15/06/2011 14:27 (GMT+7)
Số lượt xem: 24409
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

I. VẤN ĐỀ TRUYỀN BẢN

Mặc dù trước đây có sự nghiên cứu và giới thiệu của Trần Văn Giáp và Gaspardone, vấn đề truyền bản của Thiền uyển tập anh vẫn chưa được khảo sát đầy đủ và nghiêm chỉnh đúng mức. Cứ vào những nghiên cứu của họ, ta không biết một tí gì về tình trạng truyền bản của nó trước bản in năm 1715 cũng như sau đó. Chúng ta  cũng sẽ không hiểu nổi những cái mà Gaspardone[7] gọi là “bất bình thường” (anomalie) của bản in năm 1715. Và thực sự, như Trần Văn Giáp[8] đã nêu lên, Phan Huy Chú trong Văn tịch chí của ông đã nói Thiền uyển tập anh có đến 6 quyển, chứ không phải một hay hai quyển, mà ta hiện thấy trong các truyền bản đang còn. Truyền bản Thiền uyển tập anh 6 quyển đó cũng không thấy ai bàn tới. Chúng tôi do thế đề nghị khảo sát lại vấn đề truyền bản của bản văn đây, để xem thử nó có lai lịch gì và có thể cung hiến cho ta những soi sáng nào không về những truyền bản hiện còn, đặc biệt là nhằm kiểm soát tính đích thực văn bản của những truyền bản hiện còn đấy.

Những gì ta có và biết về nó hiện nay, đều bắt đầu từ thế kỷ XVIII trở đi với bản in năm 1715 và với ghi chú của Lê Quí Đôn trong Nghệ văn chí. Lời tựa của bản in năm đó có nói tới việc “chỉnh cú để tiện in lại” và “sửa lại những thiếu mất, thêm vào những chữ rơi sót”, cộng thêm với cái ghi chú lờ mờ của Đôn, đã làm một số người nghi ngờ giá trị truyền bản của bản in năm 1715. Họ nghi rằng, văn cú nó chắc đã thay đổi nhiều, không hoàn toàn có thể tin được. Thậm chí họ còn dựa vào một câu viết của An Thiền trong bài tựa cho bản in năm 1858 rằng “còn ở nước ta, xưa có Thiền uyển làm lục, Tập anh làm tên, ghi lại các bậc cao tăng thạc đức của ba triều”, và giải thích “ba triều” là gồm cả triều Trần nữa, để giả thiết rằng, tự nguyên ủy Thiền uyển tập anh có cả một phần về những thiền sư đời Trần nhưng bị An Thiền tách rời ra thành một sách khác, nên những truyền bản hiện còn không thấy có phần đời Trần. Dĩ nhiên, đấy là một giả thiết vô căn cứ, đầy thiên ý lệch lạc, nhằm xóa bỏ giá trị truyền bản của bản in năm 1715, mà họ coi là có nhiều “bất bình thường” để được đáng tin. Thật ra, giá trị truyền bản của bản in đấy tỏ ra rất lớn, khi so với bản in năm 1858, mà người đứng in lại là An Thiền. Chúng ta do thế không cần phải bàn cãi dài dòng cái giả thiết đó ở đây. Thế thì, trước bản in năm 1715, Thiền uyển tập anh còn có một bản in hay truyền bản nào khác không ?

 

1. TRUYỀN BẢN ĐỜI TRẦN
 

Như ta biết, Thiền uyển tập anh ra đời vào khoảng 1337. Điều đáng chú ý là một tác phẩm khác thường được quan niệm xuất hiện vào đời Trần, đó là Lĩnh nam chích quái, mà theo lời tựa cho Việt giám vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm (1470-?)[9], thì Trần Thế Pháp là tác giả. Ngày nay, căn cứ vào hai truyền bản, một của Kiều Phú (1446-?) và một của Vũ Quỳnh (1452-1516), ta thấy bản của Trần Thế Pháp có khả năng có 22 truyện. Trong số 22 truyện này, có 4 truyện hoàn toàn thống nhất với 4 truyện trong Thiền uyển tập anh bản đời Lê hiện có. Đó là truyện Không Lộ và Giác Hải của thiền phái Kiến Sơ Vô Ngôn Thông, và truyện Từ Đạo Hạnh và Minh Không của thiền phái Pháp Vân Tỳ Ni Đa Lưu Chi, được ghi trong 9 thủ bản hiện bảo tồn của Lĩnh nam trích quái, dù văn cú có đôi chỗ xuất nhập, khi so chúng với nhau giữa các thủ bản hoặc với Thiền uyển tập anh. Sự kiện này đặt cho chúng ta hai câu hỏi. Thứ nhất, phải chăng Lĩnh nam chích quái lấy bốn truyện đó từ Thiền uyển tập anh hay ngược lại? Thứ hai, có khả năng nào cả Thiền uyển tập anh lẫn Lĩnh nam chích quái cùng lấy từ một nguồn chung?

Trả lời hai câu hỏi này, ta may mắn có một số dữ kiện sau. Thứ nhất, đối với truyện Không Lộ của Thiền uyển tập anh, ở cuối truyện tờ 25b11 có một câu chua bằng hai hàng chữ nhỏ, nói rằng: “Vị sư này không có năm và tuổi thọ có thể khảo được. Nay y vào Nam tông đồ truyền pháp thế thứ nên mô tả ra ở đây” (thử Sư vô niên thọ khả khảo. Kim y Nam tông đồ truyền pháp thế thứ cố tự vu thử). Vậy thì rõ ràng khi viết về Không Lộ, tác giả Thiền uyển tập anh đã dựa vào Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu. Một khi đã thế, thì Giác Hải chắc chắn cũng phải lấy từ Nam tông tự pháp đồ bởi vì thân phận hai người này thường gắn liền với nhau. Còn về truyện Từ Đạo Hạnh và Minh Không thì tác giả Thiền uyển tập anh không cho ta biết đã lấy nguồn tin về họ từ đâu. Dẫu thế, nếu văn cú của hai truyện này thống nhất với nhau, dù có đôi chỗ xuất nhập, thì dứt khoát có khả năng Lĩnh nam chích quái đã lấy từ Thiền uyển tập anh. Lý do nằm ở chỗ Thiền uyển tập anh là một tập hợp tiểu sử các thiền sư theo một thế thứ nhất định. Cho nên rất ít có khả năng tác giả Thiền uyển tập anh đã trích dẫn nguyên vẹn những tiểu truyện này từ Lĩnh nam chích quái. Hơn nữa, Lĩnh nam chích quái với cái tên đầu đề “chích quái” thì khả năng trích dẫn và thu lượm các tiểu truyện từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau là một sự thực. Ngoài ra, đọc bốn truyện này, văn phong của chúng tỏ ra thống nhất với văn phong của các truyện khác trong Thiền uyển tập anh. Trong khi đó, nếu so với các truyện khác của chính bản thân Lĩnh nam chích quái thì không ăn khớp lắm. Nói tóm, dù có thông qua Nam tông tự pháp đồ hay không, Lĩnh nam chích quái cũng đã chép bốn truyện trên từ Thiền uyển tập anh.

