15/06/2011 14:27 (GMT+7)
Số lượt xem: 24414
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

THIỀN UYỂN TẬP ANH NGỮ LỤC QUYỂN HẠ

40. THIỀN SƯ TỲ NI ĐA LƯU CHI (1) (?-594)
 
Chùa Pháp Vân, làng Cổ Châu, Long Biên (2). Người nước Nam Thiên Trúc (3), dòng Bà La Môn. Nhỏ đã mang chí xuất tục, đi khắp Tây Trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm gậy sang Đông nam.

Triều Trần Đại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp Ngọ (4), lúc mới đến Trường An, lúc Chu Võ Đế phá diệt Phật pháp (5), Sư muốn sang đất Nghiệp (6). Bấy giờ đệ Tam Tổ Tăng Xán vì tị nạn, nên mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không (7). Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên như có sở đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: “Đệ tử bấy lâu không gặp thuận tiện, nhờ hòa thượng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ hai bên”.

Tổ dạy: “Ngươi nên mau qua phương Nam (44b1) tiếp xúc, không nên ở đây lâu”.

Sư từ biệt ra đi, đến Quảng Châu trác tích chùa Chế Chỉ. Đại để 6 năm, dịch được các kinh Tượng đầu (8) và Báo nghiệp sai biệt (9). Đến tháng 3 năm Canh Tý đời Chu Đại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước ta ở tại chùa đó, lại dịch ra kinh Tổng trì, 1 quyển (8).

Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng:

Tâm ấn chư Phật

Tất không lừa dối

Tròn đồng thái hư

Không thiếu không dư (10)

Không đi không đến 

Không được không mất

Chẳng một chẳng khác

Chẳng thường chẳng đoạn

Vốn không chỗ sinh

Cũng không chỗ diệt

Cũng chẳng lìa xa

Chẳng không lìa xa

Vì đối vọng duyên.

    Nên giả dặt tên

    Bởi thế chư Phật ba đời

    Cũng dùng như thế mà được

    Tổ sư nhiều đời

    Cũng dùng như thế mà được

    Ta cũng dùng như thế mà được

    Ngươi cũng dùng như thế mà được

    Cho đến hữu tình, vô tình

    Đều dùng như thế mà được

    Vả, Tổ ta Xán công

    Ấn chứng cho ta tâm đó

    Bảo ta mau Nam hành giáo hóa

    Không nên (45a1) ở lại đây lâu

    Trải nhiều 

    Đến đây

    Nay gặp phải ngươi

    Quả hợp huyền ký

    Ngươi khéo giữ gìn

    Giờ đi ta đến.

Nói xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ. Khi ấy là năm Giáp Dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).

Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán:

    Mở lối sang nước Nam

    Nghe ông lâu tập Thiền

    Mở bày niềm tin Phật

    Xa hợp một nguồn tim

    Trăng Lăng già vằng vặc

    Sen Bát nhã ngát thơm

    Lúc nào đến chẳng gặp

    Cùng nhau bàn đạo huyền (14).

Và tặng phong.

 

DÒNG PHÁP CỦA TỲ NI ĐA LƯU CHI
CHÙA PHÁP VÂN
 

THẾ HỆ THỨ NHẤT
 (MỘT NGƯỜI)
 

41. THIỀN SƯ PHÁP HIỀN  
(?-626)
 

Chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phúc (1), Tiên Du, người Châu Diên (2), họ Đỗ. Thân Cao 7 thước 3 tấc. Ban đầu, Sư đến thọ giới Cụ túc với đại sư Quán Duyên, chùa Pháp Vân. Hằng ngày cùng với đồ chúng nghe giảng về yếu chỉ của thiền. Khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi (45b1) từ Quảng Châu đến ở chùa đó, thấy Sư, nhìn kỹ rồi hỏi: “Ngươi họ gì?”.

Sư hỏi lại: “Hòa thượng họ gì?”.

Lưu Chi nói: “Ngươi không có họ sao?”.

Sư đáp: “Họ thì không phải không có, nhưng làm sao hòa thượng biết?”.

Tỳ Ni Đa Lưu Chi quát: “Biết để làm gì?” (3)

Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật, ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò. Tăng chúng đến ở thường hơn 300. Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh. 

Thứ sử Lưu Phương nhà Tùy đem tâu. Vua Cao Tổ lâu nghe phương này sùng kính Phật giáo, lại trọng Sư đức độ tiếng tăm, sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sai Sư dựng tháp cúng dường (4). Sư bèn tại chùa Pháp Vân ở Luy Lâu (5) và những chùa danh tiếng ở các châu Phong (6), Hoan (7), Trường (8), Ái (9) mỗi nơi dựng tháp thờ.

Sau này, năm Bính Tuất Đường Vũ Đức thứ 9 (626) (46a1), Sư thị tịch[32].

 

THẾ HỆ THỨ  HAI
 (MỘT NGƯỜI)
 
THẾ HỆ THỨ BA
 (MỘT NGƯỜI)
 

THẾ HỆ THỨ TƯ
 (MỘT NGƯỜI)
 

42. THIỀN SƯ THANH BIỆN  
(?-686)
 

Chùa Kiến Dương, làng Hoa Lâm, phủ Thiên Đức (1). Người Cổ Giao (2), họ Đỗ. Năm 12 tuổi theo Pháp Đăng chùa Phổ Quang (3) tu học. Khi Đăng sắp tịch, Sư hỏi: “Sau khi hòa thượng đi, con sẽ nương tựa vào đâu?”.

Đăng dạy: “Con chỉ Sùng Nghiệp mà thôi”.

Sư hoang mang không hiẻu. Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp.

Một hôm, có thiền khách đến viếng hỏi: “Kinh này là mẹ của ba đời các đức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?

Sư đáp: “Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh”.

Thiền khách hỏi: “Thầy trì kinh đã bao lâu?”

Sư đáp: “Đã tám năm”.

Thiền khách hỏi: “ (46b1) Trì kinh cái gì mà tám năm ý một kinh cũng không hiểu, thì dầu bỏ công cả trăm năm cũng không làm được gì?”.

Sư bèn đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.

Khách bảo nên đến Huệ Nghiêm chùa Sùng Nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh nói: “Ta nay mới biết lời nói của Pháp Đăng, quả thật phù hợp”. Bèn liền làm theo.

Vừa đến chùa, Huệ Nghiêm hỏi: “Ngươi đến đây có việc gì?”

Sư thưa: “Lòng con có chỗ chưa ổn”.

Nghiêm hỏi: “Ngươi chưa ổn cái gì?”

Sư liền đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng: “Ngươi tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: ‘Ba đời các Đức Phật cùng giáo pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của các Đức Phật, đều từ kinh ấy ra’. (4) Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ Phật sao?”.

Sư thưa: “Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy”.

