PHẦN I. NGHIÊN CỨU VỀ THIỀN UYỂN TẬP ANH
Trong
công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta, vấn đề khai thác những tư liệu
phản ảnh quan điểm và lập trường đấu tranh của dân tộc là một cần thiết.
Và việc đó càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn nữa, khi ta đi vào
lĩnh vực nghiên cứu cổ sử và trung sử. Bởi vì về giai đoạn đó, các chính
sử ta thường chép rất sơ sài, thậm chí chép lại những gì do những ngòi
bút thù địch với dân tộc và chống lại nước ta viết ra, đưa đến tình
trạng một bộ chính sử ta đã công nhiên ngợi ca sự nghiệp của một tên xâm
lược đầu sỏ đầy tội ác đối với nước ta như Cao Biền.
Trong
số những tư liệu hiện còn loại đấy, ta chỉ có vỏn vẹn ba tác phẩm đó là
Việt điện u linh tập, Lĩnh nasm chích quái truyện và Thiền uyển tập
anh. Về hai tác phẩm đầu, trước đây chúng đã được phiên dịch và in lại
nguyên văn, dẫu rằng những công tác ấy chưa đạt được tiêu chuẩn khoa học
đáng muốn. Còn lại Thiền uyển tập anh thì kể từ ngày Trần Văn Giáp phát
hiện và giới thiệu nó với học giới trong bài Phật giáo ở Việt Nam từ
khởi nguyên đến thế kỷ thứ XIII[5], tính chất quan trọng của tác phẩm
này không những đối với môn cổ sử và lịch sử giải phóng dân tộc, mà còn
đối với các môn học khác từ văn học nghệ thuật cho đến khoa học kỹ thuật
đã được nhiều người chú ý tới.
Như
một bộ sử chuyên môn không thuộc loại chính sử về lịch sử Phật giáo
thiền tông Việt Nam, nó có thể ở vào địa vị phản ảnh một phần nào quan
điểm và lập trường đấu tranh của dân tộc cùng tình tự và ý chí của họ
trong liên hệ với lịch sử vận động giải phóng và chống ngoại xâm, mà
điển hình nhất là những truyện Định Không và La Quí cùng các truyện
Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh. Những truyện Định Không và La Quí
kể lại những mẩu tin rất ly kỳ, nhưng cũng rất thực tế trong công tác
tuyên truyền vận động độc lập của những người yêu nước sống rải rác
trong các mạng lưới của làng mạc Việt Nam dưới những hình thức sấm vĩ,
tín ngưỡng chùa chiền. Chúng vạch cho thấy họ đã vận động cho cuộc chiến
đấu ấy như thế nào, đã lãnh đạo cuộc vận động đó với một lý thuyết gì.
Các truyện Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh đã diễn tả một cách khá
rõ rệt tính chất dân tộc của những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm do
dân tộc ta thực hiện trong những ngày tháng đầu của thuở mới lập quốc
qua sự tham dự tích cực và trực tiếp của hầu hết mọi tầng lớp người.
Nhưng
Thiền uyển tập anh không chỉ là một tác phẩm phản ảnh quan điểm và thái
độ quần chúng trong một cách thể nào đó. Nó còn là một cuốn sử giúp ta
nhiều tài liệu nghiên cứu về cổ sử Việt Nam từ thế kỷ thứ VI cho đến thế
kỷ thứ XIII. Thực vậy, nó ngày nay chứa đựng nhiều chi tiết, nhiều tên
người, tên đất, nhiều sự việc mà các chính sử có quyển ghi, có quyển
không ghi, thậm chí, đôi khi không có quyển nào ghi cả. Chẳng hạn, cái
tên Khúc Lãm xuất hiện trong truyện La Quí. Lãm chắc chắn là một trong
những người lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời kỳ manh nha
của nó với các vị khác như Khúc Hạo, Khúc Thừa Dụ, Khúc Thừa Mỹ v.v...,
nhưng ngày nay không thấy sử sách nào khác chép tới. Hay Cương Giáp,
nơi đóng quân của tên tướng Hầu Nhân Bảo trong trận đọ sức đầu tiên giữa
dân tộc ta với quân xâm lược Tống, mà các chính sử không thấy đâu ghi
cả. Trong liên hệ này, ta có thể nói rằng đối với môn địa lý học lịch
sử, Thiền uyển tập anh có một cống hiến thật đặc sắc, bởi vì nó là một
tác phẩm đời Trần duy nhất còn lại chứa đựng nhiều tên ấp, tên làng, tên
quận, tên phủ và tên châu của đời Lý cũng như của đời Trần hơn bất cứ
một tác phẩm nào khác, kể cả bộ chính sử Đại Việt sử lược. Khai thác kho
tàng những tên đất đấy và xác định lại vị trí của chúng, nếu hoàn
thành, có thể nói ta đã vẽ lại được một phần bản đồ địa lý chi tiết của
nước ta vào thời Lý một cách cụ thể, nhờ vào tên của các ngôi chùa gắn
liền với các tên đất ấy.