Không những thế, truyền bản Thiền uyển tập anh hiện còn, tuy in lại vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), đã giữ lại nhiều chữ húy đời Trần. Cụ thể là Lý §õ  đổi thành Nguyễn  ¨¿  (truyện Pháp Thuận và truyện Chân Không), Diệu §® đổi thành Mậu ­Z (truyện Chân Không) hay viết (truyện Tịnh Thiền, Viên Học), càn °® đổi thành yết ªỵ  hay ma ¼¯ (truyện Pháp Dung) v.v…  Ngoài ra, như sẽ thấy, một loạt các sự kiện được ghi lại trong Thiền uyển tập anh mà những bộ sử từ đời Lê sơ về sau như Đại Việt sử ký toàn thư không ghi, thì lại được chép trong các quyển sử trước thời điểm đó, như Đại Việt sử lược. Cho nên, ta không thể nghi ngờ việc Thiền uyển tập anh ra đời sau Lĩnh nam chích quái được, dù truyền bản sớm nhất ngày nay của nó là một truyền bản đời Lê I, tức bản in 1715. Kết luận như thế cho phép ta xác định bốn truyện trên từ nguyên thủy đã phải xuất hiện từ đời Trần, nghĩa là lúc Thiền uyển tập anh ra đời, chứ không phải một sao chép về sau từ Lĩnh nam trích quái.

Thêm vào đó, có một chi tiết đáng chú ý là trong truyền bản đời Lê I, tức bản in năm 1715 và truyền bản đời Lê II, tức bản in sau năm 1715, cả hai bản trong truyện Từ Đạo Hạnh, Thiền uyển tập anh tờ 53b10, có để trống 7 ô sau những chữ “ngự thí trúng” và trước những chữ “dĩ tà thuật”. 7 ô này, căn cứ vào truyện Từ Đạo Hạnh của các truyền bản Lĩnh nam chích quái hiện biết thì ta có 8 hoặc 6 chữ, đó là “bạch liên khoa, vị cơ, kỳ phụ vinh”, hoặc “bạch liên khoa, vị cơ, phụ”. Điều này chứng tỏ bản đáy dùng cho việc in lại bản đời Lê I và Lê II đã bị rách mất 7 chữ, và người hiệu chính hai bản in này do không biết hay không có cơ hội huy động các truyền bản của Lĩnh nam chích quái để hiệu chỉnh 7 ô chữ đó. Ngày nay, căn cứ vào 8 hay 6 chữ ấy, ta có thể hiệu chỉnh thành 7 chữ, là “bạch liên khoa, vị cơ, kỳ phụ”, và điền vào 7 ô trống với ý nghĩa trọn vẹn của một câu văn. Thiền sư An Thiền, khi dùng một bản gọi là Cựu bản Tiêu Sơn tự làm bản đáy cho việc in lại Thiền uyển tập anh trong bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, đã không biết các ô trống này nên trong Thiền uyển truyền đăng quyển thượng tờ 48a10 khắc mất các ô đó để ta có câu “ngự thí trúng, dĩ tà thuật”. Sự kiện có 7 ô trống này của Thiền uyển tập anh bản đời Lê và những chữ tương đương trong các truyền bản Lĩnh nam chích quái càng chứng tỏ các truyện Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Không Lộ và Giác Hải của Lĩnh nam chích quái phải phát xuất từ các truyện trong Thiền uyển tập anh. 

Nói tóm lại, dù ngày nay truyền bản sớm nhất mà ta có là truyền bản đời Lê I (1715), ta vẫn có thể giả thiết nếu không nói là khẳng định Thiền uyển tập anh là một văn bản đời Trần được lưu hành rộng rãi, thậm chí còn được khắc in, để cho các tác giả như Trần Thế Pháp của Lĩnh nam chích quái biết tới và sử dụng. Để tiện việc tra cứu, chúng tôi cho sưu tập lại 4 truyện này trong bản Phụ lục I ở sau.

 

2. TRUYỀN BẢN ĐỜI HỒ
 

Bước sang thế kỷ thứ XV, lúc Hồ Quý Ly lên nắm quyền, Thiền uyển tập anh vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền uyển tập anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên. Trong mục Tiên thích của An nam chí nguyên 3 tờ 209-211 ta thấy ghi lại tiểu sử của 14 vị thiền sư, trong đó có 13 vị có tên trong Thiền uyển tập anh.

So sánh những ghi chú của nó về 13 vị ấy, thì trừ Thảo Đường ra, mà Thiền uyển tập anh không có truyện, số còn lại có văn cú hoàn toàn giống với một đoạn trong truyện của những thiền sư ấy trong Thiền uyển tập anh. Chẳng hạn, ta lấy hai vị thiền sư đầu do nó ghi làm thí dụ. Thứ nhất, về thiền sư Tịnh Giới, nó viết: “Thiền sư Tịnh Giới là vị Sư huyện Đông Quan, tu hạnh đầu đà, cảm hóa như thần, Giao Châu có hạn, họ Lý sai sứ đi đón về, nửa đêm Sư đứng giữa sân, đốt hương, mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý khen, tặng làm Thầy Mưa”. Còn Thiền uyển tập anh viết: “Thiền sư Tịnh Giới ... người Mão hương ... tu hạnh đầu đà ... cảm hóa như thần ... hạ gặp hạn ... Lý Cao Tôn ... sai sứ đi đón về ... nửa đêm Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống, vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy Mưa”.

Thứ hai, về  Đạo Hạnh, nó viết: “Thiền sư Đạo Hạnh là Sư huyện Thạch Thất, thường đi khắp tòng lâm, hỏi tìm tri thức, khi duyên đạo đã thục, pháp lực có thêm, bèn có thể sai sử chim rừng thú nội, họp nhau đến phục, cầu mưa trị bệnh không gì là không không linh ứng. Nay xác thân đang còn”. Thiền uyển tập anh viết: “Thiền sư Đạo Hạnh ... đi khắp tòng lâm, hỏi tìm ấn chứng ... từ đó pháp lực có thêm, duyên thiền đã thục, bèn có thể sai sử rắn núi thú rừng, họp nhau đến phục. Đốt ngón tay cầu mưa, chú bát nước trị bệnh, không gì là không ứng nghiệm tức khắc ... Đến nay xác thân đang còn”.

