật viên hạnh ngữ lục tờ 16b 3-4 ta
biết một ngôi chùa tên Đông Lâm ở Điển Lãnh, và đây là chùa thờ Phật
Pháp Vân thời Lý Nhân Tông. Vậy Điển Lãnh cũng là Điển Linh và ở tại
làng Khương Tự ngày nay. Ngoài chùa Đông Lâm, làng này còn có chùa Phúc
Thánh mà Minh Trí (tức Thiền Trí) trụ trì.
(4)
Chùa này, Đại Việt sử lược 2 tờ 10b3 nói dựng vào năm Long Thụy Thái
Bình năm thứ hai (1055), nhưng không nói rõ ở đâu. Cứ theo đây thì nó
phải ở làng Điển Lãnh. Truyện của thiền sư Minh Trí ở dưới còn ghi thêm
một chùa khác nữa cũng thuộc Điển Lãnh đó là chùa Phúc Thánh. Chùa này
theo Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 6b4 ghi vào năm 1144 Lý Anh Tông cũng
cho dựng một chùa tên Phúc Thánh.
(5) Giáo, chỉ Phật giáo được truyền thừa bằng kinh điển; các tông phái ngoài thiền tông.
(6)
Tham chiếu, Phú pháp tạng nhân duyên truyện 1 tờ 297b6-8: Khi sắp diệt
độ, Phật bảo đại đệ tử Ma Ha Ca Diếp: “Ngươi nay nên biết, trong vô
lượng a tăng kỳ kiếp, ta vì chúng sanh, siêng tu khổ hạnh, một lòng
chuyên tìm pháp không gì hơn. Nguyện xưa của ta như vậy, nay đã thỏa
rồi”.
(7)
Vị tằng thuyết nhất tự. Các thiền gia thường nói nó xuất xứ từ kinh Văn
Thù. Hiện có một số kinh mang tên Văn Thù hay Văn Thù là người đối
thoại chính. Nhưng không có kinh nào có câu đó. Ý nghĩa tương tự cũng có
thể tìm thấy trong kinh Lăng già 3 tờ 498 c17-19: “Ngã tùng mỗ dạ đắc
tối chánh giác nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết bàn, trung gian nãi chí bất
thuyết nhất tự”.
(8)
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Tầm văn thủ chứng giả ích trệ, khổ hạnh cầu
Phật giả câu mê, ly tâm cầu Phật dã ngoại đạo, chấp tâm thị Phật dã vi
ma”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 248a1-3.
(9)
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Hữu hành giả vấn: “Tức tâm thị Phật, na cá
thị Phật?”. Sư vân: “Nhữ nghi na cá bất thị Phật chỉ xuất khán”. Vô đối.
Sư vân: “Đạt tức biên cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ”. Xem Truyền đăng
lục 6 tờ 247a22- 24 .
4. THIỀN SƯ VÂN PHONG
(1)
Tây hồ chí, phần về Cổ tích, ghi: “Chùa Khai Quốc ở tại bờ sông Nhị Hà.
Phía bắc của hồ (Tây), nay là bến Yên Phụ mé ngoài đê. Nguyên Nam Đế
nhà Tiền Lý nhân nền cũ của chùa An Trì của triều Hồng Bàng, mà dựng
lên, nên có tên Khai Quốc. Sau danh tăng triều Ngô là Nguyễn Vân Phong
người Từ Liêm tu bổ lại. Trong khoảng hai triều Đinh và Lê, Quốc sư Ngô
Khuông Việt thường trú trì tại đó. Nhà Lý trùng tu lại”. Đến phần về
chùa chiền, Tây hồ chí lại ghi: “Chùa Khai Quốc do Nam Đế triều Tiền Lý
nhân nền cũ chùa An Trì, mà dựng lên. Chùa ở bến Yên Phụ trên bờ sông
phía ngoài đê thuộc mạn bắc hồ. Khi họ Lý dời đô đến, có sửa sang lại.
Những danh tăng như Lý Thảo Đường, Ngô Thông Biện, đến Viên Học và Tịnh
Không đều có ở đó. Triều Trần thường hay đến chơi. Trong khoảng Đại Bảo
nhà Tiền (phải đọc là Hậu) Lê (1428-1789), vua ban tên An Quốc. Tiên
nhân Trần Tú Uyên sinh ở đó nên có tên vậy. Trong khoảng Hoằng Định
(1600- 1618) nhà Hậu Lê, bờ sông bị lở, người trong ấp dời vào bên hồ,
nay là chùa Trấn Bắc”.
Về
chùa Trấn Bắc này, nó viết tiếp: “Trấn Bắc là chùa An Quốc dời vào, đổi
tên như vậy, nay ở trong phần đất phường Yên Phụ. Bãi Rùa trên hồ nguyên
có điện Hàm Nguyên của triều Trần việc dựng điện có nói trong phần về
cổ tích, nền cũ nó vẫn còn. Năm Lê Hoằng Định thứ 16 (1615) sông lở,
chùa gần sụp. Người trong ấp dời vào dựng lại ở đấy. Trong khoảng Chính
Hòa (1680- 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn Quốc. Trong khoảng
Vĩnh Hựu (1735-1739) và Cảnh Hưng (1740- 1786) có những danh tăng như Hà
Giác Quan, Đỗ Tu Ma, Đỗ Trung Nghĩa đều ở đó. Ba tháp Thông Quang, Linh
Quang và Viên Quang cùng tượng của họ hiện còn. Đời Gia Long của triều
ta, Bùi phương trượng kế đăng, tháp Tịch Quang của Sư này nay vẫn còn.
Đầu đời Thiệu Trị, vua tuần du Bắc Hà, đổi tên chùa là Trấn Bắc, sắc cho
quan tỉnh làm bảng vàng treo, nay còn”. Đó là lai lịch chùa Khai Quốc
của thủ đô Hà Nội viết vào khoảng sau năm 1851, năm Nguyễn Đăng Giai
được bổ làm kinh lược sứ sáu tỉnh miền Bắc, mà Tây hồ chí nhắc tới. Đây
là niên đại chậm nhất xuất hiện trong nó. Về chùa Trấn Bắc này, Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Hà Nội, viết: “Chùa Trấn Bắc vốn tên là chùa Trấn
Quốc, ở bên hồ Tây, phường Yên Phụ, huyện Vĩnh Thuận, xây vào khoảng Lê
Hoằng Định (1600-1618) đến khoảng Vĩnh Tộ (1619-1628) thì trùng tu nên
cơ sở trở nên rộng rãi, cảnh trí trở nên đẹp đẽ. Bi ký của Trạng nguyên
Nguyễn Xuân Chính viết đang còn. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) triều ta
vua ban cho chùa 20 lạng bạc. Đến năm Thiệu Trị thứ hai, vua xa giá đến
chơi cúng chùa một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền kẽm, đổi biển
chùa làm chùa Trấn Bắc”.