Không
những thế, do chính sách văn hóa nô dịch thô bạo và thâm độc của bọn
xâm lược Minh hồi đầu thế kỷ thứ XV, tất cả những sách vở nước ta trước
thế kỷ đó hầu hết đều bị chúng hủy hoại, dẫn cuối cùng đến tình trạng
là, một nền văn học rực rỡ và phong phú như nền văn học đời Lý đã không
còn để lại một vết tích nào, nếu ta không nói đến Thiền uyển tập anh và
một số bi ký ở các chùa hiện đã phát hiện được. Thực vậy, ngay từ những
năm 1433, sau khi đã thu hồi lại độc lập và ổn định được đời sống của
nhân dân, những nỗ lực thu thập thi văn các đời Lý, Trần của những học
giả đời Lê chỉ chủ yếu ghi lại được các tác giả đời Trần mà thôi, còn
tuyệt đại bộ phận các tác giả đời Lý thì hoàn toàn vắng bóng. Sự trạng
ấy, ta chỉ cần dở Việt âm thi tập của Phan Phù Tiên, Quần hiền phú tập
của Hoàng Tụy Phu cùng Tinh tuyển chư gia luật thi của Dương Đức Nhan
thì cũng đủ thấy. Việt âm thi tập hoàn thành sau khi thu hồi độc lập
khoảng 6 năm, tức vào năm 1433, đã tuyệt nhiên không ghi lại một tác gia
đời Lý nào hết. Quần hiền phú tập viết xong khoảng năm 1457 cũng vậy.
Đến Tinh tuyển chư gia luật thi của Dương Đức Nhan đỗ tiến sĩ khoa 1463
với một nhan đề quyển sách như thế, ta không cần phải nói là, không có
một tác giả đời Lý nào được kể tới. Cả mấy trăm năm văn học của một dân
tộc đã bị bỏ quên. Sự trạng ấy ta phải đợi đến Lê Quí Đôn mới được chấn
chỉnh lại trong bộ Toàn Việt thi lục và Kiến văn tiểu lục của ông. Nhưng
Lê Quí Đôn làm được như vậy chủ yếu là nhờ vào Thiền uyển tập anh, mà
ông đã biết khai thác một cách có phương pháp và hệ thống. Rõ ràng, đối
với lịch sử văn học dân tộc ta, Thiền uyển tập anh đóng một vai trò hết
sức quan trọng và thiết yếu. Thiếu nó, thì cả mấy trăm năm lịch sử văn
học dân tộc phai mờ tiêu tán đi không phải ít.
Từ
lĩnh vực văn học bước sang lĩnh vực tư tưởng triết lý không xa. Cho
nên, nếu Thiền uyển tập anh đóng một vai trò quan trọng như thế nào đối
với lịch sử văn học dân tộc, thì nó cũng đóng một vai trò tương tự trong
lịch sử tư tưởng triết lý. Và vai trò ấy, thực tế, có một tầm quan
trọng hơn nhiều, khi ta nhớ rằng nó tự bản chất là một bộ sử chuyên môn
về lịch sử Phật giáo thiền tông Việt Nam. Mà Phật giáo thiền tông Việt
Nam vào những mấy trăm năm ấy, nếu không nói là hệ tư tưởng chỉ đạo thì
nó cũng ở vào địa vị của một hệ tư tưởng chiếm ưu thế trong giai đoạn
lịch sử đó. Trong giai đoạn này, dân tộc ta đã làm nên những chiến công
hiển hách, đưa cả dân tộc lên đỉnh cao của thời đại, đứng vào hàng những
đội quân Tiên Phong của loài người chống xâm lược và áp bức, dân tộc ta
đã xây dựng được một nhà nước vì dân, một nền kinh tế vững mạnh và một
nền khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất định. Làm nên được những kỳ tích như
thế trong một tình huống như tình huống của nước ta sau khi Ngô Quyền
đánh bại quân xâm lược Nam hán và Đinh Tiên Hoàng thống nhất tổ quốc về
một mối thì phải kể là những kỳ tích vô tiền khoáng hậu, hiếm có trong
lịch sử loài người. Hệ tư tưởng chủ đạo nào đã hướng dẫn họ trên bước
đường đưa cả dân tộc đi tới vinh quang đó? Điều này rõ rệt đòi hỏi ta
phải giải quyết vấn đề lý luận dân tộc nào đã giúp nhân dân ta đoàn kết
một lòng một dạ với nhau, cùng nhau chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất
nước. Nó đòi hỏi ta phải đặt thành vấn đề hệ tư tưởng chủ đạo của dân
tộc ta vào thời Đinh, Lê, Lý, Trần và bắt buộc ta phải nghiên cứu nghiêm
túc, nhằm rút tỉa những tinh hoa của truyền thống, đóng góp vào việc
xây dựng con người mới Việt Nam hôm nay. Để giải quyết những vấn đề đấy,
công tác nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam tất không thể nào không
tìm đến Thiền uyển tập anh. Có thể nói, nó là nơi tập đại thành những
luồng tư tưởng chủ yếu của dân tộc từ thời nhà Trần trở về trước.