Qua những thí dụ như thế, ta buộc phải kết luận là, những ghi chú trong An nam chí nguyên[10] phải trực tiếp rút ra từ Thiền uyển tập anh, hay nếu không đi nữa thì phải rút ra từ một tác phẩm đã sử dụng sách đó. Với những sự đồng nhất hầu như hoàn toàn ấy, không một kết luận nào khác có thể rút ra. Nhưng chính bản thân An nam chí nguyên 3 tờ 208 thú nhận là không biết đến Thiền uyển tập anh bởi vì nó viết: “Đạo Phật của Giao Chỉ từ Hán đến Đường đều không thể khảo được. Từ thời Lý, Trần, danh tăng rất nhiều, nổi tiếng linh dị. Quốc vương đem lễ tham hỏi thuật lạ, đến nỗi có vị đã xả thân đi xuất gia. Quan liêu, sĩ dân thường thường cảm hóa theo. Còn đạo thần tiên thì cũng hiếm có, thỉnh thoảng mới thấy một hai người mà thôi. Nay thấy Cựu chí và Quan báo các nơi cùng lời tương truyền của các phụ lão, mỗi mỗi góp chép lại, mà chọn những ai dấu vết có thể chứng nghiệm được thì phụ chép vào đấy”.

Bằng lời giáo đầu mục Tiên thích như vậy, An nam chí nguyên đã xác định nguyên lai của những nguồn tài liệu của mình về những vị thiền sư dẫn trên. Trong đó, ngoài loại phụ lão tương truyền ra, ta thấy có “Cựu chí” và “Quan báo các xứ”. Về  Cựu chí, thì giữa những thứ chí do nó dẫn có Giao Chỉ thông chí, Giao Châu bát huyện ký, Các huyện châu chí, Các phủ chí và Các phủ huyện khai báo tường tải chí. Đấy phải là những “Cựu chí” mà nó muốn nói tới, nếu không muốn hiểu Cựu chí muốn chỉ một chí trong những tác phẩm vừa liệt. Còn về “Quan báo các xứ” thì đây có thể  là tên một tập hồ sơ hành chính do yêu cầu điều tra tạo nên, nhưng cũng có thể chính tên của tập hồ sơ đó. Dầu sao chăng nữa, An nam chí nguyên chắc phải lấy những ghi chú về những vị thiền sư trên, nếu không từ chính Thiền uyển tập anh, thì cũng từ những “Cựu chí” vừa dẫn, và những Cựu chí đấy đến lượt chúng tất cũng phải lấy từ Thiền uyển tập anh, bởi vì sự đồng nhất văn cú và sự kiện vừa thấy tất không thể nào kết luận ngược lại được.

Chỉ có vấn đề là trong số 13 vị sư ấy, trừ Thảo Đường ra, quê quán hay trú quán của họ bị An nam chí nguyên thay đổi và gọi họ như  những nhà sư của huyện này hay châu nọ, không giống với Thiền uyển tập anh. Chúng tôi cho rằng vì An nam chí nguyên rút từ những Cựu chí viết dưới thời Minh chiếm đóng nước ta, nên tên đất tên làng đã bị bọn xâm lược thay đổi, từ đó báo cáo về những vị sư cũng bị thay đổi theo. Thêm vào đó, nếu rút ra từ những Cựu chí, thì những bản chí, nhất là địa chí thường ghi lại các nhân vật nổi tiếng của vùng liên hệ. Do thế, dù Tịnh Giới người Mão hương, Ngung Giang, An nam chí nguyên đã nói là: “Sư huyện Đông Quan”, bởi vì Giới đã nổi tiếng về việc cầu mưa ở tại Thăng Long. Giới Không cũng vậy. Dù Tịnh Không là người Mãn Đẩu, họ vẫn bảo Không là “Sư huyện Gia Lâm, vì có ở chùa Gia Lâm” v.v... Do thế việc thay đổi quê quán hay trú quán của những vị sư không điểm chỉ một điều gì khác hơn là hai điểm sau. Thứ nhất, đấy là những tên đất đặt ra lần đầu tiên dưới thời quân Minh xâm lược. Và thứ hai, những sách vở ghi lại những vị Sư đấy là do quân Minh làm ra.

Thực tế thì An nam chí nguyên, trừ phần tổng luận ra, có thể coi như một tác phẩm viết khoảng năm 1419. Những ghi chú về các vị thiền sư trên chắc chắn phải dùng những tài liệu viết trước năm đó. Từ đấy, ta có thể kết luận rằng chúng chính là những trích dẫn từ một truyền bản xưa nhất của Thiền uyển tập anh, đấy là truyền bản đời Trần. Ta hiện không có cách nào để xác định truyền bản đấy là in hay chép. Dẫu thế những ghi chú đó thật sự là dấu vết của nó còn sót lại, giúp ta kiểm soát  được tính đáng tin và giá trị văn bản của bản in đời Lê. Do thế, chúng tôi cho sưu tập lại toàn bộ những trích văn vừa nói có trong An nam chí nguyên để làm tư liệu văn bản cho những nghiên cứu về sau. Chúng sẽ được xếp vào trong Phụ lục II.

  

3. TRUYỀN  BẢN  6 QUYỂN
 

Sau truyền bản đời Hồ, mà ngày nay ta chỉ còn có 12 trích dẫn ngắn trong An nam chí nguyên, ta có cái chúng tôi gọi là truyền bản 6 quyển ở đây. Nó đến từ bản thư tịch của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí 45 tờ 89b1-2, ở đây Chú viết: “Thiền uyển tập, 6 quyển, người thời Trần soạn, ghi lại sự tích các tông phái Thiền học của nước ta từ cuối đời Đường trải qua đời Đinh, Lê đến Lý, Trần”. Thiền uyển tập đây dĩ nhiên là Thiền uyển tập anh, bởi vì ghi chú vừa dẫn của Chú là lấy trực tiếp không thêm bớt từ cái ghi chú của Lê Quí Đôn về Thiền uyển tập anh trong Nghệ văn chí của ông. Chỉ trừ một điểm khác biệt căn bản là, trong khi Đôn nói “Thiền uyển tập anh một tập” thì Chú bảo Thiền uyển tập có 6 quyển. Ngày nay ta không biết bản Thiền uyển tập anh, do Đôn dùng, mà Đôn chỉ nói có “1 tập”, là có bao nhiêu quyển. Nhưng cứ vào những trích dẫn trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b7-13b8 mục Thiên chương thì chúng chứng tỏ không sai khác với truyền bản đời Lê của bản in năm 1715 bao nhiêu. Chúng ta do đó có thể suy diễn ra là Lê Quí Đôn chắc cũng dùng bản in năm 1715 đấy. Thế thì truyền bản 6 quyển của Phan Huy Chú xuất xứ từ đâu?