Nghiêm lại hỏi: “Kinh đó là người nào nói?”.

Sư đáp: “Há không phải Như Lai nói sao?”.

Nghiêm hỏi: “Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người ấy không (47a1) thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật nói tức là hủy báng kinh; nếu bảo do Phật nói tức là hủy báng Phật. Ngươi phải làm sao? Nói mau! Nói mau!”(5) Sư sắp mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.

Hóa duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính Tuất, đời Đường Thùy Củng thứ 2 (686).

 

THẾ HỆ THỨ NĂM
 (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 
THẾ HỆ THỨ SÁU
 (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 
THẾ HỆ THỨ BẢY
 (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

THẾ HỆ THỨ  TÁM 
(BA NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 
43. THIỀN SƯ ĐỊNH KHÔNG  
(730-808)
 

Chùa Thiền Chúng (1), hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ Pháp (2), họ Nguyễn, mấy đời là vọng tộc. Con người Sư sâu rõ thế số, hành động đúng phép (47b1). Người làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.

Về già, Sư đến Pháp hội của Nam Dương ở Long Tuyền, nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư trở tâm theo Phật.

Trong khoảng Đường Trinh Nguyên (785-804), Sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy mới dừng. Sư giải thích rằng: Thập và khẩu là chữ cổ, thủy và khứ thành chữ pháp, thổ là bản thổ chỉ chỗ ta ở. Nhân đó,  Sư đổi tên làng mình làm Cổ Pháp.[33]  Sư lại làm bài tụng rằng:

      Đất trình pháp khí,

      Một món đồng ròng

Để Phật pháp được hưng long

Đặt tên làng là Cổ Pháp

Sư lại nói:

                        Hiện ra pháp khí

                        Mười khẩu chuông đồng.

                        Họ Lý làm vua

                        Ba phẩm thành công

Sư lại nói:

                   Mười chiếc xuống nước đất

                   Cổ Pháp ấy tên làng

                   Gà sau tháng chuột ở (3)

                   Chính lúc Tam bảo hưng

Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp họa nạn (48a1), chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta[34]. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy”.

Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu Tý Đường Nguyên Hòa thứ 3 (808) (4). Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục Tổ (5) và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi.

 

THẾ HỆ THỨ CHÍN  
 (BA NGƯỜI ĐỀU KHUYẾT LỤC)
 
THẾ HỆ THỨ MƯỜI
 (BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

44. TRƯỞNG LÃO LA QUÝ  
(852-936)
 

Chùa Song Lâm, hương Phù Ninh, phủ Thiên Đức (1). Người An Chân (2), họ Đinh. Thuở nhỏ du phương, học khắp thiền đức. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện chùa Thiền Chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.

Khi Thiện sắp tịch, gọi Sư đến dạy: “Xưa thầy ta là Định Công, thường dặn ta rằng: ngươi giữ pháp ta, gặp người họ Đinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay (48a1) đi vậy”.

Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù sấm. Thường ở chùa Lục Tổ, đúc tượng Lục Tổ bằng vàng, sau sợ trộm lấy đi, bèn đem chôn ở cửa chùa và dặn: “Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu”.

Khi sắp thị tịch, Sư bảo đệ tử Thiền Ông rằng: “Trước kia, Cao Biền (1) xây thành ở Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt sông Điềm (4)và những ao Phù Chẩn (5) v.v... đến 19 chỗ để trấn yểm. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại ở chùa Châu Minh (6) ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ đứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo xây một ngọn tháp bằng gạch đất, dùng phép yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy”.

Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi.

Lại nói đó là vào năm Bính Thân đời Đường Thanh Thái thứ 3 (936) Sư trồng cây bông gạo, thường có bài kệ rằng:

         (49a1)        Đại sơn đầu rồng ngửng

                        Đuôi cù ẩn Châu Minh

                        Định thành thập bát tử 

                        Cây gạo hiện long hình

                        Thỏ gà trong tháng chuột

                        Nhất định thấy trời lên (49a1) (7)

 

45. THIỀN SƯ PHÁP THUẬN  
(925-990)
 

Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải (1). Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, rõ việc đương thời. Nhỏ đã xuất gia, thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Khi đã đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng hợp với sấm ngữ.

Đang vào lúc nhà Lê mới dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ Thái Bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ pháp sư, đem việc văn thư giao phó cho Sư (2).

Năm Thiên Phúc thứ 7 (986) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm quan coi bến để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:

    Song song ngỗng một đôi

    Ngửa mặt ngó ven trời

Sư đang cầm chèo, ngâm theo cho đủ:

    Lông trắng phơi dòng biếc

    Sóng xanh chân hồng (49b1) bơi

Giác do đó thán phục (3).

Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:

    Vận nước như mây quấn

    Trời Nam mở Thái Bình

    Vô vi trên điện các

    Xứ xứ hết đao binh

Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời.

 

46. THIỀN SƯ MA HA[35]
 

Chùa Quan Ái, làng Đào Gia, Cổ Miệt (1). Tổ tiên là giống người Chiêm Thành, sau mạo tánh họ Dương. Cha tên Bối Đà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối[36] (2). Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo, học thông tiếng Hán và Phạn.

Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường những lúc diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: “Sao dùng cái học bên ngoài đó (3), chắc chắn không thể hiểu được nghĩa lý”. Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Đông Lâm (50a1) ngăn rằng: “Đừng! Đừng!”. Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.

Về sau, Sư đến chùa Cổ Sơn thọ giáo với Đỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Đại bi tâm chú (4), trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ. Bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.

Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Đại Vân (5) tại Trường An, ngày ngày siêng năng tu tập, chứng được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.

Hoàng đế Lê Đại Hành (6) ba lần mời Sư vào cung hỏi han. Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt đến lần thứ ba, Sư mới đáp: “Cuồng tăng ở chùa Quan Ái”. Vua cả giận, sai giữ Sư tại chùa Vạn Tuế trong đại nội, cho người khóa cửa canh giữ. Đến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.

Sư đi về phía Nam đến Ái Châu, ở trấn Sa Đảng (7). Tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại đều chuyên nghề sát sinh. Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: “ (50b1) Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái”. 

Sư bảo: “Các ngươi nếu có thể bỏ ác theo lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu cho”.

Dân làng thưa: “Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu ông chữa lành được, chúng tôi sẽ theo lời khuyên”. 

Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.

Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: “Hòa thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời Ngài dạy”.

Sư bảo: “Đã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi”.

Họ Ngô đùa nói: “Có đau thì Ngô tôi tự chịu thay cho”.

Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở hào hễn, van to: “Ông Ngô đâu chịu thay cho ta”. Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.

 Sư tự chấp tay niệm: “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng (8), cứu con với”. Giây lát, bèn mửa ra thịt thì thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh hãi. 