(2)
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6 nói: “Vào thời Lý, Trần, đặt trấn Vĩnh
Khương ở Từ Liêm”. Về huyện Từ Liêm, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà
Nội, viết: “Huyện Từ Liêm, từ đông sang tây rộng 11 dặm, từ bắc xuống
nam rộng 14 dặm, đông đến huyện Vĩnh Thuận một dặm, tây đến địa giới
huyện Đan Phụng 10 dặm, nam đến địa giới huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín
5 dặm, bắc đến bờ sông Nhị Hà đối diện với địa giới huyện Đông Ngạn
tỉnh Bắc Ninh và huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây 9 dặm. Đời Hán là đất
huyện Luy Lâu. Đời Tùy đổi làm huyện Giao Chỉ. Đường Vũ Đức năm thứ tư
(621) cắt ra, đặt tên huyện Từ Liêm, rồi đặt Từ Châu vì huyện đó có sông
Từ và sông Liêm, nên gọi tên đó. Năm thứ 6 (623) đổi làm Nam Từ Châu.
Năm đầu Trinh Quán (627) bỏ châu đó đi, đem ba huyện sáp nhập vào huyện
Giao Chỉ thuộc Đô hộ phủ. Sau phục nguyên tên huyện chưa rõ đời nào. Đời
thuộc Minh, nó thuộc phủ Giao Châu. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc thống
hạt của phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Năm đầu Gia Long Triều ta nhân theo.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1832) cải thuộc phủ Hoài Đức kiêm lý, gồm 13 tổng,
87 xã thôn sở”. Nay là đất huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.
(3)
Nhập thất đệ tử, chỉ người đệ tử đắc ý nhất. Ý nghĩa rút ra từ câu “Do
giả thăng đường hỷ, vị nhập ư thất giả” của chương Tiên tiến trong Luận
ngữ. Xem Luận ngữ 11 tờ 3b7.
5. ĐẠI SƯ KHUÔNG VIỆT
(1)
Tây hồ chí, phần đền miếu, nhân nói về Sóc Thiên vương ghi rằng: “Vương
là người ấp Sóc Sơn làng Thường Lạc”, rồi chú là “nay huyện Kim Anh”.
Chú như thế có lý hay không? Chúng tôi nghĩ là có lý, vì hai cớ sau. Thứ
nhất, trong truyện của thiền sư Trí Bảo đời thứ 11 dòng Kiến Sơ, thì
Bảo ở chùa “Thanh Tước núi Du Hý làng Cát Lợi Hy, Thường Lạc”. Bây giờ,
cứ Đại nam nhất thông chí, tỉnh Bắc Ninh, thì “núi Thanh Tước ở tại phía
tây huyện lỵ Kim Anh 14 dặm, giáp giới huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây”.
Núi Thanh Tước này, chúng tôi nghĩ là núi Du Hý mà Khuông Việt đã đến
dựng chùa, và chùa Thanh Tước mà Trí Bảo ở, rất có thể là do Việt dựng.
Sau này, có lẽ vì tên Du Hý không được nghiêm trang cho lắm, nên người
ta đã lấy chùa Thanh Tước, để gọi nó. Chứng cớ thứ hai là cái bia chùa
Báo Ân tìm thấy tại xã Tháp Miếu, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú ngày
nay. Trong phần ghi giới hạn ruộng của chùa này, ta có câu: ”Đông cận
chí Lợi Hy xã vi giới ...phía đông gần đến xã Lợi Hy làm giới hạn. Cứ
vào đây thì không cần phải bàn biết ruộng chùa Báo Ân lúc đó gồm những
gì, ta có thể kết luận rằng, xã Lợi Hy ở phía đông huyện Yên Lãng và xã
Tháp Miếu, nếu xã Lợi Hy đấy là thuộc làng Cát Lợi Hy của Thường Lạc nói
trên. Quận Thường Lạc đời Lý như vậy chắc chắn phải bao gồm phần đất
của huyện Kim Anh ngày nay.
Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh viết: “Huyện Kim Anh ở về phía tây
hơi xiên nam của phủ Thiên Phúc 20 dặm, từ đông sang tây rộng 36 dặm,
nam xuống bắc rộng 42 dặm, từ huyện lỵ sang phía đông tới địa giới huyện
Đông Ngạn phủ Từ Sơn 22 dặm, phía tây tới địa giới huyện Yên Lãng, tỉnh
Sơn Tây 14 dặm, phía nam tới địa giới huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn 9
dặm, phía bắc đến địa giới huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên 33 dặm. Đầu
đời Lê Quang Thuận đặt gọi là Kim Hoa. Năm Thiệu Trị thứ nhất triều ta
(1841) cải làm Kim Anh, lãnh 9 tổng 33 xã thôn”. Huyện Kim Anh ngày nay
thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
(2)
Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá
nhân và đời sống tập thể của tổ chức những người xuất gia Phật giáo.
Thường thường, những kỷ luật ấy gồm số những điều luật, mà tùy theo tông
phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm mấy chục giới cho đến
500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người nào chịu nhận số
những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là nam, hay Tỳ kheo ni
nếu là nữ, và họ là những người đã thọ Cụ túc giới.
(3)
Đại Việt sử lược 1 tờ 17a9 nói: “Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm
trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ”. Đại Việt sử ký toàn thư
B1 tờ 3b6-8 cũng ghi: “Năm Thái Bình thứ 2 bắt đầu định phẩm cho văn võ
Tăng đạo”, nhưng còn thêm: “Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là
Khuông Việt đại sư”. Cứ vào đây thì cũng có thể thấy, dù cả hai bộ sử
không ghi rõ năm nào Việt được phong làm Tăng thống, ta có thể kết luận
dễ dàng là, Việt phải được phong làm Tăng thống vào chính năm Thái Bình
thứ 2 (971), bởi và Tăng thống là một chức quan do triều đình thiết lập
trong liên hệ với tổ chức Phật giáo, mà thời Đinh Tiên Hoàng thì đến năm
(971) mới bắt đầu thiết lập những phẩm trật không những cho các quan
văn vũ, mà còn cho cả tăng sĩ và đạo sĩ, do đó chức Tăng thống của Việt
cũng phải ra đời vào năm đó.