Những truyền bản đời Lê và đời Nguyễn hiện còn, tức những bản in năm 1715 khoảng 1750 và 1858, không có bản nào ghi Thiền uyển tập anh có đến 6 quyển cả. Bản in năm 1715 thì ghi có quyển thượng và quyển hạ, nhưng không phân chia số trang rõ ràng, nên ta cũng chỉ có thể đoán thôi. Bản in 1750 thì cơ bản giống bản in 1715 với một vài sửa đổi thêm thắt cùng ba tờ hình và tiểu sử của Trúc Lâm Tam Tổ ở đầu sách và lời bạt hậu ở cuối sách. Còn bản in năm 1858 thì đã bị gom in vào một bộ sách gồm 5 quyển, nên Thiền uyển tập anh in năm đó trở thành một quyển duy nhất, đấy là quyển thượng đối với 4 quyển kia trong bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục.
 

Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn hai truyền bản đời Lê thì việc Phan Huy Chú nói truyền bản của ông gồm 6 quyển không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Xét hai truyền bản đời Lê hiện còn, ta thấy, mặc dù ở đầu sách tờ 4a1 và ở cuối sách tờ 72b11 nó ghi Thiền uyển tập anh ngữ lục quyển thượng và Thiền uyển tập anh quyển hạ, chứng tỏ như vậy Thiền uyển tập anh nguyên có hai quyển thượng và hạ, ta thấy bên trong sách ở những tờ 26b1, 44a1, 61a1, 71a1 nó dành hẳn một dòng để ghi bốn chữ Thiền uyển tập anh mà thôi. Bốn chữ Thiền uyển tập anh ở tờ 44a1 chúng tôi đoán là để phân chia quyển thượng với quyển hạ của bản in đó, bởi vì nó để tờ 43 hầu như hoàn toàn trống. Như vậy, thì còn ba trường hợp kia sẽ ra sao?

Theo lập luận của chúng tôi thì bốn chữ Thiền uyển tập anh ở những tờ 26b1, 61b1, và 71b1 cũng có nhiệm vụ tương tự, đấy là chúng chỉ sự bắt đầu của một quyển Thiền uyển tập anh. Tính ra từ những nhan đề Thiền uyển tập anh đó trong truyền bản đời Lê, ta có tối thiểu là đến 5 quyển Thiền uyển tập anh, tức một bộ Thiền uyển tập anh 5 quyển.

Thế nhưng, Văn tịch chí của Phan Huy Chú nói bản của nó có đến 6 quyển. Vậy thì, lấy đâu ra một quyển nữa? Chúng tôi cho rằng có thể truyền bản đời Lê đã ghi thiếu cái nhan đề Thiền uyển tập anh ấy ở một tờ, khoảng giữa ở những tờ từ 4a1 đến 26b1. Tại sao? Bởi vì nếu đếm từ trang 26b1 đến trang 72b1 ta có cả thảy đến bốn lần ghi nhan đề Thiền uyển tập anh, nghĩa là trung bình cứ khoảng mười tờ là có một nhan đề, trong khi từ tờ 4a1 đến tờ 26b1 ta có chỉ một nhan đề mà thôi. Do thế, chắc khoảng từ tờ 17 trở đi bản in năm 1715 đã bỏ sót nhan đề Thiền uyển tập anh. Nếu thế, việc Phan Huy Chú nói văn bản Thiền uyển tập anh của ông có 6 quyển là hoàn toàn hiểu được.

Thực ra, nhờ cái ghi chú “Thiền uyển tập 6 quyển” ấy của Chú, ta ngày nay mới hiểu  được tại sao trong truyền bản đời Lê đã có ghi thêm những nhan đề Thiền uyển tập anh ở những năm tờ khác nhau. Trước đây Gaspardone đã vạch ra hiện tượng khá ngộ nghĩnh của truyền bản đời Lê, những đã không chịu tìm hiểu tại sao. Ngược lại còn dựa vào nó để đánh thấp giá trị truyền bản đó. Bây giờ nó trở thành rõ ràng là hiện tượng ấy cho ta biết sự có mặt của một truyền bản Thiền uyển tập anh gồm 6 quyển. Thế thì, truyền bản 6 quyển này có những liên hệ như thế nào với truyền bản đời Lê ?

Riêng với vấn đề này chúng tôi qui lại rằng: truyền bản 6 quyển xưa hơn truyền bản đời Lê in năm 1715, bởi vì bản in năm 1715 chỉ giữ lại một phần nào vết tích của truyền bản 6 quyển qua sự hiện diện của những nhan đề Thiền uyển tập anh vừa nêu, chứ không còn giữ nguyên được tình trạng truyền bản 6 quyển. Nói khác đi, truyền bản 6 quyển có lẽ cũng là truyền bản đời Trần nói trước, chứ không gì hơn. Nếu không đi nữa, nó là một bản in trước năm 1715 còn sót lại một cách nguyên vẹn, nghĩa là không bị tình trạng “khuyết thất” và “thoát lạc” của bản in đời Lê. Dẫu sao, nó cũng là một truyền bản xưa nhất được biết một cách đích xác chứ không phải qua suy luận. Khẳng định như thế, chúng tôi cũng muốn nói thêm là, truyền bản đời Trần có lẽ cũng có 6 quyển. Và từ đó, vấn đề phải chăng từ nguyên ủy Thiền uyển tập anh có 6 quyển, chắc phải giải quyết trong một chiều hướng tương tự.