Sư bảo: “Thân ngươi bệnh, theo (51a1) ta thì lành ngay. Đến khi ta đau bụng, các ngươi không thay thế ta. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?”. Dân làng đều bái tạ xin vâng.

Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Đô úy Nguyễn Quang Lỵ (9) thỉnh Sư trụ trì chùa Khai Thiên ở phủ Thái Bình (10). Được sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan Châu. Sau không biết Sư mất ở đâu.[37]
 
 

 

THẾ HỆ THỨ MƯỜI MỘT
 ( BỐN NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

47. THIỀN ÔNG ĐẠO GIẢ  
(902-979)
 

Chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức (1). Người Cổ Pháp (2), họ Lữ. Nhỏ theo học đòi việc đời, sau theo Đinh trưởng lão xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ Mão Đinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.

 

48. THIỀN SƯ SÙNG PHẠM  
(1004-1087)
 

Chùa Pháp Vân (1), làng Cổ châu, Long Biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.

Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương Thành (2). Khi đã được tâm ấn, bèn dạo khắp Thiên Trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm (51b1) hiểu giới, định.

Về sau, Sư ở chùa Pháp Vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều lần thỉnh Sư vào cung (3) để thưa hỏi thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.

Năm Đinh Mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.

Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:

                        Sùng Phạm ở nước Nam

            Lòng vắng, đỗ đạt về (4)

            Tai dài hiện tướng tốt

            Pháp pháp thảy ly vy (5)

 

THẾ HỆ THỨ MƯỜI HAI
 ( BẢY NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

49. THIỀN SƯ VẠN HẠNH  
(?-1025)
 

Chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ Pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ Phật. 

Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận (1), xem thường công danh.

Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mỏi mệt.

Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa (2), lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra (52a1) lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn kính Sư.

Năm Thiên Phúc thứ nhất (981) Hầu Nhân Bảo nước Tống sang cướp, đóng quân tại Cương Giáp, Lãng Sơn (3). Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp: “Trong 3, 7 ngày giặc phải lui”. Sau quả nhiên như thế.

Đến khi vua muốn đánh Chiêm Thành, việc bàn định chưa dứt khoát (4), Sư tâu: “Xin mau cất binh, đừng để mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.

Thường có kẻ gian là Đỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Sư dự kiến việc chưa phát, đem kệ đưa cho y nói:

                        Cây đất sinh nhau bạc với vàng (5)

                        Cớ sao mưu hại mãi cưu mang

                        Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt (6)

                        Thật đến về sau chẳng hận lòng

Ngân sợ liền thôi. Ấy là tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.

Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người đều thán. Lý Thái Tổ khi ấy làm Thân vệ, chưa nhận lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điềm tốt xấu xuất hiện xen nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp, có con chó trắng, lông trên lưng hiện thành chữ “Thiên tử” (7). Sét đánh vào cây bông gạo (52b1) để lại dấu chữ (8). Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng (9). Cây đa chùa Song Lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ “Quốc” (10). Những việc này tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở chùa Lục Tổ đã biết trước, gọi hai vua chú bác (11) nói:

“Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Nội trong ngày, Thân vệ ắt được thiên hạ”. Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng: 

                        Tật Lê chìm bể Bắc

                        Hạt Lý mọc trời Nam (12)

                        Bốn phương gươm giáo lặng

                        Tám cõi mừng bình an

Hai vương nghe nói rất sợ, sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.

Đến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) (13), Sư không bệnh, nói bài kệ:

      Thân như bóng chớp có rồi không

      Cây cỏ xuân tươi thu não nùng

      Theo vận thịnh suy không hãi sợ

      Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương(14) 

Lại dạy đệ tử rằng: “Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không (53a1) nương vào chỗ không trụ để trụ”.

Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:

Vạn Hạnh dung ba cõi

              Thật hiệp lời sấm xưa

              Quê hương tên Cổ Pháp

              Chống gậy trấn kinh đô[38] (15).

 

50. THIỀN SƯ ĐỊNH HUỆ
 

Chùa Quang Hưng, làng An Trinh, phủ Thiên Đức (1). Người Cảm Điền, Phong Châu (2), họ Khúc. Ban đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn. Đến khi thị tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh. (53b1)[39]

51. THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH 
(?- 1117)
 

Chùa Thiên Phúc (1), núi Phật Tích (2), họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô án, thường đi học tại làng Yên Lãng (3). Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ. Sư là con nàng Tăng Thị vậy (4).

Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa (5) và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.

Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn. Từ đấy ông cụ không lo nữa. 

Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên (6). Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu (7). Hầu nhờ Pháp sư Đại Điên (8) dùng phép đánh chết (54a1), ném xác xuống sông Tô Lịch (9). Xác trôi đến cầu Quyết (10) là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Đại Điên. Đại Điên đến nơi, đọc một câu kệ: “Tăng giận không cách đêm”. Đọc xong, xác đáp lại trôi đi.

Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Điên đi khỏi nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: “Đừng, đừng!”. Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại Điên. Đi đến xứ Mọi răng vàng (11), đường sá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: “Đệ tử là Tứ trấn Thiên vương (12), cảm công đức trì chú của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”. Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây Dương (13) dừng lại. Sư mừng (54b1) nói: “Pháp ta thắng rồi”. Bèn đến thẳng chỗ Đại Điên. Điên thấy nói: “Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?”.

Sư ngửa mặt nhìn lên trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Đại Điên phát bệnh chết.

Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình (14), Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:

Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng

Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân

Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện

Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm

Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:

  Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu

         Ở trong tỏ rõ ý thiền nao

         Bồ đề đạo đó hà sa cõi

  Muốn tới còn xa mấy vạn sào

Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp Vân hỏi: “Thế nào là chân tâm?”.

Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?”.

Sư tỉnh ngộ, nói: “Làm thế nào quyết chắc?”.

Phạm đáp:      “Đói ăn, khát uống”. (15)

Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đó (55a1) pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thuần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm (16).

Có vị Tăng hỏi: “Đi, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?”.

Sư dạy bài kệ: 

                        Tạo có, mảy may có

                        Làm không, tất cả không,

                        Có không như trăng nước,

                        Chớ vướng có không không

Lại bảo:

Trời trăng đỉnh núi cao

Người người mất hết châu

              Kẻ giàu có ngựa tốt

              Đi bộ chẳng cỡi câu

Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh Hóa dâng sớ tâu rằng: “Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết”.

Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm Hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được (55b1), và nói: “Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập”. Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai. 

Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: “Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối Chánh pháp sao!”.

Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: “Đầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào”. 

Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng Thánh, hợp quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: “Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn”.

Hầu nhận lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: “Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, nên kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ”.

 (56a1) Hầu chậm rãi thưa: “Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh”.

Vua xá tội (17).