(4)
Đây là lầu đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của nước
ta. Về lai lịch chức này tại Trung Quốc, Đại Tống tăng sử lược quyển
trung tờ 243a19-b12 viết: “Về sự bắt đầu của chức này, thì khi nhà Diêu
Tần đặt chế độ ở Quan trung, bèn lập nên Tăng chính để làm người đứng
đầu Phật giáo. Khi nhà Ngụy lên ngôi ở đất Bắc, bèn cải làm Tăng thống
để thống lãnh sư sãi, tuy nêu một tên mới, nhưng chức vụ vẫn giữ. Trong
khoảng Hậu Ngụy Hoằng Thỉ (396-397), Sa môn Pháp Quả ở Triệu quận, giới
hạnh tinh nghiêm, mở trường thuyết pháp, vua Thái Tổ trưng làm Sa môn
thống... Chức quan Sa môn thống bắt đầu từ Pháp Quả vậy. Lại có Sa môn
Sư Hiền người Kế Tân, vốn dòng vương gia đông du đến đất Lương , rồi lại
tới kinh đô, gặp lúc Phật pháp bị bãi bỏ (440-451), bèn tạm làm nghề
bốc thuốc để giữ đạo không đổi. Đến ngày Phật pháp trùng hưng lại làm Sa
môn cùng với năm người bạn. Vua Ngụy (Văn Thành Đế 452-465) tự mình cắt
tóc cho Sư, xuống chiếu cho Hiền làm Tăng thống. Chức quan Tăng thống
bắt đầu từ Sư Hiền vậy. Đến khi nhà Tùy trùng hưng Phật giáo, thay đổi
hoàn toàn phong tục, mời Tăng Mãnh ở chùa Đại Hưng Thiện làm Tùy quốc
đại thống... Lại có Sa di Hiệu Thánh, trước ở Lạc Dương giữ chức Quốc
tăng đồ sau mời vào Nghiệp, ... đổi làm Quốc thống, tức Tăng thống của
một nước vậy. Nhà Tống nhân theo chế độ nhà Đường, bỏ Tăng thống mà lập
Tăng lục”.
Ở
Trung Quốc như vậy, chức Tăng thống bắt đầu với Sư Hiền khoảng từ năm
452 cho đến đời Đường thì bỏ chức đó mà lập nên chức Tăng lục. Ở nước ta
Đinh Tiên Hoàng đã thiết trí chức Tăng thống, nhưng đồng thời cũng đặt
luôn chức Tăng lục, vì năm 971 này, sau khi ban Khuông Việt đại sư cho
Tăng thống Ngô Chân Lưu, thì cùng lúc đã cử Trương Ma Ni làm Tăng lục.
(5)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 4b2-3 viết: “Núi Vệ Linh ở tổng
Kim Hoa bàn cứ giữa một số xã, trước núi có một ngọn hình giống cái lư
hương, đầy núi có hàng ngàn cây từng xanh biếc, quang cảnh u tịch. Tương
truyền (Phù Đổng) Thiên Vương phá giặc Ân rồi, đến đó, cỡi ngựa sắt bay
lên trời mà đi mất, để lại một chiếc áo treo ở cây si. Nay bốn xã xung
quanh núi đều phụng thờ. Nếu ở dưới chân núi, rất có tiếng thiêng”.
Đại
nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, viết: “Núi Sóc ở xã Vệ Linh huyện
Kim Anh, cũng gọi là núi Vệ Linh. Địa dư chí của Nguyễn Trãi nói, sông
Thiên Đức và Vệ Linh Kinh Bắc. Vệ Linh tức là núi đó. Tương truyền đó là
chỗ Phù Đổng Vương đánh ngựa bay lên trời, nay có miếu thờ. Thế núi
rộng quanh co, phía trước có một ngọn hình giống cái lư hương, cách bên
bờ núi, cây cối xanh tốt, quang cảnh u tịch”.
Núi
Vệ Linh như vậy cũng có tên núi Sóc ở tại huyện Kim Anh tỉnh Vĩnh Phú
ngày nay. Truyện thiền sư Trường Nguyên thuộc đời thứ 10 dòng Kiến Sơ
của Thiền uyển tập anh nói Nguyên ở tại chùa Sóc thiên vương núi Vệ Linh
chợ Bình Lỗ. Chùa này rất có thể là chùa do Khuông Việt dựng nên.
(6) Cái tên Bình Lỗ xuất hiện xưa nhất trong Đại Việt sử ký toàn thư B4
tờ 2b4-8 trong trận đánh với nghĩa quân Thân Lợi vào tháng 5 năm 1141.
Nhưng phải đợi đến câu nói của Trần Quốc Tuấn rằng: “Đời Đinh, Lê dùng
được người tài giỏi, Nam phương mới mạnh, Bắc phương mệt yếu, trên dưới
cùng một chí, dân tâm không rã rời, đắp thành Bình Lỗ, mà phá quân
Tống”, mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 8 tờ 36b2-4
cũng ghi lại, rồi chú về thành Bình Lỗ như: “Thành Bình Lỗ, Cựu sử
không ghi, chỉ Dư địa chí của Nguyễn Trãi chú rằng triều Lý đào sông
Bình Lỗ để tiện việc đi lại ở Thái Nguyên”. Nhưng khảo Dư địa chí của
Nguyễn Trãi, thì lời chú vừa dẫn không phải do Nguyễn Trãi hay những
người thời ông viết ra. Ngược lại, nó do Nguyễn Thư Hiên của thế kỷ thứ
18 chép lại từ chính sử. Hiên đậu tiến sĩ năm 1721. Khảo chính sử tức
Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 12a6 thì trong thời nhà Lý không bao giờ
có việc đào một con sông nào tên Bình Lỗ hết. Ngược lại, chính vào thời
Lê mới xảy ra việc ấy. Đại Việt sử ký toàn thư B11 tờ 77a và Khâm định
Việt sử thông giám cương mục chính biên 18 tờ 14b 4-8 viết: “Năm Thái
Hòa thứ 7 (1449) sai tư khấu Lê Khắc Phục, đốc lĩnh Bách tác chư cục, Tứ
sương thiên khai vệ quân và binh dân trấn Thái Nguyên đào sông Bình Lỗ
từ Lãnh Canh đến cầu Phù Lỗ thông với Bình Than để tiện việc đi lại ở
trấn Thái Nguyên”. Như vậy, chắc Nguyễn Thư Hiên đã cứ vào đoạn này để
nói tới chuyện nhà Lý đào sông Bình Lỗ, bởi vì về một mặt Đại Việt sử ký
toàn thư B3 tờ 12a-6 có ghi là vào “năm Quảng Hựu thứ 5 (1089) đào sông
Lãnh Kênh, và mặt khác đoạn vừa dẫn lại bảo đào sông Bình Lỗ bắt đầu
từ Lãnh Canh. Nói khác đi, theo Hiên và cứ vào hai đoạn đó thì sông Lãnh
Kênh cũng là sông Bình Lỗ. Vậy sông Bình Lỗ là sông nào? Cứ vào đoạn
Toàn thư vừa dẫn, ta phải đào sông Bình Lỗ từ Lãnh canh tới cầu Phù lỗ
thông với Bình than. Thế thì cầu Phù lỗ ở đâu? Ngày nay tại huyện Kim
Anh, tỉnh Vĩnh Phú ta có một làng tên Phù lỗ. Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Bắc Ninh, không những xác nhận có làng tên Phù lỗ, mà còn nói làng
này có chợ, gọi là chợ Phù lỗ. Nó ở huyện Kim Anh. Làng này hiện có một
con sông chạy ngang qua, đó là sông Cá Lồ. Vậy sông Bình Lỗ chắc là sông
Cá Lồ này, chứ không gì khác. Quận Bình Lỗ từ đó phải gồm phần đất con
sông này chảy qua, mà ta có thể tưởng tượng là rơi vào khoảng huyện Kim
Anh ngày này.
