II. VẤN ĐỀ TÊN GỌI
Ba
truyền bản hiện lưu hành, đấy là truyền bản đời Lê I, đời Lê II và
truyền bản đời Nguyễn, mang những tên gọi khác nhau về Thiền uyển tập
anh. Truyền bản đời Nguyễn thì gọi Đại nam thiền uyển truyền đăng tập
lục ở tờ 1a1, hay Đại nam thiền uyển truyền đăng ở tờ 65a10 và Thiền
uyển Truyền đăng lục ở gáy từ tờ 1 đến tờ 65. Điều này không có nghĩa
người đứng in truyền bản đời Nguyễn, tức An Thiền không biết đến tên
Thiền uyển tập anh đâu. Chính Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a4,
một tác phẩm của Thiền, đã liệt Thiền uyển tập anh lục một (quyển) giữa
những bản gỗ tàng trữ tại các chùa chiền miền Bắc nước ta vào thế kỷ thứ
XIX. Như vậy, “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn”, mà Thiền dùng để in ra quyển
thượng của bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, cứ vào ghi chép
vừa dẫn của Đạo giáo nguyên lưu, phải có tên là Thiền uyển tập anh lục.
Và chính lời tựa San khắc truyền đăng thủ Trần gia bản tờ 1b4-5, Thiền
đã nói thẳng ra tên sách mình dùng cho việc in ra quyển thượng đó là
Thiền uyển tập anh, bởi vì Thiền viết: “Kịp đến nước ta thì xưa có Thiền
uyển làm lục, Tập anh làm tên, ghi lấy cao tăng thạc đức của ba triều
trình sơ nét chính”. Do thế, mặc dù truyền bản đời Nguyễn ngày nay xuất
hiện dưới tên Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, hay Đại nam thiền
uyển truyền đăng, hay Thiền uyển Truyền đăng lục, ta biết chắc chắn là
tự nguyên ủy nó vẫn có tên Thiền uyển tập anh.
Về
truyền bản đời Lê I và Lê II, trong bảy lần nó nhắc tới tên sách ở
những tờ 1a1, 4a1, 26a1, 44a1, 61a1, 71b1, và 72b11 thì sáu lần là đã có
tên Thiền uyển tập anh. Chỉ trừ một lần ở tờ 4a1, nó thêm hai chữ “ngữ
lục” ở sau thành Thiền uyển tập anh ngữ lục. Bản chất của Thiền uyển tập
anh, tuy có chứa đựng ngữ lục, nhưng không phải là một tác phẩm thuần
túy thuộc loại ngữ lục. Thực tế mà nói, nó có những truyện không chứa
đựng một ngữ lục nào hết. Truyện Pháp Thuận, truyện Ma Ha thuộc dòng
thiền Pháp Vân là những thí dụ. Có lẽ vì nhận ra sự trạng đó, nên người
hiệu đính và viết tựa cho bản in năm 1715 đã không ngần ngại nêu ngay
cái tên Thiền uyển tập anh, mà giải thích ý nghĩa và đã không một lời đề
cập xa gần gì tới ngữ lục cả. Hơn nữa, cứ vào số lần xuất hiện của nó
thì Thiền uyển tập anh chắc chắn là tên của tác phẩm từ nguyên ủy, nhất
là khi ta biết chúng là khởi đầu cho những quyển khác nhau theo truyền
bản sáu quyển. Chúng tôi vì vậy nghĩ rằng chữ “ngữ lục” là một thêm thắt
vào thời Lê dưới ảnh hưởng của quan niệm, theo đó thì mỗi khi nói đến
tác phẩm của các vị thiền sư, người ta phải đề cập tới ngữ lục. Và tên
nguyên ủy của tác phẩm chúng ta nghiên cứu đây là Thiền uyển tập anh.
Tên
đó từ thế kỷ thứ XV đã được Nguyễn Văn Chất (1422-?) dẫn ra trong phần
Tục tập của Việt điện u linh tập tờ 42, mà sau này một “Nho sĩ họ Đoàn”
thuộc thế kỷ thứ XVI đã sao lại vào trong quyển thứ ba của Lĩnh nam
chích quái truyện tờ 115. Qua thế kỷ thứ XVIII, ngoài bản in năm 1715,
Lê Quý Đôn là người sử dụng nhiều nhất Thiền uyển tập anh và đã gọi nó
bằng chính cái tên đó trong Đại việt thông sử cũng như trong Kiến văn
tiểu lục 4 tờ 12b8. Đến Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy
Chú, phần Văn tịch chí chỉ ghi lại Thiền uyển tập thôi, trong khi “bản
gỗ cũ của chùa Tiêu Sơn” cũng như Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ
5a4 đều chép tên Thiền uyển tập anh lục. Cái tên Thiền uyển tập anh có
một lai lịch xa xưa và thống nhất như thế. Do đó, chúng tôi đề nghị
chúng ta gọi tên tác phẩm mang những đề danh khác nhau trên bằng cái tên
Thiền uyển tập anh thống nhất vừa nêu.