Sư đến nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: “Khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết”.(18)

Đến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay áo quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: “Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương (19). Đến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam. (20) “Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa”. Đồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng:

                        Thu sang không báo nhạn về đây

                        Cười nhạt người đời thương xót thay

                        Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái

                        Thầy xưa (56b1) bao thuở vẫn thầy nay

Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn[40]. (21)

 

52. THIỀN SƯ TRÌ BÁT 
(1049-1117)
 

Chùa Tổ Phong, núi Thạch Thất, Hương Đại Cù, Tân Trại (1). Người Luy Lâu (2), họ Vạn.Tuổi còn chơi đất mà đã mộ Phật rất thiết. Đến lúc đội mũ, tới xuống tóc và thọ Cụ túc giới với Sùng Phạm chùa Pháp Vân. Phạm thấy Sư tính hạnh siêng năng, gặp việc cẩn thận, bèn dốc lòng ấn khả và ban cho hiệu trên.

Khi Phạm quy tịch, Sư tự mình đi khắp những chỗ giảng thiền, trải hỏi các bậc tôn túc, rồi trở về chùa đó giảng dạy nghiên cứu. Tướng quốc Thái úy Nguyễn Thường Kiệt (3), lúc bấy giờ là vị đàn chủ. Những gì Sư được dâng cúng, đều đem dùng vào việc Phật. Sư đồng thời dựng lại các chùa Pháp Vân, Thiền cư, Thê Tâm và Quảng An ... để đáp lại ân pháp nhũ.

Ngày 18 tháng 2 (57a1), năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), khi sắp thị tịch, Sư nói kệ rằng:

          Có chết tất có sống

          Có sống tất có chết

          Chết đời lấy làm buồn

          Sống đời lấy làm vui

          Buồn vui thật vô cùng

          Bỗng nhiên thành đây đó

          Đối với việc sống chết

          Chẳng có gì bận lòng

Án tô rô tô rô tất rị (4)

Nói kệ xong, Sư ngồi thẳng mà mất, thọ 69 tuổi. Môn đồ đệ tử là thiền sư Tịnh Hạnh, Pháp Nhãn và Thuần Chân thu di cốt hỏa táng.

 
53. THIỀN SƯ THUẦN CHÂN 
(?-1101)
 

Chùa Hoa Quang, làng Tây Kết, Thượng Nghi (1). Người Cửu Ông, Tế Giang (2), họ Đào. Tuổi nhỏ đã lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp Pháp Bảo chùa Quang tịnh (3) nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình để theo học với Bảo. Chẳng được bao năm, cửa tù đập vỡ, ánh điện lửa đá theo gõ phát ra, dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức. 

Vào ngày 7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 5 (1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là Bản Tịch vào thỉnh ích. Sư thuyết (57b1) bài kệ:

     Chân tánh thường không tánh

           Sao từng có diệt sinh

           Thân là pháp sinh diệt

           Pháp tánh diệt chửa từng

Rồi thì mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.

 

THẾ HỆ THỨ  MƯỜI BA
 (SÁU NGƯỜI,  HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 
54. TĂNG THỐNG HUỆ SINH 
(?-1064)
 

Chùa Vạn Tuế, kinh đô Thăng Long, người Đông Phù Liệt (1), họ Lâm, tên Khu, hậu duệ của Lâm Phú ở Trà Sơn, Vũ An (2). Khoáng lấy con gái của Quách tăng lục, nhơn dời nhà đến Phù Liệt, sinh được 2 con. Người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy. 

Tướng mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho rảnh rỗi, Sư nghiên cứu thêm sách Phật. Bách luận và các kinh, không gì là không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ trọng yếu của Phật pháp, Sư chưa từng không than thở rơi lệ.

Năm 54 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc Lâm (3) thờ (58a1) Định Huệ chùa Quang Hưng làm thầy. Học thiền ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ. Rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà (4) trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân (5).

Lý Thái Tông nghe tiếng, sai sứ đến mời. Sư gọi sứ bảo: “Ông không thấy con vật cúng sinh sao? Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị dắt vào Thái miếu, muốn xin làm con vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể được, huống nữa các việc khác?”. Sư cố từ không được, nên đến lần thứ hai, Sư mới về kinh. Gặp mặt, vua rất vui, phong làm Nội cung phụng tăng (7) sắc trụ trì chùa Vạn Tuế.

Một hôm, nhân dịp trai tăng trong Đại nội, vua gọi Sư nói: “Trẫm nghĩ, nguồn tâm của Phật tổ, người học chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mỗi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để xem chỗ dụng tâm của quý vị ra sao”. Sư lên tiếng đáp thành kệ rằng:

  Pháp vốn như không pháp

  Chẳng có cũng chẳng không

  Nếu người biết pháp ấy

  Chúng sinh cùng Phật đồng

  Trăng Lăng già vằng vặc 

 (58b1)        Thuyền vượt biển lâng lâng

Hiểu không, không biết có

Tam muội mặc thong dong

Vua rất khen thưởng, rồi phái làm Đô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết Thiên Vương (8), Thái tử Vũ Uy (9), Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh, Thượng tướng Vương Cường (10), Thái sư Lương Nhậm Văn, Thái bảo Đào Xử Trung và Tham chính Kiều Bồng (11) đều tới lui hỏi đạo, giữ lễ thầy trò. 

Đến triều Thánh Tông, Sư đổi đến chức Tả nhai đô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng tên (12).

Năm Giáp Thìn Gia Khánh thứ 6 (1064) (13), lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng:

              Nước lửa ngày chan hòa

              Do lai, chửa nói ra

              Tin ông không xứ sở

              Ba ba lại ba ba (14)

 Lại nói:

              Từ xưa đến theo học

              Người người chỉ phía nam (15)

              Nếu ai hỏi việc mới

              Việc mới trăng mồng ba

Rồi tắm rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia văn các chùa Thiên Phúc (16), Thiên Thánh, Khai Quốc tại Tiên Du và chùa Diệu Nghiêm Báo Đức tại Vũ Ninh (17). Lại có Pháp sự trai nghi (18) và Chư đạo (59a1) tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.

 
55. THIỀN SƯ THIỀN NHAM  
(1093-1163)
 

Chùa Trí Quả (1), làng Cổ Châu, Long Biên. Người Cổ Châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi Tăng quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng trong hay. Thường tập môn Tổng trì đà la ni, xây lưng mà đọc, không sót một chữ. 

Trong khoảng Hội Phong (1092-1100), Sư ứng thí kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện vua, đều trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành Đạo mà được ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.

Lúc đầu, Sư đến ở chùa Thiên Phúc, núi Tiên Du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn, ăn lá cây uống nước suối, trải đến sáu sương. Sau đó, Sư trở về làng mình, trùng tu lại chùa Trí Quả mà trụ trì. Trong khoảng Đại Thuận (1128-1132), trời hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm. Vua phái làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước cầu đảo, Sư đều làm chủ. 