(7)
Theo vũ trụ quan huyền thoại Phật giáo tiểu thừa thì trụ chia làm ba
cõi, đó là cõi có tham dục, cõi có hình tướng, cõi không hình tướng. Cõi
có tham dục hay dục giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, và quả đất chúng
ta ở về phía nam ngọn núi ấy, tên là Nam Diêm Phù Đề. Núi đó có bốn
tầng. Tầng thứ nhất cho đến tầng thứ ba là chỗ ở của những loài dạ xoa.
Tầng thứ tư là chỗ ở của bốn vị vua trời hay Tứ Thiên Vương ở tại bốn
phương của tầng ấy, mà về phía bắc thì do vị vua tên Tỳ Sa Môn Thiên
Vương, tức phiên âm của chữ vaisravâna, cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương.
Cuối cùng trên chóp đỉnh Tu Di là cõi trời Tam Thập Tam Thiên hay cũng
gọi là trời Đao Lợi hay Đâu Suất, nơi ngự trị của Đế Thích. Đế Thích như
vậy theo thần thoại này cai quản cõi Dục giới. Xem Trường a hàm 20 tờ
39c.
Nhưng tên thần nói đến trong truyện đây là dẫn từ thần thọai vừa kể.
(8)
Đại Việt sử lược 1 tờ 19a8-10: “Năm Thiên Phúc thứ nhất (981) mùa xuân
tháng ba, Hầu Nhân Bảo đem quân đến Lãng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết,
Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, vua tự làm tướng đem quân chống lại, đóng
cọc ngăn sông. Quân Tống rút về giữ sông Ninh, Vua sai quân đánh giả
hàng, để dụ Nhân Bảo lên phía Bắc. Nhân Bảo thua, Bảo bị bắt và chém.
Khâm Tộ v.v...nghe Nhân Bảo thua, rút lui”. Đại Việt sử ký toàn thư B1
tờ 14 a1-7 viết: “Năm Thiên Phúc thứ hai (981) mùa xuân tháng ba Hầu
Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu
Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự làm tướng đem quân chống lại, sai quân
sĩ đóng cọc ngăn sông. Quân Tống rút lui, lại đến sông Chi Lăng. Vua sai
quân sĩ giả hàng để dụ Nhân Bảo, nhân thế bắt được Bảo, chém đi. Khâm
Tộ v.v... nghe quân thủy bại, rút quân về. Vua đem các tướng đuổi đánh.
Quân Khâm Tộ thua lớn, chết hơn phân nửa, thây rải đầy đồng, bắt tướng
chúng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư”. Khâm định
Việt sử thông giám cương mục chính biên 1 tờ16b5 -18a1 cũng chép chuyện
này. Về sông Chi Lăng, nó chú rằng: “Chi Lăng thuộc Ôn Châu phủ Trường
Khánh là ở đầu địa giới tỉnh Lạng Sơn. Sông Chi Lăng là sông của xã Chi
Lăng”.
Xã
Chi Lăng hiện nay ở về phía nam huyện Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn, có dòng
sông Thương chảy ngang qua nó ở khúc ải Chi Lăng sát dưới chân dãy núi
đá vôi có tên Cai Kinh, rồi xuôi dòng xuống sông Lục Đầu. Vậy sông Chi
Lăng của Đại Việt sử ký toàn thư tức là sông Thương ngày nay. Còn sông
Ninh của Đại Việt sử lược là sông nào? Con sông này chắc là sông Chi
Ninh, vì Đại Việt sử ký toàn thư B1 tờ 30a8-9 ghi chuyện Lê Ngọa Triều
cho cột người nơi mạn thuyền, rồi cho người chèo qua chèo lại để cho cá
sấu ăn, ở tại sông Ninh, nhưng Đại Việt sử lược 1tờ 21b4 lại ghi việc đó
xảy ra ở sông Chi Ninh. Vậy nó cũng là sông Hữu Ninh, mà Thiền uyển tập
anh ở đây nói tới. Chữ chi và chữ hữu tự dạng rất giống nhau, và chữ
hữu của bản in Thiền uyển tập anh ngày nay là một khắc lộn của chữ chi
bởi vì cứ vào đoạn trích của nó trong Việt điện u linh tập tờ 42 thì nó
ghi là Chi Giang. Như vậy, sông Ninh là sông Chi Ninh, và cứ những dẫn
chứng trên, thì nó phải là sông Chi Lăng. Sông Chi Ninh có lẽ đến đời Lê
vì kỵ húy của Lê Trang Tông (1533-1548) là Ninh, nên đã sửa lại là Chi
Lăng, nhân ở cạnh đấy đã có ải Chi Lăng và xã Chi Lăng.