 

4. TRUYỀN BẢN ĐỜI LÊ SƠ
 

Nếu những trích dẫn trong An Nam chí nguyên không ghi rõ ràng xuất xứ, thì bước sang thế kỷ thứ XV, trong việc biên tập lại Việt điện u linh tập và Lĩnh nam chích quái, ta thấy Thiền uyển tập anh đã được đích danh nêu tên. Cụ thể là Tục Việt điện u linh tập của Nguyễn Văn Chất (1422-?), đỗ Hoàng giáp năm 1448, làm đến Thượng thư bộ hộ, đã chép tiếp ba hay bốn truyện vào Việt điện u linh tập cũ, trong đó có truyện Sóc thiên vương, mà Nguyễn Văn Chất ghi là cứ vào Thiền uyển tập anh. Có thể nói đây là một trích dẫn sớm nhất hiện biết của đời Lê về Thiền uyển tập anh. Điều này chứng tỏ Thiền uyển tập anh lưu truyền khá phổ biến vào đời Lê sơ, tức khoảng trong những năm 1448-1466, thời gian mà Nguyễn Văn Chất làm việc ở Quốc sử viện.

Dựa vào Liệt huyện đăng khoa lục bị khảo, kết hợp với những thông tin trong Đại Việt sử ký toàn thư,  ta dễ chấp nhận Tục Việt điện u linh tập là do Nguyễn Văn Chất viết, chứ không phải do Nguyễn Văn Hiền, như tuyệt đại bộ phận các thủ bản của Việt điện u linh tập tức các bản A.751; A.47; A.19 và VH1285, trừ bản A.2879, đã ghi. Bản A.2879 ghi rõ tên Nguyễn Văn Chất. Văn cú của trích dẫn này, cứ theo bản Việt điện u linh tập lục A.47 so với bản Thiền uyển tập anh hiện còn có một số xuất nhập. Nhưng nếu cứ Việt điện u linh tập lục toàn thiên tức các bản A.751 và A.2879 thì văn cú tỏ ra ít xuất nhập hơn. Dù có xuất nhập nhiều hay ít, thì rõ ràng truyện Sóc thiên vương của Việt điện u linh tập là do Nguyễn Văn Chất trích dẫn từ Thiền uyển tập anh, và chúng tôi không bận tâm phân tích ở đây. Mà chỉ cho chép lại các dị bản để làm tư liệu nghiên cứu cho những người sau, ở phụ lục III.

Trước mắt, cho đến lúc này, trong thế kỷ 15 ta mới chỉ tìm thấy một trích dẫn duy nhất đây thôi. Còn bao trích dẫn nữa, ta chưa thể biết được. Tuy nhiên với sự trích dẫn Thiền uyển tập anh của Nguyễn Văn Chất, ta có thể chắc chắn khi Phan Phù Tiên khởi thảo Việt âm thi tập, Tiên không phải không biết đến Thiền uyển tập anh. Nhưng do yêu cầu chỉ thu thập thơ văn giới hạn vào đời Trần, cho nên ông đã không đề cập gì tới mảng thơ văn do Thiền uyển tập anh cung cấp, chứ tuyệt nhiên không phải vì “phải sau thế kỷ XV, Nho giáo mất dần địa vị độc tôn trong đời sống tinh thần tình cảm, thì đối với người nghiên cứu một số thơ văn từ cửa Phật mới được chính thức nhập tịch văn đàn”, như một số người đã sai lầm quan niệm. Nếu phải sau thế kỷ XV do Nho giáo mất dần địa vị độc tôn và thơ văn từ cửa Phật mới nhập tịch văn đàn, thì tại sao trong Việt âm thi tập đã xuất hiện những nhà thơ Phật giáo như Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Pháp Loa và Huyền Quang v.v…? Và ngay cả một nhà thơ bài xích Nho giáo tương đối mạnh mẽ như Nguyễn Trung Ngạn với bài thơ Phổ Minh tự đỉnh minh cũng đã được Phan Phù Tiên dành cho một số lượng trích thơ cực kỳ lớn là 36 bài, nếu khi tiến hành biên soạn Việt âm thi tập, Phan Phù Tiên đã thực hiện nó dưới nhãn quan Nho giáo?  Nho giáo chưa bao giờ độc tôn tại Việt Nam và càng không bao giờ độc tôn vào thời Lê sơ của thế kỷ 15.1

Không những Thiền uyển tập anh được người trí thức thời Lê sơ biết tới mà ngay cả một bộ sử Phật giáo khác của thời Lý là Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu (?-1203) cũng đã được các trí thức thời Lê sơ ngưỡng mộ và cho in lại. Phan Huy Chú trong Văn tịch chí của Lịch triều hiến chương loại chí 45 tờ 105a6-7vào thế kỷ XIX đã ghi nhận là Lương Thế Vinh (đậu Trạng nguyên năm 1463) có viết tựa cho tác phẩm này của Thường Chiếu. Sử học Phật giáo vào thời Lê sơ như thế tỏ ra được giới trí thức thời đó chăm sóc khá kỹ lưỡng. Mà cũng nhờ thế mà bộ Thiền uyển tập anh mới đến được với chúng ta ngày hôm nay.

 

5. TRUYỀN BẢN ĐỜI LÊ I
 

Đây là truyền bản xưa nhất hiện còn qua bản in năm 1715. Nó gồm cả thảy 72 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 11 dòng, mỗi dòng 17 chữ. Chữ in khá đẹp, gồm có hai loại. Loại chữ cỡ lớn dùng để in chánh văn, và loại chữ cỡ nhỏ dùng để in chú thích. Về loại chữ cỡ nhỏ thì mỗi dòng có đến hai hàng, mỗi hàng trung bình có 24 chữ hay ít hơn. 

Sách chia làm hai quyển, gọi là Thiền uyển tập anh ngữ lục quyển thượng và Thiền uyển tập anh quyển hạ. Nhưng vì nó đánh số tờ liên tục, và vì chỉ ghi quyển thượng ở tờ 4a1 đầu sách sau lời tựa và quyển hạ ở tờ 72b11 cuối sách nên ta không biết đích xác đâu là quyển thượng chấm dứt và quyển hạ bắt đầu. Dẫu thế, chúng ta có thể đoán là quyển thượng chấm dứt ở tờ 43a1 và quyển hạ bắt đầu từ tờ 44a1 trở đi, dựa vào những bằng chứng sau: 1. từ tờ 44a1 trở đi là phần mô tả thiền phái Pháp Vân 2. trước tờ 44a1 đấy, tờ 43 hầu như hoàn toàn bỏ trống, như muốn tỏ có một khoảng cách đặt biệt, mà những tờ khác không thấy có, và  3. tờ 43a1 bắt đầu có ghi nhan đề Thiền uyển tập anh. Bằng chứng thứ ba này dĩ nhiên không có hiệu lực mấy do sự có mặt của nhan đề ấy ở những tờ khác, đấy là tờ 26b1, tờ 66b1 và tờ 71b1. Sự có mặt đó như chúng tôi đã phân tích trên, chứng tỏ rằng tự nguyên ủy Thiền uyển tập anh có đến 5 hay 6 quyển, như Văn tịch chí của Phan Huy Chú đã ghi.