Tháng 2 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ nhất (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Đến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời (59b1) bấy giờ gọi là Phật sống (6).

Sau này, mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.

 

56. QUỐC SƯ MINH KHÔNG (1066-1141)
 

Chùa Quốc Thanh, Trường An (1). Người làng Đàm Xá, Đại Hoàng (2), họ Nguyễn, tên Chí Thành. 

Sư thường đi du học gặp thiền sư Từ Đạo Hạnh chùa Thiên Phúc. Hạnh mến sư, cho phép theo hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn dốc lòng ấn hứa và cho tên Minh Không. Đến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng: “Xưa đức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả báo hùm vàng, huống ở đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay còn phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối với ngươi có duyên, xin nhờ cứu với”.

Hạnh mất rồi, Sư trở về làng cũ, cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm, lương y trong thiên hạ (60a1) ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không thể làm gì được (3). Bỗng nghe có trẻ con ca rằng: “Muốn trị bệnh Thiên tử, phải có Nguyễn Minh Không”. Bèn sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp được Sư (4). 

Khi Sư  đến, tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa, họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột điện, lên tiếng nói: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng”. Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khíếp phục. 

Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: “Đấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?”

Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ để tưởng thưởng.

Vào một ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Đại Định (5) thứ 2 (1141), Sư mất, thọ (60b1) 76 tuổi (6).

 

57. THIỀN SƯ BẢN TỊCH[41] (?-1139)
 

Chùa Chúc Thánh, làng Nghĩa Trú, Bình Lạc (1). Người Tây Kết, họ Nguyễn, hậu duệ của Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ, lấy làm kỳ nói rằng: “Đứa bé này cốt tướng phi phàm, nếu xuất gia, chắc thành hạt giống của Phật pháp”. 

Đến khi lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa Quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại thọ giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một biết mười, xoa đầu nói rằng: “Chánh pháp phía Nam, đang đợi ông đến xiển dương”. Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm (2). Đến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục ngưỡng mộ.

Ngày 14 tháng 6, mùa hè năm Kỷ Mùi Thiệu Minh thứ 3 (1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng: “Vô sự! Vô sự!”. Nói xong thì mất.

 

           
     
            THIỀN  UYỂN TẬP ANH (61a1)
 
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN
 (BỐN NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

58. TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ 
(1067-1142)
 

Làng Từ Liêm, Vĩnh Khương (1). Người Cổ Giao, Long Biên, họ Nguyễn, dòng dõi tịnh hạnh. Nhỏ không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc Thánh.

Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: “Cái gì là ý chính thiền tông của các Tổ?”. Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: “Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?”.

Sư thưa: “Hòa thượng chớ giỡn mãi”.

Tịch nói: “Ta chưa từng giỡn bao giờ”.

Sư không hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn Tuế. Biện Tài hỏi: “Ngươi từ đâu đến đây?”

Sư thưa: “Từ Tịch công đến”.

Tài hỏi: “Thầy đó cũng là một bậc thiện tri thức một phương, thế ông ta đã từng nói câu gì?”.

Sư thưa: “Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu mà thầy không trả lời, nên con bỏ đi”.

Tài hỏi: “Ông hỏi cái gì?”.

Sư kể lại chuyện trước. 

Tài bảo: “Ôi! (61b1) Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của ông”.

Sư trầm ngâm suy nghĩ. 

Tài nói: “Không thấy nói: Hiểu được khắp nơi có, không ngộ mãi trái sai?” (2)

Sư bỗng nhiên đốn ngộ, bèn trở về.

Tịch thấy, hỏi:“Ngươi từ đâu đến mau thế?”

Sư lạy nói:  “Con có tội hủy báng hòa thượng, nên đến xin sám hối vậy”.

Tịch dạy: “Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?”.

Sư đáp:        “Xin sám hối như vậy”.

Tịch bèn thôi.

Sư thường cùng hai thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo: “Các ông theo học với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để ta xem mỗi ông tiến đạo như thế nào?”.

Nhãn và Như sắp mở miệng thì Sư quát: 

“Một màn che mắt

Hoa đốm rối rơi” (3).

Tịch hỏi: “Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc đo”? (4)

Sư thưa: “Cần gì thuyền”?

Tịch nói: “Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào, 

Ngươi chỉ giải thoát đến việc bên nầy thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy được”.

 (62a1) Sư đáp:    “Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi”.

Tịch hỏi: “Buông thả sào trăm thước 

Lao đầu một mình đi”.(5)

Ngươi hiểu sao?

Sư giơ hai tay lên đáp: “Không nguy hiểm, không nguy hiểm!”

Tịch nói: “Buông đi tức khắc!”

Từ đó, danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137), Sư được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái làm Tăng lục, rồi thăng làm Tăng thống.

Một hôm, đệ tử Pháp Dung hỏi: “Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay Thánh?”

Sư trả lời bằng bài kệ: 

Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không

Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông

Thiên ngoại tìm tâm khôn định thể

Nhân gian trồng quế há thành rừng?

Càn khôn gom lại đầu sợi tóc

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng (6).

Trước mặt nắm tay dùng việc lớn (7)

Ai hay phàm thánh với tây đông

Nói xong, ngày 27 tháng 01 năm Nhâm tuất Đại Định thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất, thọ 76 tuổi (8). Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời (9)[42].

 

 (62b1)                      THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM
 (BA NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

59. THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG
 

Chùa làng Tháp Bát, quận Mãn Đẩu (1). Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên Hòa núi Chân Ma (2). Xuất gia và thọ giới Cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch (3). Trải qua 5 năm, chuyên thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Đi tới Nam Sách, Sư vào núi Thánh Chúa (4) ở cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục. 

Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Đại Thuận thứ 8 (5), có nạn dịch lớn, Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia Lâm (6), dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng, cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.

Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi khác. Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:

(63a1)     Ta có một việc kỳ đặc

Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen

Thiên hạ tại gia xuất gia

Yêu sống, ghét chết là giặc

Không biết sống chết khác đường

Sống chết chỉ là được mất

Nếu bảo sống chết khác đường

Dối lừa Thích Ca Di Lặc

         Nếu biết sống chết, sống chết

         Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng

         Các ngươi môn nhơn hậu học

        Chẳng nhận vòng vo phép tắc

Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là Châu mục Lê Kiếm (8) và Phòng át sứ Hán Đinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.