(9)
So sánh đoạn này với đoạn trích của nó nhan đề Sóc thiên vương sự tích
ký do Nguyễn Văn Chất (1422-?) thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ
39, mà sau này một “nho sĩ họ Đoàn” đã chép lại vào quyển thứ ba của
Lĩnh nam chích quái truyện tờ 115 vì truyền bản cũ chứa nhiều chữ sai,
nên tôi xin phiên âm ra đây để tiện việc đối chiếu:
“Án
Thiền uyển tập thơ, tích Lê Đại Hành thời, hữu Khuông Việt thái sư bất
sỹ, thường nhàn du Bình Lỗ quận Vệ Linh Sơn, ái kỳ cảnh trí u nhã, dục
sáng am cư chi. Nhất nhật du lãm sơn am, giả mỵ kiến, thân phi kim giáp,
thủ chấp kim thương, tùng giả sổ thiên nhân tự xưng thị Sóc Thiên
Vương, quản lĩnh Dạ Xoa thần linh, phụng Thượng đế mạng, bảo thử thổ hộ
phương dân, dự quân hữu duyên, cố tương kiến nhĩ. Thái sư kinh giác, văn
sơn trung hát thanh, nhân nhập thâm sơn, kiến nhất đại mộc phồn mậu,
thụy khí khả ái, nải tức kỳ xứ lập miếu, phạt thủ đại mộc tố thần
tượng, như mộng trung sở kiến giả.
Thiên
Phúc niên gian, Tống binh nhập khẩu. Đại Hành hoàng đế tố văn kỳ sự
đảo. Thời Tống binh trú Tây Kết thôn nội, lưỡng quân vị tiếp. Hốt kiến
nhất nhân, thân trường trượng dư, phi phát nộ mục, tùng giang trung
xuất, ba đào dũng kích. Tống binh đại cụ nhi thối. Tống tướng quân Quách
Quỳ nãi ban Sư bắc hồi. Đại Hành mạng tăng lập từ vũ dĩ tạ chi”.
Đoạn
trích trong Việt điện u linh tập, trừ hai câu cuối cùng mà Nguyễn Văn
Chất hay những người sao chép về sau đã thêm vào một cách sai lầm, tương
đối trùng hợp với bản văn của Thiền uyển tập anh. Bản trích của nho sĩ
họ Đoàn trong Lĩnh nam chích quái, dù dựa vào Nguyễn Văn Chất, đã có
nhiều xuất nhập văn cú, đặc biệt là đoạn về rút quân về giữ Chi Ninh
giang của tướng Tống. Nó bảo: “Quân Tống bỗng thấy một người xuất hiện
giữa sóng gió, cao hơn mười trượng, tóc tai dựng ngược lên, trừng mắt mà
nhìn, ánh sáng thần chói lọi. Quân Tống thấy mà khiếp sợ, rút về giữ
Chi (nó viết là kỳ) giang”.
(10)
Ngọc lang quy, mà bản đời Nguyễn tờ 5b10 gọi Vương lang quy, là tên
Khuông Việt đặt cho bài từ, chứ đúng ra nó phải có tên Nguyễn lang quy,
bởi vì thể tài, âm luật và nhạc điệu, của nó hoàn toàn đồng nhất với
Nguyễn lang quy. Nguyễn lang quy chỉ sự từ biệt Đào Nguyên để trở về
trần của Lưu Thần và Nguyễn Triệu. Chính nó dựa tích đó mà nó có tên, và
từ đấy nó thường là một thứ nhạc từ tiễn đưa. Theo Từ luật 4 tờ 19b2-5
thì âm luật của loại từ Nguyễn lang quy thế này:
x b x t t b b
x b x t b
x b x t t b b
x b x t b
b t t t b b
x b x t b
x b x t t b b
x b x t b
trong
đó b là vần bằng, t là vần trắc và x là có thể bằng hay trắc tùy ý. Như
vậy, bài từ theo điệu Nguyễn lang quy đúng là có 4 vế, mỗi vế hai câu,
mà câu đầu có 7 chữ và sau 5 chữ. Nhưng riêng câu đầu của vế thứ 3 thì
chỉ có 6 chữ, nên tổng cộng số chữ của bài từ loại đấy tất có cả thảy 47
chữ. Bây giờ cứ vào âm luật vừa nêu, ta thử xét lại bài từ Ngọc lang
quy do các bản chép lại của Khuông Việt. Bản in đời Lê, đời Nguyễn của
Thiền uyển tập anh đều chép :
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh báo ngã hoàng.
Đại Việt sử ký toàn thư B1 tờ 18b5-8 chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Diêu vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng.
Việt
sử tiêu án 1 tờ 70a3-6 chép giống y như Đại Việt sử ký toàn thư, chỉ
trừ câu thứ nhất nó chép thiếu chữ quang và câu thứ bảy nó đối hai chữ
biên cương thành biên phương. So hai bản chép Thiền uyển tập anh và Đại
Việt sử ký toàn thư với bản âm luật nêu trên thì hiển nhiên bản chép của
Thiền uyển tập anh tỏ ra dư một chữ, trong khi bản Đại Việt sử ký toàn
thư dư đến hai chữ. Xét ra, câu thứ năm của bản Thiền uyển tập anh có
đến bảy chữ, trong khi theo luật thì chỉ có 6 chữ thôi, như vậy dư một
chữ. Bây giờ, so câu đó với câu tương đương trong Đại Việt sử ký toàn
thư thì quả nó dư một chữ, và chữ đó là chữ nhân. Do đó, sau khi loại bỏ
chữ nhân ra khỏi nó, và chúng tôi nghĩ chữ ấy là một diễn tự từ chữ
trường đi trước nó mà ra, bản chép Thiền uyển tập anh tỏ ra hoàn toàn
phù hợp với bản âm luật trên. Bản chép Toàn thư, ngược lại, đi thêm vào
câu thứ hai 2 chữ “diêu vọng”, và như vậy câu đấy có 7 chữ. Chúng tôi
hiện chưa truy ra đâu là nguyên do của sự thêm hai chữ đó. Song cứ vào
bản âm luật trên thì chúng dĩ nhiên là không phù hợp, và không phù hợp
ngay cả với bản chép Thiền uyển tập anh. Vì thế, chúng tôi đề nghị nên
lấy bản Thiền uyển tập anh, sau khi đã loại bỏ chữ nhân trong câu 5,
làm chuẩn cho việc nghiên cứu lịch sử từ và nhạc điệu từ Việt Nam.
