PHẦN IV PHỤ LỤC
THIỀN UYỂN TẬP ANH BẠT HẬU
Có lúc nghe
Phật vốn vô hình, chân kinh không quyển, ra đi không dấu, bay lên không
vết. Nhưng pháp nhờ có dạng hình, phép tắc mở ra, tông phái mới liên
tục, thiền môn mới có ý chỉ. Trên từ vô thủy, dưới tới vô chung, Phật Tổ
mênh mông, vào ra chẳng dứt, lặng chiếu mười phương, vị lai quá khứ,
Chúng sanh mọi chỗ lăn quay nơi chốn hữu vi, lớp lớp ngờ mê, đề hồ trở
thành độc dược, nghiệp nghiệp nối vây, thì cỏ trắng trở thành cỏ dại.
Do
vì một đại sự nhân duyên, chứng đủ ba không, rộng mở thể dụng, nên đức
Phật xuất hiện ở đời, muốn khiến chúng sinh có bốn tri kiến. Một kệ nhờ
thiêng mà vườn thiền là đầu mối, tập trung một trăm tám mươi anh tú. Tây
phương hai mươi tám tổ, Đông Độ sáu hiền, cũng không có con đường khác.
Đạt Mạ tứ mục nhìn nhau, Thích Ca ngũ nhãn thường sáng, Chuyết Công ấn
Phật tâm tông, diễn khai kinh sách. Đèn đèn nối nhau.
Chúng
sinh mê hoặc, tùy thuận quân ma ngoại đạo, nghiệp nghiệp nối thân, gọi
là Duyên giác Thanh văn, chân như tánh hải, mà ba độc không trừ. Tuy là
chẳng có chẳng không, giết mầm giống Phật, nói dối nói thêu, dụ dỗ mọi
người, bảo Phật đã diệt độ niết bàn. Chúng thực như kẻ mù mà nói là
không có mặt trời mặt trăng.
Thời
tiết nhân duyên đã tới, thì quả vị viên thành. Trí Phật là trí sáng, là
trí tự nhiên. An Nam tứ khí do năm hành của trời đất mà sanh. Sông Đức
núi Từ, đất Tiên Du sản xuất ra Phật, các vị Bồ tát hộ vệ, cửa ngỏ thần
phù, đồng tử hải chu bắc ngọc. Đạo sư rồng càn quậy cấn (đông bắc), kim
la bàn nhắm dấu khôn (tây nam) ở Đông Sơn. Khảm (bắc) chẳng có năm Ly
(nam).
Tượng
Phật như trời trăng, đề hồ đông sửa. Sắc mầu nhiệm tròn đủ kim thân,
thân thường tại hướng về, chẳng đi chẳng tới, rõ thấu mọi tầng giai.
Bánh xe pháp chuyên chở pháp Phật, có khai thị, có ngộ nhập, vô cùng vô
tận, lấy vô niệm làm tông chỉ, thường có thường trụ, soi khắp cả hữu
tình vô tình, đều tròn chủng trí.
Cúi
mong các vị đàn na trong hội kinh chủ, cõi pháp sạch lòng, xuất lấy của
nhà, gánh vác việc chép in sách Tổ Như lai, như phúc trước ra đời, cúng
dường in cho mười phương để làm hưng thịnh Tam bảo. Có những tên tuổi
xin liệt khai như sau:
1.
Xã Trung Mâu, kinh chủ: Nguyễn thị Thạng hiệu Diệu Năng, Nguyễn thị
Ngọc Súy hiệu Diệu Tài, Nguyễn Công Kính tự Tính Trác, Ký Dự tự Đức Tôn,
hiển khảo tự Trung Túc.
2.
Kinh chủ Nguyễn Công Vận tự Tính Chuyên, vợ Nguyễn Thị Thu hiệu Diệu
Phóng, cháu Nguyễn Công Kỳ tự Tính Dị, thân mẫu hiệu Diệu Duyệt, hiệu
Diệu Ức.
3.
Xã Tử Nê, hội chủ: Trần Tuấn Đức tự Tính Trì, Trần thị Sam hiệu Diệu
Bạch, con trai Trần Tuấn Gia tự Tính Đạo, vợ Nguyễn Thị Đợi, thân mẫu
hiệu Diệu Côn.
4. Hội chủ Trần Tuấn Vượng tự Tính Duệ, vợ Nguyễn Thị Vang hiệu Diệu Chỉnh.
5. Hội chủ Đoàn Đình Khôi tự Tính Pháp, vợ Nguyễn Thị Minh hiệu Diệu Quang.
6. Hội chủ Trần văn Thạch tự Tính Kim, vợ Trần Thị Cẩm hiệu Diệu Quyên, cháu Trần văn Thát tự Tính Xan, Trần văn Thản.
7. Hội chủ Võ Thị Tín hiệu Diệu Thọ, con gái Trần Thị Phó hiệu Diệu Chúc, Lê Đức.
8. Hội chủ Trần văn Bãi tự Tính Trị, vợ Trần Thị Tồn.
9.
Hội chủ Trần Đăng Minh tự Tính Thường, vợ Phạm Thị Phiên hiệu Diệu Lai,
cháu Trần Đăng Huyên tự Tính Đắc, Thái Thủy hiệu Diệu Thông.
10. Hội chủ Xã Đông Sơn: hiệu Diệu Thuận, hiệu Diệu Hòa, hiệu Diệu Duyên, hiệu Diệu Tập, hiệu Diệu Chiếu.
11.
Hội chủ Nguyễn Thị Kế hiệu Diệu Tịnh, Nguyễn Hạo tự Tính Khoan, hiệu
Mẫn Đạt, vợ Nguyễn Thị Lãng, Nguyễn Thị Ly hiệu Diệu Trân, Nguyễn Sỹ
Chinh, con trai Nguyễn Sỹ Giai, Nguyễn Thị Nhặt hiệu Diệu Châu.
12. Xã Lễ xuyên, hội chủ: Nguyễn Tánh Tinh tự Tính Liễn, vợ Nguyễn Thị Lụy hiệu Diệu Đà.