 

 

 

60.THIỀN SƯ PHÁP DUNG (1) 
(?-1174)
 

Chùa Hương Nghiêm, núi Ma Ni (2), phủ Thanh Hóa. Người Bối lý (3), họ Lê, là hậu duệ của Châu mục Ái Châu Lê Lương đời Đường (4), trải 15 đời là một họ nổi tiếng của châu đó. Cha là Huyền Ngưng, đạo hiệu Tăng Phán (5). Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Đối với kinh vàng kệ ngọc, không gì là không đọc tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia (6). Hỷ thấy, lấy làm lạ, bèn trao (63b1) pháp ấn (7). Từ đó, Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Đến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác tích tại chùa Khai Giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò (8), người học đầy nhà. Sau sư trở về núi Ma Ni, dựng chùa để dưỡng lão.

Ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp Ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174) (9), Sư không bệnh mà hóa. Môn nhơn Đạo Lâm v.v.. làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.
 
 

 
THẾ HỆ THỨ MƯỜI SÁU
 (BA NGƯỜI)
 
61. THIỀN SƯ TRÍ NHÀN[43] (1)
 

Am Phù Môn, núi Cao Dã, Yên Lãng (2). Người Phong Châu (3), họ Lê, tên Thước là miêu duệ của Ngự Man Vương triều Lê (4). Ông nội là Thuận Tông làm quan với triều Lý đến chức Trung thư Đại liêu ban, lấy công chúa Kim Thành (5). Cha là Đạc, làm quan đến chức Minh Tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên Đô tuần kiểm cùng được bổ làm Châu mục (6). Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu thư gia (7).

Năm 27 tuổi, một hôm (64a1) theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng kinh Kim cang đến câu “Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như thế” (8). Sư bỗng nhiên cảm ngộ, than rằng: “Năm lời của Như Lai (9) đâu có điêu ngoa. Các pháp thế gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà Nho có thể nói tới đạo vua tôi, cha con (10), còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của Thanh văn, Bồ tát (11). Hai lời dạy dù khác nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì nếu không phải giáo lý của đức Thích Ca, quyết không thể vậy”. Bèn xin xuống tóc.

Sau khi đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm thiền định, chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm. 

Một hôm Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: “Tất cả chúng sinh đều tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau”. Cọp cúi đầu sát đất, tỏ dấu quy y rồi đi.

Về sau, Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của chất thành đống. Mọi Lào gần núi (64b1) gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi Sư ra đi, thường có con cọp lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm. Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số không thể kể xiết.

Hai triều đại Anh Tông và Cao Tông, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc Thái úy Tô Hiến Thành và Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:

Đã mang chí vượt, dưỡng trong lòng

Nghe nói lời mầu, ý những nương

Tham dục bỏ xa ngoài vạn dặm

Hi di diệu lý ngày bao dung (12)

Lại nói:

              Đạm bạc giữ mình 

              Chỉ đức là việc

              Hoặc bảo lời lành

              Một câu khăng khít

              Lòng không kia, ta

              Đã hết mù mịt 

              Ngày đêm xuống lên

              Không hình bám vít

              Như bóng như vang

              Không dấu theo vết

Nói xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang rung động cả núi rừng.

 

62. THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG (65a1) 
(1046-1100)
 

Chùa Chúc Thánh, núi Phổ Lại, Phù Lan (1). Người Phù Đổng, Tiên Du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một Tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được Sư.

      Thuở nhỏ Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách sử. Đến tuổi đội mũ Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất chùa Tịnh Lự, núi Đông Cứu (2) nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.

Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau (3). Nhập thất sáu năm, xét hỏi ngày thêm tiến bộ. Liền nhận được tâm ấn, bèn đến ở núi ấy theo luật mà tự giữ, không xuống cửa núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.

Vua Lý Nhân Tông nghe được, xuống chiếu mời vào đại nội giảng kinh Pháp hoa, thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ, Thái úy Nguyễn Thường Kiệt, Thứ sử Lạng Châu là tướng quốc Thân Công (4) càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp (65b1) và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.

Một lần, có vị Tăng hỏi: “Thế nào là đạo mầu?”

Sư đáp:         “Giác ngộ rồi mới biết”.

Tăng hỏi thêm: “Giáo chỉ từ xưa người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?”.

Sư đáp:         

        “Nếu đến nhà tiên trong động thẳm

         Thuốc đan đổi cốt được đem về”.

Hỏi: “Thế nào là viên thuốc đan?”.

Sư đáp: 

        “Nhiều kiếp ngu si không hiểu rõ

               Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày”.

Hỏi: “Thế nào là tỏ bày?”.

Sư đáp:

              “Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà

               Tất cả chúng sinh cùng một nhà”.

Lại hỏi: “Tuy không giải đích xác chốn chốn đều gặp y (5). Cái nào là y?”.

      Sư đáp:

“Lửa kiếp (6)lẫy lừng thiêu rụi hết

 Núi xanh như cũ trắng mây bay”.

Lại hỏi: “Sắc thân tan rã rồi thì sao?”.

Sư đáp:

  “Xuân đến xuân đi nghi xuân hết

                    Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân”.

Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:

              “Đồng bằng sau cơn lửa

              Cây cối mỗi tươi thơm”.

Tăng vái lạy.

Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo (66a1) Cảm. Đến ngày 01 tháng 11 năm Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:

                        Trống vắng gốc màu sáng rực ra

                        Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà

                        Người người thảy biết vô vi sướng

                        Nếu được vô vi mới phải nhà

Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:

                 Đạo ta đã thành

                 Giáo ta đã thành

                 Ta theo biến hóa

Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ (7). Hoàng thái hậu và công chúa Thiên Thành (8), cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân (9) đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Đại Minh và Sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, Công bộ thượng thư Đoàn Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:

                Triều đình thôn dã nức cao phong

                Gậy chống như mây gặp hội rồng

          Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy

                Than dài rừng đạo, đọt tùng buông

                Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới

                Núi xanh soi nước thấy hình vương (66b1)

                Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ

Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn(10)

 

63. THIỀN SƯ ĐẠO LÂM 
(?-1203)
 

Chùa Long Vân, làng Siêu Loại, Long Phước (1). Người Cửu Cao, Chu Diên (2), họ Tăng sớm mộ Không tôn (3), chí hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp Dung chùa Hương Nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều năm, mật nhận tâm ấn, bèn được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi người không ít. 

Đến tháng 5 năm Quý Hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.

 
 

THẾ HỆ THỨ MƯỜI BẢY
 (CÓ BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 
64. THIỀN SƯ DIỆU NHÂN 
(1042-1113)
 

Viện Hương Hải, làng Phù Đổng, Tiên Du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Yết Vương (1), bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tông nuôi ở trong cung. Đến tuổi cập kê, vua gả cho Châu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự thề ở vậy giữ nghĩa (67a1) không tái giá.

Một hôm than rằng: “Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn phù vinh có thể nương tựa được sao?”

Do đó, đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân Không tại làng Phù Đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho phép trụ trì tại Ni viện. Cô giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là bậc tôn túc trong hàng Ni chúng. Có ai đến cầu học, Cô tất đem Đại thừa ra giảng dạy và nói: “Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà thể nhập, hãy thường tịch tịnh, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ”.