Thế thì, việc chia sách thành hai quyển thượng, hạ xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi này hiện chưa trả lời dứt khoát được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng nó không phải xuất hiện với bản in năm 1715 đây. Ngược lại, nó đã xuất hiện trong chính bản đáy của bản in đó. Lý do cho một suy nghĩ như vậy xuất phát từ một nhận xét chủ quan về văn bản của nó.

Mặc dù người viết tựa cho bản in năm 1715 trên thú nhận có thực hiện việc “chỉnh cú” nhằm “sửa lại những chỗ thiếu mất và thêm vào những chữ bị rơi rớt” để tiện in lại, nói chung ông đã làm việc ấy một cách tương đối cẩn thận và có tính khoa học phê bình cao. Chẳng hạn, trong truyện Đạo Hạnh ở tờ 53b10, sau khi viết  “hậu ứng tăng quan ngự thí trúng” (sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ) ta thấy bản in để trống một khoảng cho đúng vừa 7 chữ, rồi viết tiếp “dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu” (dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu). Bây giờ, khảo truyện Từ Đạo Hạnh trong Lĩnh nam chích quái tờ 77, mà cốt truyện và ngữ cú hoàn toàn đồng nhất với truyện Đạo Hạnh của Thiền uyển tập anh, thì câu bắt đầu từ chữ “hậu” đến Diên Thành Hầu đọc thế này: “Hậu ứng tăng thí trúng Bạch liên khoa, Vị cơ phụ Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu”. Rõ ràng, khoảng trống 7 chữ của Thiền uyển tập anh tờ 53b10 chính là chỗ của 7 chữ chúng tôi in nghiêng trong câu dẫn từ Lĩnh nam chích quái truyện, chứ không có một ý nghĩa nào khác.

Chúng tôi nghĩ rằng bản đáy của bản in năm 1715 đến khúc những chữ đó bị rách nát nên người chỉnh cú đã để nguyên khoảng trống lại, nhằm lưu ý những người sau về sự rách nát hay thiếu sót ấy, với mục đích khi nào có được bản mới thì bổ khuyết vào. Trong Thiền uyển tập anh hiện nay, ngoài nửa dòng trống vừa nói, chúng tôi tìm thấy những khoảng trống khác có một ý nghĩa tương tự ở những tờ 12b3, 12b5, 12b8 và 13a6 truyện Viên Chiếu, tờ 27b8 truyện Tín Học, tờ 49b4, 49b7 và 50a1 truyện Ma Ha, nhưng hiện chưa có những văn bản khác để hiệu thù và bổ sung.

Xét trường hợp để trống gần nửa dòng ở truyện Đạo Hạnh vừa nêu, chúng tôi cho rằng người làm công tác chỉnh cú cho bản in đời Lê đã tỏ ra có một cẩn thận khoa học tốt và một khả năng phê bình cao. Từ nhận xét ấy, chúng tôi bắt buộc phải kết luận là có lẽ ông không có khuynh hướng tổ chức lại cả một quyển sách xưa bằng cách phân chia lại quyển số của nó. Và thực sự, nếu ta có giả thiết là ông đã làm việc đó, thì sự có mặt của nhan đề Thiền uyển tập anh ở những tờ 26b1, 66a1, 71a1 thực khó mà giải thích một cách ổn thỏa, bởi vì nếu có sự phân chia lại quyển số, thì tại sao lại còn để những nhan đề như vậy hiện diện? Sự hiện diện chúng có ý nghĩa và mục đích gì? Ta thật không bao giờ có thể trả lời được những câu hỏi như thế, nếu giả thiết sự phân chia Thiền uyển tập anh thành quyển thượng và quyển hạ bắt đầu với những chỉnh cú của nó vào năm 1715. Do đó, chúng tôi cho rằng sự phân chia thành hai quyển thượng, hạ đó đã xuất hiện ngay trong để bản của bản in năm ấy, nghĩa là, đã xuất hiện từ lâu trước năm đấy. Lý do cho sự phân chia có lẽ bắt nguồn từ cái muốn làm hợp lý lại tổ chức của cuốn sách.

Thực vậy, nếu chia Thiền uyển tập anh thành quyển thượng và quyển hạ như truyền bản đời Lê đã có, thì việc phân tích nội dung nó thật dễ thấy và nhất quán. Đó là quyển thượng mô tả về dòng thiền Kiến Sơ, và quyển hạ nói về dòng thiền Pháp Vân  với một bản danh sách những thiền sư của dòng Thảo Đường. Ngược lại, nếu chia nó thành 5 hay 6 quyển thì tính nhất quán và dễ thấy không được nổi bật cho lắm, dù không phải là mất hẳn. Chẳng hạn, nếu là 5 quyển thì quyển 1 và 2 tả dòng thiền Kiến Sơ, quyển 3 và 4 tả dòng thiền Pháp Vân, và quyển 5 ghi danh sách phái Thảo Đường.

Dẫu sao chăng nữa, việc phân chia Thiền uyển tập anh thành hai quyển thượng, hạ cho đến năm in 1715 vẫn chưa được dứt khoát chấp nhận. Cho nên, trong truyền bản lưu hành hiện nay ta mới phát hiện ra sự có mặt của những chứng tích tỏ ra nó tự nguyên ủy gồm 5 hay 6 quyển như đã nói. Chính sự chưa dứt khoát đó một lần nữa chứng tỏ sự tôn trọng để bản và tính cẩn thận khoa học của người làm công tác chỉnh cú cho bản in năm 1715 ấy. 

Người làm công tác chỉnh cú vừa đề cập, ngày nay ta không biết tên gì. Nhưng qua bài tựa do ông viết vào “ngày tốt của tháng tư năm Vĩnh Thịnh 11 triều Lê” (1715) thì ông là một nhà Nho có học và yêu chuộng Phật giáo. Ông đã làm công tác chỉnh cú qua lời yêu cầu của “một thiền hữu” của ông. Vị học trò thiền này, ông không nói rõ là ai, song ta có thể giả thiết là Như Trí.