Có
thể nói bài Ngọc lang quy đây là bài từ xưa nhất thuộc loại Nguyễn lang
quy hiện còn, không những của nước ta, mà còn của Trung Quốc nữa, bởi
vì những bài từ Nguyễn lang quy xưa nhất hiện còn ghi trong các sách từ
như Tống lục thập danh gia từ, Tuyệt diêu hảo từ thiêm, Từ tổng v.v...
là của Âu Dương Tu và Tô Thức, Hoàng Đình Kiên và Yên Cơ Đạo. Trong Giáo
phường ký tờ 5b7, Tồi Lịnh Khâm có ghi Nguyễn lang mê giữa những tên
khúc không lưu hành trong giáo phường đời Đường. Chúng tôi nghi Nguyễn
lang mê đấy là tiền thân của Nguyễn lang quy. Về nhạc điệu Bạch thạch
đạo nhân ca khúc 2 tờ 2a8 liệt nó vào loại lịnh, nhưng đã không ghi lại
nhạc bản của nó. Cho nên, ngày nay ta khó biết đích xác nó phải hát như
thế nào, dầu có sách nói nó thuộc chính khúc cung nam lữ v.v...
(11)
Đại Việt sử ký toàn thư B1 tờ 18a5-b8 viết: “Năm Đinh hợi Thiên Phúc
thứ 8 (987) Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ, vua sai Pháp sư
tên Thuận giả làm người chèo đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn chuyện văn
chương. Lúc ấy, gặp khi có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, Giác vui
ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng
Ngoảnh mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, cũng tiếp vần đọc:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng lấy làm lạ. Đến khi về tới sứ quán, Giác làm một bài thơ gởi cho Sư rằng :
May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợt sứ Giao Châu
Đông đô đôi biệt lòng lưu luyến
Nam việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả buồm đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.
Thuận
đem bài thơ dâng. Vua cho gọi Sư Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt
nói: “Bài thơ này tôn trọng Bệ hạ cùng với chúa nó không khác”. Vua khen
ý đó, sai tặng thưởng càng nhiều. Giác giã từ trở về, vua xuống chiếu
cho Khuông Việt viết một khúc nhạc đến tiễn đưa. Lời nó thế này:
Trời lành gió thuận bsuồm gấm trương
Xa ngóng thần tiên về đế hương
Muôn trùng sông núi vượt đại dương
Chín trời hút dặm trường
Lòng lưu luyến chén lên đường
Cầm tay Sư hỏi han
Nguyện đem thâm ý vì biên cương
Phân minh tâu thánh hoàng
Giác vái mà trở về.
Xem
thêm Việt sử tiêu án 1 tờ 69b3-70a6 có chép đủ và y hệt những bài thơ ở
đây. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 1 tờ 22b7-23a2
của năm Đinh hợi Thiên Phúc thứ 7 cũng không ghi việc Lý Giác đến san
phong cho Lê Đại Hành. Đại Việt sử lược cũng thế.
(12)
Núi Du Hý của quận Thường Lạc này chắc là núi Thanh Tước của huyện Kim
Anh, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Truyện của thiền sư Trí Bảo thuộc đời thứ
11 dòng Kiến Sơ nói Bảo ở tại chùa “Thanh Tước, núi Du Hý, làng Cát Lợi
Hy, Thường Lạc”. Như vậy, ngay thời Lý đã có chùa Thanh Tước tại núi Du
Hý. Nó có lẽ do Khuông Việt dựng lên. Đất quận Thường Lạc ngày nay gồm
một phần nếu không là toàn bộ vào huyện Kim Anh ngày nay. Đại nam nhất
thống chí tỉnh Bắc Ninh nói: “Núi Thanh Tước ở phía tây huyện Kim Anh
cách huyện lỵ 14 dặm, giáp giới với huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây”. Cái
tên Du Hý có lẽ không được trang nghiêm lắm, nên có người đã đổi nó
thành Thanh Tước, như tên nó ngày nay.
(13)
Cứ tiểu sử này thì Khuông Việt được phong làm Tăng thống lúc 40 tuổi.
Nhưng theo Đại Việt sử lược 1 tờ17a10 cũng như Đại Việt sử ký toàn thư
B1 tờ 3b7-8 thì đến năm Thái Bình thứ hai, nghĩa là vào năm 971 mới có
việc định phẩm trật của văn võ và Tăng đạo. Cho nên, chức Tăng thống của
Việt không thể phong trước năm 971. Vậy, Việt phải sinh vào năm 930.
Bấy giờ, nếu Việt mất vào năm Thuận Thiên thứ hai nhà Lý, tức năm 1011,
như thế thì tuổi thọ của Việt, tính theo tuổi Việt Nam, tất phải 82
tuổi. Cả ba bản in triều Lê và Nguyễn đều ghi thọ 52 tuổi. thọ ngũ thập
hữu nhị. Chúng tôi nghĩ chữ “ngũ” chắc chắn là một viết sai của chữ
“bát”, một điều rất dễ xảy ra, do thế, đề nghị sửa “thọ ngũ thập hữu
nhị” thành “thọ bát thập hữu nhị” và dịch là “thọ 82 tuổi”.
6. THIỀN SƯ ĐA BẢO
(1)
Về việc Đa Bảo đến ở chùa Kiến Sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn,
truyện Xung thiên dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương của Việt điện u
linh tập tờ 205 viết: “Xét Báo cực truyện và Thế truyền nói, Vương thần
thổ địa chùa Kiến Sơ giáng sanh. Xưa thiền sư Chí Thành (nghi là Cảm
Thành) ở chùa Kiến Sơ tại làng Phù Đổng, lập nhà thờ thần thổ địa ở mé
bên phải của chùa làm chỗ thanh tịnh để niệm Phật tụng kinh. Ngày tháng
xoi mòn, phần lớn đã làm mất dấu cũ của nó, nên Sa môn thiền sư không do
đâu mà biết được. Thổ nhân ưa thờ quỷ, đốt hương cầu đảo, gọi bậy là
dâm từ. Đến khi thiền sư Đa Bảo trùng tu chùa, cho chỗ thờ là dâm từ,
muốn phá hủy đi.
Một hôm, tại cây cổ thụ của đền thờ thần hiện một bài thơ đề kệ rằng:
Phật pháp ai hay giữ
Giữ đức tại Kỳ viên
Nếu không ta gây giống
Sớm theo xứ khác thiên
Chớ chở Kim cang bộ
Dấu kín Na la diên
Đầy trời người như bụi
Chùa Phật thành oan khiên.