Đây
là mấu chốt của vấn đề nghiên cứu hệ tư tưởng chủ đạo thời Đinh, Lê,
Lý, Trần, và trước đó. Phân tích và nắm được những điểm chủ yếu của vấn
đề ấy, ta có thể nói là đã giải quyết được nó về mặt cơ bản. Trong chiều
hướng cung cấp tư liệu và mẫu hình cho công tác phân tích đấy, Thiền
uyển tập anh với tiểu sử của 68 thiền sư hầu hết đều có ghi thành phần
gia đình, giai cấp và sống trải dài trên một khoảng thời gian gần 700
năm, rõ ràng có thể giúp xác định hệ tư tưởng Phật giáo thiền tông Việt
Nam, mà họ là những đại diện chân chính và được thừa nhận. Trong viễn
tượng đấy, vai trò của Thiền uyển tập anh trở nên hết sức trọng yếu cho
những ai muốn nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc và hệ tư tưởng chủ đạo
của Việt Nam từ thời Trần trở về trước. Đương nhiên, với số lượng 68
người có tiểu sử, nó chưa cung cấp cho ta một mẫu xác suất tốt nhất đáng
muốn. Nhưng trong tình trạng sử liệu ngày nay, ta không mong gì hơn.
Qua họ, hệ tư tưởng họ đại biểu có thể xác định một cách khá đúng đắn và
cụ thể. Từ đó, vấn đề bản chất của Phật giáo thiền tông Việt Nam tất
nhiên phải bộc lộ.
Ngoài
ra, Thiền uyển tập anh còn cần thiết cho những khoa học khác từ kinh tế
học, dân tộc học, xã hội học v.v... cho đến mỹ nghệ và kỹ thuật. Chẳng
hạn, nghiên cứu về tập tục và đời sống của dân ta ở những vùng biên
giới, ta có những truyện Ma Ha, Giới Không v.v... ghi lại lối sống, lối
tín ngưỡng của họ. Hay tìm hiểu về lai nguyên của nghề in tại Việt Nam,
ta có truyện Tín Học xác định thành phần gia đình Học là “đời đời làm
nghề in kinh”. Hay khảo sát về thành phần xã hội thời Lý và hệ thống cấu
trúc của nó, ta có truyện nhiều thiền sư ghi lại thành phần gia đình
của họ vv...
Thiền
uyển tập anh như vậy chứa đựng nhiều tài liệu phong phú và đặc sắc cho
công tác nghiên cứu lịch sử cũng như nhiều khoa học kỹ thuật và mỹ thuật
khác. Dẫu thế, cho đến nay chưa có một bản dịch nghiêm chỉnh và đầy đủ
nào về nó xuất hiện, nên những người nghiên cứu, dù nhắc tới nó nhiều,
ít ai có dịp đọc toàn bộ bản văn đó. Bản dịch hiện nay của chúng tôi là
nhằm cung ứng cho những người nghiên cứu ấy một bản dịch như thế. Trước
đây, một số người cũng có ý muốn dịch nó và họ quả đã dịch, hay đúng hơn
phỏng dịch một phần nào hay toàn bộ và xuất bản dưới những tên khác
nhau[6]. Nhưng tất cả đều chưa đạt yêu cầu. Tình trạng này xuất phát từ
hai nguyên cớ chính, đấy là: 1- Họ chưa nắm vững lịch sử truyền bản của
bản văn, nên đã không chọn được một truyền bản chính xác để làm đề bản
cho công tác hiệu thù và phiên dịch, và 2- Họ chưa phân tích kỹ nội dung
bản văn, nên tới những đoạn khó, họ hoặc đa số lướt qua không dịch,
hoặc nếu bắt buộc quá mà phải dịch, họ thường phạm phải những sai lầm.
Để khắc phục tình trạng sai trái vừa nêu, bản dịch hiện nay bao gồm có
phần nghiên cứu về tự thân bản văn và phần chú thích bản văn đó. Phần
nghiên cứu về tự thân bản văn nhằm giải quyết những vấn đề truyền bản
của bản văn, tên gọi nó, soạn niên và tác giả nó cùng vấn đề sử liệu nó
dùng và vấn đề hiệu bản cho bản dịch chúng tôi. Phần chú thích, vì nhằm
cung ứng tài liệu cho những người nghiên cứu ở nhiều bộ môn khác nhau,
chúng tôi đã cố gắng chú thích rất kỹ và nói rõ nguyên lai những chú
thích cho tiện việc tra cứu.