Nhà Nho Phật tử ấy, dù với tính cẩn thận khoa học tốt và khả năng phê bình cao, đã thực hiện việc chỉnh cú trong một điều kiện thư tịch không được như ý muốn lắm. Cho nên, truyền bản đời Lê này đang còn chứa khá nhiều sai lầm, đôi khi sai lầm rất lớn. Tuy nhiên, thật khó mà phân biệt rõ ràng đâu là sai lầm của chính người chỉnh cú, và đâu là của chính những người có trách nhiệm khắc bản. Chúng tôi đánh giá tổng quát toàn bộ bản in thì nó chứa nhiều ưu điểm vượt hẳn bản in đời Nguyễn về nhiều mặt, trong đó mặt hình thức đại cương đã phân tích ở trên. 

Về mặt nội dung thì sách chia làm bốn phần. Phần I từ tờ 1a1 đến 3b6 gồm bài tựa viết vào một “ngày tốt tháng tư năm Vĩnh Thịnh 11 triều Lê”, mà không ghi tên người viết, và bản danh sách những môn đồ của Thích Như Trí, giả thiết là những người đóng góp vào việc khắc bản cho bản in năm ấy. Phần này có trong bản in 1750 và hoàn toàn không có trong bản in đời Nguyễn. Phần II từ tờ 4a1 đến 43a1 mô tả 16 thế hệ truyền thừa của dòng Kiến Sơ, bắt đầu từ Vô Ngôn Thông (759?-826) cho đến Ứng Thuận, gồm truyện của cả thảy 39 người. Phần III từ tờ 44a1 đến 71a1 mô tả 21 thế hệ truyền thừa của dòng Pháp Vân, từ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?- 594) đến Y Sơn (?-1213), gồm truyện của cả thảy 29 người. Phần IV từ tờ 71b1-72b11 là một bản danh sách các thiền sư thuộc phái Thảo Đường, bắt đầu từ Thảo Đường cho tới Phạm Đẳng, gồm cả thảy 19 người không có truyện. 

Bốn phần này, nếu đem so sánh với nội dung của truyền bản in khoảng năm 1750 và bản in đời Nguyễn ta sẽ thấy có những so le đáng chú ý, mà người đọc có thể thấy trong bản đối chiếu dưới đây. Điều này làm nổi bật hẳn giá trị văn bản của truyền bản đời Lê của chúng ta. 

Về người đứng in bản văn và nơi in, bản in năm 1715 này không cho biết rõ ràng gì hết, một điều thường trái với thông lệ. Tuy nhiên, ta có thể đoán là Thích Như Trí cùng những môn đồ của ông, mà bảng danh sách ở tờ 3b1-6 ghi tới tên 15 người gồm cả nhà tu lẫn người đời. Tung tích những người này, ta hiện có một số thông tin.

Về Như Trí, ta ngày nay có hai nguồn tư liệu. Thứ nhất, Tiêu Sơn Thiên Tâm cúng tổ khoa tờ 13a5-6 đã ghi thiền sư Như Trí như một vị tổ của chùa Thiên Tâm: “Nam mô Viên Huệ tháp hòa thượng Như Trí thiền sư hóa thân Bồ tát”. Văn bản Tiêu Sơn Thiên Tâm cúng tổ khoa này do Tịnh Từ soạn và in vào năm Tự Đức thứ 3 (1850).

Cùng với Như Trí, ta thấy một loạt các vị thiền sư khác được Tịnh Từ kể tên, bắt đầu với Vạn Hạnh Quốc sư, rồi Thủy Nguyệt, Tông Diễn, cho đến Hải Điện và Tịch Lâm. Đặc biệt, Tịnh Từ nhắc đến ba lần Giác Trí Không Không Viên Giác thiền sư trước khi nhắc đến các vị tổ kia. Điều này chứng tỏ Tịnh Từ là đệ tử của Giác Trí Không Không và khi viết Tiêu Sơn Thiên Tâm cúng tổ khoa, là nhắm để cúng chủ yếu vị thiền sư này. Qua văn bản này, ta biết Như Trí là vị thiền sư đã từng làm trụ trì ngôi chùa mà thiền sư Vạn Hạnh đã từng sống và làm việc.

Về niên đại của Như Trí, ta hiện có thể dựa vào tiểu sử của Như Trúc, vị trụ trì của chùa Bút Tháp nổi tiếng, khắc trên tháp của vị thiền sư này. Theo tiểu sử thì Như Trúc sinh năm 1691 và mất năm 1735, hưởng dương được 45 tuổi ta. Trong quảng đời ngắn ngủi ấy, Như Trúc đã xuất gia làm đệ tử của Như Trí. Khi Như Trí tịch, Như Trúc đã đến Đông Sơn sống 5 năm, rồi lên Long Động, sau đó trở về làm trụ trì chùa Bút Tháp 13 năm trước khi mất. Ta không biết chắc chắn Như Trúc đã ở chùa Long Động bao lâu, nhưng có thể giả thiết là không dài lắm. Bởi vì nếu cọng thời gian ở Đông Sơn và Bút Tháp thì cũng đã lên tới 18 năm, nghĩa là Như Trúc đã rời Như Trí để lên Đông Sơn không chậm hơn năm 1717. Mà Như Trúc lên Đông Sơn là sau khi Như Trí đã mất. Do thế, ta có thể rút ra kết luận là Như Trí phải mất vào khoảng năm 1717 trở về trước. Bây giờ ta biết năm 1715 Như Trí còn đứng in Thiền uyển tập anh. Vậy có khả năng Như Trí đã mất vào khoảng 1716.

Về những đệ tử của Như Trí tham gia vào việc in lại Thiền uyển tập anh như Tín Nhu, Tín Phụng ta hiện tìm thấy tên trong bảng danh sách các môn đồ thuộc dòng phái của Minh Châu Hương Hải (1628-1715) ghi trong Hương Hải thiền sư ngữ lục[11]. Điều này giúp ta xác định được dòng thiền của Như Trí. Đó là dòng thiền do Minh Châu Hương Hải (1628-1715) truyền bá tại vùng đồng bằng sông Hồng. Về nơi tạng bản của bản in năm ấy cũng do việc xác định Như Trí từng trụ trì chùa Thiên Tâm tại Tiêu Sơn, nên ta có thể khẳng định nơi đứng ra in Thiền uyển tập anh chính là chùa Thiên Tâm ở Tiêu Sơn.