Có học trò hỏi: “Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh (2), sao gọi là khi nào cũng tránh xa thanh sắc?”.

Cô đem giáo nghĩa đáp: “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không thể thấy Như Lai”(3).

      Lại hỏi: “Sao gọi là ngồi yên?”(4)

      Cô đáp: “Xưa nay không đi”.

      Lại hỏi: “Sao gọi là không lời?”

      Cô đáp: “Đạo vốn không lời”.

Ngày 01 tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), Cô cáo bệnh (5) (67b1) nói kệ:

           Sinh, già, bệnh, chết

           Từ xưa thường vậy

           Muốn cầu thoát ly

           Cởi trói thêm buộc

           Mê mới tìm Phật

           Lầm mới cầu thiền

           Thiền Phật chẳng tìm

           Ngậm miệng không nói(6)

Bèn gội tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.

 

65. THIỀN SƯ VIÊN HỌC 
(1073-1136)
 

Chùa Đại An Quốc, làng Cổ Hạnh, Tế Giang (1). Người Như Nguyệt (2), họ Huỳnh. Nhỏ học sách đời, đến tuổi đội mũ, đi học nội điển (3), nhân nghe một câu nói của Chân Không, tâm địa bỗng nhiên tỏ ngộ.

Từ ấy, thiền học cao vút, luật nghi không ngại, thân mặc một áo suốt mùa lạnh nóng, bình bát tích trượng mang theo bên mình, tùy phương khai hóa; cho đến sửa cầu, đắp đường, không việc nào là không xung phong trước. Sau, Sư về làng Phù Cầm, trùng tu chùa Quốc Thanh và đúc chuông. Thường có bài kệ duyên hóa sau:

Sáu thức (5) thường mê đêm trọn khổ,

Vô minh che khuất mãi lười buông

Sớm tối nghe chuông khơi giác ngộ

Thần lười diệt sạch được thần thông

Ngày 14 tháng 6 mùa hè năm Bính Thìn Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), Sư thị tịch, thọ (68a1) 64 tuổi. Các môn đệ Ngô Thông Thiền (6), Lưu Vương Nhân, Lữ Pháp Hoa và Châu Diệu Dụng thu di cốt, xây tháp để thờ. 

 

 

 

66. THIỀN SƯ TỊNH THIỀN 
(1121-1193)
 

Chùa Long Hoa, làng Cổ Giao, Long Biên. Người làng Cổ Giao, họ Phí, tên Hoàn. Ban đầu, cùng với bạn đồng học là Tịnh Không thờ Đạo Lâm chùa Long Vân làm thầy. Hằng ngày miệt mài học hỏi, sâu hiểu lẽ huyền, Lâm biết Sư sẽ là pháp khí, nên ban hiệu và ấn chứng rằng: “Tịnh là tịnh trí diệu viên, Thiền là thiền tâm thường tịch”. Đến khi Lâm tịch rồi, Sư bèn đi khắp chốn thiền, tìm bạn học thêm. Lúc duyên đạo đã thuần, bèn về làng cũ, trùng tu chùa Long Hoa. Ngoài lúc khảo sát thiền luật, Sư luôn nghĩ đến việc lợi tha. 

Ngày 12 tháng 8 mùa thu năm Quí Sửu Thiên Tư Gia Tự thứ 6 (1193) Sư thị tịch, thọ 73 tuổi. Môn đồ là Pháp Ký soạn bia văn tại chùa có nói:

Sư sinh đời Lý

Ra gặp thời minh

Lục độ (1) há quen 

Tứ hoằng (2) không bỏ

Chén thơm chỗ nổi

Mười phương tín chủ sóng về

Gậy tích khi khua

Bốn chúng học đồ mây nhóm

Thần thông khôn tính

Huyền dụng khó lường

Nếu chẳng đến Phật giác trường

Đâu hay thảnh thơi nghiệp tốt.

               Quả đúng:

Trời Thích trăng báu

Vườn Pháp thôn thiêng.

 

THẾ HỆ THỨ MƯỜI TÁM
 (CÓ HAI NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 

67. QUỐC SƯ VIÊN THÔNG 
(1080- 1151)
 

Chùa Quốc Ân, làng Cổ Hiền, Nam Định (1). Người Cổ Hiền, họ Nguyễn tên Nguyên Ức. Sau về ngụ tại phường Thái Bạch (2) kinh thành Thăng Long, nhân thể làm nhà ở đó. Dòng dõi làm Tăng quan. Cha là Huệ Dục làm quan triều vua Lý Nhân Tông đến chức Tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác thiền sư (3). Sư bẩm tính thông minh, tài học tinh diệu, sớm có chí xuất trần, thường gặp Viên Học chùa An Quốc, nhân đó mà được yếu chỉ. Năm Hội Phong thứ 6 (1197), đỗ Giáp khoa khoa thi tam giáo (4) được sung vào chức Đại văn. Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1106), vua chọn những bậc hoằng tài trong thiên hạ, để bổ vào chỗ khuyết trong giai Tăng đạo, Sư lại đứng đầu trong kỳ thi tuyển này, Vua càng cho (69a1) là lạ, sắp đem trao Sư quyền hành chăn dân. Sư cố từ không được, bèn nhận chức Nội cung phụng truyền giảng pháp sư.

Từ đó, Sư tùy cơ diễn hóa, chỉ bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê trừ việc dốt, quyết không để vết. Những kẻ thọ nghiệp với Sư đều được hiển danh đương thời.

Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất (1127), chùa Trung Hưng diên thọ làm xong (5), vua sai Sư soạn văn bia. Vua kính trọng tài Sư, nên đổi Sư làm Tả nhai tăng lục. Năm Đại Thuận thứ 3 (1130), Lý Thần Tông mời Sư vào điện Sùng Khai. Vua hỏi về lý trị loạn hưng vong trong thiên hạ.

Sư đáp: “Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy”

Lại đáp: “Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn. Thần từng xem qua các triều vua chúa đời trước, chưa từng có triều đại nào, không dùng bậc quân tử mà được thịnh, không dùng kẻ tiểu nhân mà (69b1) suy. Cho đến nỗi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một chiều, mà chỗ do lai đã lâu lắm vậy (6). Trời đất không thể bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có xuân, thu. Đấng nhân quân (không thể) bỗng nhiên trở nên hưng vong, tất là từ từ có thiện, ác. Thánh Chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái đức không nghỉ của đất để yên người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hãi tựa leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng, trái thế thì không gì là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong, chính ở nơi đây vậy”.

Sư đối đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai tăng thống tri giáo môn công sự. Sư được tự do gần vua, dâng lời chỉ bảo, chưa từng thiếu sót.  Sau đó Sư phụng chiếu đến đền Tây dương (7) cầu giữ thai vua có ứng nghiệm. Do đó, vua càng thêm kính trọng, ban cho Sư khi vào triều được đứng ngang hàng với Thái tử.