Ngày khác, một bài kệ khác lại hiện ra ở đó, thần ứng ra tám câu viết:
Phép Phật từ bi lắm
Oai quang khắp đại thiên
Muôn thần đều hướng hóa
Ba cõi thảy khắp truyền
Thầy ta ra hiệu lịnh
Tà quỷ ai dám trên
Nguyện thường theo thọ giới
Lớn nhỏ giữ Kỳ viên.
Sư
lấy làm lạ, bèn lại thiết đàn trì giới cho thần, cúng dùng đồ chay lạt.
Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long, biết Đa Bảo đức hạnh cao thượng, cùng làm
đàn việt cho Bảo. Khi đã nhận ngôi, tự thân đến chơi chùa Bảo. thiền sư
nghênh giá đi quá bên chùa. Sư lên tiếng hỏi: “Phật tử, ngươi sao không
nhanh nhẹn đến chúc mừng đức tân thiên tử?”. Thần ứng thanh, hiện ra
nơi da cây bốn câu rằng:
Đức đế càn khôn lớn
Oai thanh yên tám miền
Cõi âm nhờ ân huệ
Nhuần thấm phong Xung thiên.
Thái
Tổ thấy đọc, rất biết ý của thần, ban hiệu là Xung Thiên Thần Vương.
Bài thơ tự nhiên biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ tạc tượng của thần,
dung nghi hùng vĩ, và tướng hầu tám pho. Sơn thếp xong rồi, lại hiện ở
dưới đại thụ một bài thơ bốn câu:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc
Bóng mất trời lên non.
Sư
đem bài kệ trình vua. Thái Tổ không hiểu nó nói gì. Về sau nhà Lý tám
đời thì truyền ngôi cho nhà Trần. Chữ bát ¤K cùng chữ bát ²Ú giống
nhau. Một tám tức như tám. Huệ Tông tên là Sám, đấy gọi là “trời lên
non”. Nó thần diệu như vậy đó.
Truyện
Xung thiên chiêu ứng thần vương của Lĩnh nam chích quái truyện cũng
trùng trường hợp như vừa dẫn, trừ một số những sai khác về văn cú và
điểm xuất phát, mà theo nó thì chuyện này rút ra từ Cổ Pháp ký và Kỷ đức
ký. Tuy nhiên cứ Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 34a4-b1 trong lời bàn
của Ngô Sỹ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì nhân vật chính của chuyện
không phải là Đa Bảo, mà là Vạn Hạnh. Liên viết: “Thế truyền Lý Thái Tổ
lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ Pháp đến thăm chùa làng Phù
Đổng. Có thần nhân đề thơ trên cột chùa rằng:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.
Sư
Vạn Hạnh đem bài thơ dâng lên. Lý Thái Tổ xem, nói rằng: “Việc thần
nhân không thể hiểu được”. Người đời truyền tụng nó, mà không biết nó
nói gì. Đến khi họ Lý mất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Bởi vì Huệ
Tông trở lên đến Thái tổ có tám đời, mà Huệ Tông tên Sám, tức trời lên
non thì bóng mất”. Như thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra
phải là Vạn Hạnh, chứ không phải Đa Bảo. Và cứ vào đấy, thì những bài
thơ trên cũng phải là của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong
thủy và sấm truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là
của Vạn Hạnh.
Việt sử tiêu án 1 tờ 128a6-9 cũng ghi lại chuyện Lý Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên.
7. TRƯỞNG LÃO ĐỊNH HƯƠNG
(1)
Đây nói Hương ở chùa Cảm Ứng tại Ba Sơn, nhưng truyện của Viên Chiếu
dưới nói: “Chiếu đến học với Định Hương ở núi Ba tiêu”. Vậy, Ba Sơn tức
cũng Ba Tiêu Sơn. Có lẽ vì sự sai khác vừa thấy, bản in đời Nguyễn thay
vì có Ba Sơn, nó đã viết Tiêu Sơn. Nhưng cứ sử thì Ba Sơn và Tiêu Sơn
cũng là một. Vạn Hạnh sau khi dựa vào sấm văn để tuyên bố là “nhà Lê
đương mất, nhà Lý đương hưng”, thì “Lý Công Uẩn sợ lời nói đó tiết lộ,
sai anh mình đem Vạn Hạnh đi mất”. Đại Việt sử lược 2 tờ 1b3 nói “dấu
Vạn Hạnh ở Ba Sơn”. Song Đại Việt sử ký toàn thư B1 tờ 32a6 thì nói “dấu
Vạn Hạnh ở Tiêu Sơn”. Việt sử tiêu án 1 tờ 25 b7 cũng nói “dấu Vạn Hạnh
ở Tiêu Sơn”. Thì rõ ràng Tiêu Sơn của thời Lê trở đi là Ba Sơn của thời
Lý Trần.
Lịch
triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a5-6 nói: “Tiêu Sơn ở tại xã Tiêu Sơn
huyện Yên Phong, trên có chùa Trường Liêu, triều Lý dựng theo chỗ tu trì
của tể tướng thiền sư Vạn Hạnh. Lý Thái tổ đầu thai ở đó”. Đại nam nhất
thống chí 38, tỉnh Bắc Ninh viết: “Tiêu Sơn ở phía tây nam huyện lỵ Yên
Phong 14 dặm. Núi có chùa Thiên Tâm và chùa Trường Liêu. Mẹ Lý Thái Tổ
có lần đến chơi chùa Tiêu Sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh ra
vua. Quốc sư nhà Lý là Sư Vạn Hạnh có bài sấm cây bông gạo truyền ra từ
nơi đây”. Núi Tiêu Sơn như vậy ở tại xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong tỉnh
Hà Bắc ngày nay.