Năm Thiên Chương Gia Thụy thứ 5 (1137), xe vua gác giá (8)  Sư dự nhận cố mạng và (70a1) phụng di chiếu, chủ trì mọi việc bàn tính phó thác. (9)

Năm Thiệu Minh thứ 1 (1137), Anh Tông khi đã lên ngôi, Thái hậu (10) nhiếp chính (11), cho Sư đã có công giúp vua, và nhiều lần trọng thưởng. Sau đó, Sư về lại quận mình lập chùa dưỡng già. Phí tổn xây dựng (12) đều do quỹ Vua  ban cấp, đồng thời ban chữ (13) để chùa thêm sang.

Năm Đại Định thứ 4 (1143) Vua thăng Sư giữ chức Tả hữu nhai tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự truyền giảng Tam tạng văn chương ứng chế hộ quốc quốc sư tứ tử y đại sa môn. Đức vua đã trọng Sư, nên quần thần lại càng trọng vọng hơn nữa. Từ triều đình đến thôn dã cũng đều như thế.

Ngày 21 tháng 4 nhuần năm Tân Mùi Đại Định (1151),  Sư nhóm đồ chúng từ biệt, không bệnh mà mất, thọ 72 tuổi. Sư thường phụng chiếu biên soạn Chư Phật Tích duyên sự hơn 30 quyển (15), Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục hơn 50 quyển (14) và thi phú hơn nghìn bài (16) lưu hành ở đời.

 

THẾ HỆ THỨ  MƯỜI CHÍN
 (HAI NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
 
68. THIỀN SƯ Y SƠN (70b1) 
(?- 1216)
 

Chùa Đại Từ, Đại Thông Trường, Long Phúc (1). Người Cẩm Hương, Nghệ An (2), họ Nguyễn, Sư mặt mày đẹp đẽ, ăn nói hoạt bát. Thuở nhỏ đi học, coi khắp thư sử, chọn bạn, lựa nghề tất nhằm hữu ích. Nhưng đối với kinh điển Tây Trúc, Sư hết sức lưu tâm. Năm 30 tuổi sư xuất gia với một vị Trưởng lão trong làng, sau đến kinh thành tham bái Quốc sư Viên Thông, nhờ một lời nói, đạt được yếu chỉ.

Từ đấy, Sư tùy nơi đi giáo hóa, chỉ nhằm lợi người. Vật do người cúng Sư đều dùng vào việc Phật. Sư có làm bài văn khuyên người:

           Ham danh chuộng lợi

           Đều như bọt nước trôi sông

           Kết phúc gieo duyên

           Ấy là trong lòng hoài bão.

Đến lúc tuổi già, Sư dời về làng Yên Lãng (3) trụ trì chùa Nam Mô, thường dạy đồ chúng rằng: “Các ngươi nên biết, Như Lai thành chánh giác, đối với tất cả nghĩa lý, không còn có chỗ xem xét. Đối với các pháp bình đẳng, không có gì nghi hoặc, không hai, không tướng, không đi, không đứng, không lường, không hạn, xa lìa hai bên, ở nơi trung đạo, vượt khỏi hết thảy văn tự, ngôn thuyết, truyền được thân lượng bằng hết thảy chúng sanh, được thân lượng bằng hết thảy mọi cõi, được thân lượng bằng hết thảy tam giới, được thân lượng bằng hết thảy Phật, được thân bằng hết thảy ngôn ngữ, được thân lượng bằng hết thảy nguyện, được thân lượng bằng hết thảy hành, được thân lượng bằng hết thảy tịch diệt” (4).

Lại nói rằng :

Như Lai thành chánh giác

                       Hết thảy lượng đẳng thân

                       Hồi hổ không hồi hổ

                       Đồng tử mắt sáng thần

Lại nói:

                        Chân thân thành vạn tượng

                        Vạn tượng tức chân thân

                        Cung trăng xanh quế đỏ

                        Quế đỏ tại cung trăng

Khi sắp thị tịch, Sư gọi môn đồ dạy: “Ta không trở lại đây nữa”. Bấy giờ, hoa trên cây trước chùa tự nhiên rơi rụng, chim sẻ kêu bi thương suốt ba tuần không dứt. 

Ngày 18 tháng 3 năm Bính Tý Kiến Gia thứ 6 (1216) Sư mất.

                      

69. THIỀN SƯ THẢO ĐƯỜNG (1)
Chùa Khai Quốc (2), kinh thành Thăng Long[44]

 

HỆ PHÁI CỦA THIỀN SƯ THẢO ĐƯỜNG
 
THẾ HỆ THỨ NHẤT
 (BA NGƯỜI)
 

           70. HOÀNG ĐẾ LÝ THÁNH TÔNG
 
71. THIỀN SƯ BÁT NHÃ (1)
Chùa Từ Quang, Phúc Khánh (2) Làng Dịch Vương, Trương Canh (3).

 
72. CƯ SĨ NGỘ XÁ
Làng Bảo Tài (1), Long chương[45]

 
THẾ HỆ THỨ HAI
 (BỐN NGƯỜI)
 
73. THAM CHÁNH NGÔ ÍCH[46]
 
74. THIỀN SƯ HOÀNG MINH
Làng Yên Lãng (1), Vĩnh Hưng[47].

75. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
Chùa Quang nghiêm, Hải Thanh (1)

 
76. THIỀN SƯ ĐỊNH GIÁC[48]
 

THẾ HỆ THỨ BA
 (BỐN NGƯỜI)
 

77. THÁI PHÓ ĐỖ VŨ (1)[49]
 
78. THIỀN SƯ PHẠM ÂM
Làng Thanh Oai (1), An La[50]

 

79. HOÀNG ĐẾ LÝ ANH TÔNG
 
80. THIỀN SƯ ĐỖ ĐÔ[51]
 

THẾ HỆ THỨ TƯ
 (BỐN NGƯỜI)
 
81. THIỀN SƯ TRƯƠNG TAM TẠNG[52]
 
82. THIỀN SƯ CHÂN HUYỀN
 

83. THÁI PHÓ ĐỖ THƯỜNG (1)[53]
 

 

THẾ HỆ THỨ NĂM
 (BỐN NGƯỜI)
 

84. THIỀN SƯ HẢI TỊNH (1)
 

85. HOÀNG ĐẾ LÝ CAO TÔNG
 

86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP NGUYỄN THỨC[54]

 

87. PHỤNG NGỰ PHẠM ĐẲNG[55]

 
 

THIỀN UYỂN TẬP ANH
XONG QUYỂN HẠ


Tiêu điểm:

Âm lịch

Ảnh đẹp