Còn
về chùa Cảm Ứng. Lịch triều hiến chương loại chí cũng như Đại nam nhất
thống chí không thấy nói tới. Bộ trước kê ra một chùa tên Trường Liêu
cho núi Tiêu Sơn. Bộ sau thêm chùa Thiên Tâm. Vậy chùa nào là chùa Cảm
Ứng? Về chùa Trường Liêu, Đại nam nhất thống chí 39, tỉnh Bắc Ninh viết:
“Chùa Lục Tổ tức là chùa Trường Liêu. Sử ký nói: “Sư Vạn Hạnh trú trì
chùa đó, sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ,
cấp dân làm tự đinh, quanh năm cúng thờ”. Nhưng cứ truyện Thường Chiếu
tờ 37b7 thì chùa Lục Tổ ở tại làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức, tức làng
Đình Bảng, huyện Từ Sơn hiện nay. Vậy chùa Trường Liêu dứt khoát không
phải là chùa Lục Tổ. Cứ Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính
biên 2 tờ 7b1 thì chùa Trường Liêu tức chùa Tiêu Sơn . Còn chùa Thiên
Tâm, Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 viết: “Nguyên trước, viện Cảm Tuyển,
chùa Thiên Tâm, châu Cổ Pháp có con chó sinh con sắc trắng có lông đen
vằn vện có hai chữ ‘Thiên tử’, người ta bàn cho rằng đó là điềm năm Tuất
sẽ sinh ra một người đại quý. Vua quả sinh vào năm Giáp Tuất Thái Bình
thứ 5” Chuyện này Đại Việt sử lược 2 tờ 2a5-7 nói xảy ra ở “chùa Ứng
Thiên, châu Cổ Pháp”, còn Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 1b6-2a1 thì ghi
nói tại “viện Cảm Tuyển chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp”. Ngoài ra,
Toàn thư B2 tờ 1a3 bảo mẹ Lý Công Uẩn thường đến chơi chùa Tiêu Sơn,
cùng giao hợp với thần nhân mà sinh Uẩn. Việt sử tiêu án 1 tờ 77b6-8
lại dẫn Ngoại truyện, rồi viết: “Mẹ vua năm tuổi hai mươi, nghèo khổ
không chồng, đến nương tựa vị Sa môn già chùa Ứng Thiên, vị Sa môn già
cho làm bếp, bèn giả ngủ, lửa tắt, vị Sa môn bỗng chạm đến, kinh hoảng
đứng dậy, trong lòng biết mình có thai mà sinh ra vua”. Cứ vào những dẫn
chứng đó thì chùa Tiêu Sơn cũng là chùa Ứng Thiên, cũng là chùa Ứng
Thiên Tâm, cũng là chùa Thiên Tâm. Từ đấy ta cũng có thể nói chùa Cảm
Ứng là nó bởi những sai khác tên gọi vừa thấy đồng bởi chùa Ứng Thiên
Tâm. Lại có viện Cảm Tuyển, mà chính truyện của Vạn Hạnh của Thiền uyển
tập anh viết thành Hàm Toại, nên rất có thể tự nguyên ủy người ta thường
gọi tắt tên chùa là Cảm Ứng.
(2)
Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 3a2 nói năm
1010 Lý Thái Tổ “đổi Cổ Pháp làm Thiên Đức”. Khâm định Việt sử thông
giám cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 chú: “Cổ Pháp tên Châu, từ Đinh về
trước là châu Cổ Lãm, nhà Lê đổi là Cổ Pháp, nhà Lý nâng lên làm phủ
Thiên Đức, đời Trần cải làm huyện Đông Ngạn, nhà Hậu Lê nhân theo, nay
là huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh ấy vậy”. Đại nam nhất thống chí 38,
tỉnh Bắc Ninh cũng chép vậy. Nhưng rõ ràng phủ Thiên Đức thời Lý không
chỉ gồm có huyện Đông Ngạn, bởi vì Thiền uyển tập anh ở đấy nói Ba Sơn ở
phủ Thiên Đức, nhưng Ba Sơn ngày nay và thời Đại nam nhất thống chí 1 ở
tại huyện Yên Phong. Vậy, tối thiểu phủ Thiên Đức gồm ngoài huyện Đông
Ngạn ra, còn có huyện Yên Phong và huyện Tiên Du nữa.
(3)
Chu Minh là quê hương của bốn vị thiền sư khác ngoài Định Hương, ấy là
Bảo Tính, Minh Tâm, Cứu Chỉ và Tín Học. Nó cũng là nơi có chùa Thông
Thánh, ở đó Tức Lự đã sống và dạy dỗ học trò. Theo truyện của Tức Lự thì
nó thuộc về phủ Thiên Đức. Truyện của Cứu Chỉ nói Chỉ người Phù Đàm,
Chu Minh. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 có ghi một làng tên Phù
đàm quê hương của Quách Tán tiến sĩ khoa 1478 và nói Phù đàm thuộc
huyện Đông Ngạn, Phù đàm như vậy là tên một làng thuộc huyện Đông Ngạn,
tức huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc hiện nay. Cứ vào đồng nhất này và cứ vào
việc Chu Minh thuộc phủ Thiên Đức, chúng tôi giả thiết Phù đàm và Chu
Minh rất có thể bao gồm cả địa phận làng Phù đàm và vài làng kế cận
thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc hiện nay. Thực tế, ngày nay ta đã biết
Chu Minh thuộc địa phận làng Tân Hồng.
(4)
Nguyên văn: Đệ tử liễu thời hoàn đồng vị liễu. thiền sư Qui Sơn Linh
Hựu: “Cho nên Tổ sư nói: Biết rồi cũng giống như chưa ngộ”. Xem Truyền
đăng lục 29 tờ 264b25. Xem thêm Long Nha hòa thượng, Cư độn tụng:
Ngộ liễu hoàn đồng vị ngộ nhân
Vô tâm thắng bại tự an thần
Tùng tiền cổ đức xưng bần đạo
Hướng thử môn trung hữu kỷ nhân.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 453a1-2.
(5)
Nguyên văn: Sùng Hưng Đại Bảo tam niên Canh Dần. Nhưng cứ Đại Việt sử
lược 2 tờ 9a2 và Đại Việt sử ký toàn thư B2 tờ 37b1 thì Canh Dần phải
nhằm năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ hai, chứ không phải thứ ba. Chữ tam chắc
chắn là một viết lộn của chữ nhị, chỉ cần thêm một nét thôi. Chúng tôi
dịch theo đề nghị sửa sai này.
(6) Đồng An Sát thiền sư. Thập huyền đàm:
Diệu thể bản lai vô xứ sở
Thông thân hà cánh hữu tung do
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b9-10
(7)
Về ý và từ, rút ra từ định nghĩa không không trong Đại trí độ luận,
“Những gì là không không? Trả lời: Tất cả mọi vật đều không, cái không
ấy cũng không nên gọi là không không”
(Hà đẳng vi không không? Nhất thiết pháp không thời không diệc không, thị danh không không)
Đại
trí độ luận còn định nghĩa thêm: “Không không là đem không mà phá vỡ
nội không, ngoại không phá ba không đó gọi là không không” (3). Xem Đại
trí độ luận 31 tờ 287c 24-27