Xác định này đem lại cho ta một hiểu biết mới về bản đáy của bản in An Thiền. Trong bản in của mình ở Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục, An Thiền đã ghi là ông dựa vào “Tiêu Sơn cựu bản” để in lại Thiền uyển tập anh. Như vậy, “Tiêu Sơn cựu bản” chính là bản gỗ ở Tiêu Sơn, tức bản gỗ do thiền sư Như Trí đã đứng khắc. Từ đó, bản in đời Nguyễn nói dựa vào “bản gỗ xưa của chùa Tiêu Sơn” (cựu bản Tiêu Sơn tự) chính là bản in của Như Trí vào năm 1715. 

 
6. TRUYỀN BẢN ĐỜI LÊ II
 

Truyền bản đời Lê II là bản in khổ 30x20cm, gồm có 74 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 11 dòng, mỗi dòng 16 chữ, trừ những dòng in tên sách và đề mục cùng những chú thích khắc chữ nhỏ. Chữ khắc chân phương, dễ đọc, rất giống với nét chữ của bản in 1715, nên rất dễ gây ra sự lầm lẫn giữa bản này và bản đời Lê I, nếu không chú ý kỹ. Nét chữ của nó mập hơn bản kia. Sau bản đời Lê I xuất hiện một thời gian, nó đã được in lại và trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp tìm thấy vào khoảng năm 1930.

Theo Trần Văn Giáp mô tả[12] thì đây là một văn bản về cơ bản hoàn toàn giống với bản đời Lê I, chỉ khác là ngay sau bài tựa ở tờ 3b, có thêm 3 tờ ghi số 8, 9 và 10 in kèm vào. Tờ 8 mặt a in hình và mặt b khắc tiểu sử của Trúc Lâm Điều Ngự. Tờ 9 mặt a in hình và mặt b khắc tiểu sử của Pháp Loa Phổ Tuệ tổ sư. Tờ 10 mặt a in hình và mặt b khắc tiểu sử của Trạng nguyên Huyền Quang tôn giả. Và cuối sách, sau tờ 72b có thêm 2 tờ 73 và 74 chép lời bạt không ghi ngày và tên người viết cùng một danh sách những tín thí cúng tiền in sách. Gaspardone[13] cũng mô tả tương tự và còn cho ta biết đây là bản đã được nhập vào kho sách của trường Viễn Đông Bác Cổ, với ký hiệu số A.1782 và truyền lại cho tới ngày nay, (từ đây ta gọi là bản đời Lê II) và thường được coi là đại diện cho bản in của đời Vĩnh Thịnh 11 (1715), tức truyền bản đời Lê I.

Nhưng đây là một quan niệm sai lầm, bởi vì nếu nghiên cứu sâu vào văn bản của nó, ta sẽ thấy bản Lê II này không hoàn toàn thống nhất với bản Lê I. Thật sự nếu không có 3 tờ 8, 9, 10 và 2 tờ chép lời bạt ở cuối, thì mới trông qua, bản in đời Lê II này, về mặt chữ, về số trang, về số chữ đều giống với bản đời Lê I, gây cho ta ấn tượng hai truyền bản nầy là một.

Trong khi tiến hành nghiên cứu để làm hiệu chỉnh, chúng tôi mới khám phá ra rằng hai bản này tuy có vẻ giống nhau nhưng có nhiều khác biệt. Thứ nhất, người đứng in truyền bản Lê II đã sửa chữa những chữ sai trong truyền bản Lê I. Thí dụ, tờ 4a7[14] bản Lê I có “túc dạ” ¨   ©] , thì bản Lê II sửa thành “thị dạ” O  ©] ; tờ 11a11 Lê I có “thục thị”  ¼ơ  O , bản Lê II có “thục thị” ¼ơ  O ; tờ 20a6 Lê I viết Lưu Hán với chữ Lưu y  là dòng, trôi, còn bản Lê II có Lưu ¼B là họ Lưu viết theo lối giản thể  

Thứ hai, là bản Lê II bổ sung những chữ sót mà bản Lê I bị coi là thiếu. Thí dụ, tờ 17b6 bản Lê I có “Minh nhị Thiền sư” thì bản Lê II bổ sung thành “Minh Tâm nhị thiền sư”; tờ 26a2-3, Lê I có “Nho giả, nghĩa chi tích”, bản Lê II bổ sung thêm thành “Nho giả, nhân nghĩa chi tích” v.v... Nói chung, bản Lê II đã thực hiện một số những hiệu chỉnh, nghĩa là sửa những chữ sai và thêm những chữ thiếu đối với bản Lê I. Ai làm công việc này, hiện nay ta không được bảo cho biết. Căn cứ  vào lời bạt ở cuối bản Lê II này, mà chúng tôi sẽ cho in nguyên bản và dịch ở Phụ lục IV, ta thấy những người góp tiền in bản này gồm những kinh chủ và hội chủ, tất cả đều có pháp danh chữ Tính hoặc chữ Diệu. Điều này chứng tỏ họ phải là đệ tử của những vị thầy có chữ Như, theo Truyền pháp kệ của phái Trí Bảng Đột Không của dòng Lâm Tế đang thịnh hành tại miền Bắc nước ta vào thời điểm ấy:                   

                        Trí tuệ thanh tịnh

                        Đạo đức Viên Minh
                        Chân như tính hải

                        Tịch chiếu phổ thông.

Những Thiền sư có chữ Như vào đầu thế kỷ XVIII như: Như Trừng (1690-1728), Như Nhàn (1655-1724), v.v… như vậy, có đệ tử chắc chắn phải sống vào nửa đầu thế kỷ này trở đi, tức có khả năng sống tới những năm 1750. Do thế, những kinh chủ như Nguyễn Công Kính pháp danh Tính Trác, Nguyễn Công Vận pháp danh Tính Chuyên, những hội chủ như Trần Tuấn Đức pháp danh Tính Trì, Trần Tuấn Vượng pháp danh Tính Duệ, Đoàn Đình Khôi pháp danh Tính Pháp, Trần Đăng Minh pháp danh Tính Thường v.v…, quyết phải sống vào khoảng thời gian vừa nói. Vì vậy, việc in truyền bản đời Lê II này tất nhiên xảy ra vào những năm trước sau năm 1750. 

Đó là về thời điểm ra đời của bản Lê II. Căn cứ vào quê quán của những kinh chủ và hội chủ này, ta thấy tập trung vào bốn xã chính, là Trung Mâu, Tử Nê, Đông Sơn và Lễ Xuyên. Trong số này, Lễ Xuyên nằm tại huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn thuộc Kinh Bắc cũ, còn Trung Mâu thì hoặc là tên xã thuộc huyện Tiên Du cũng của phủ Từ Sơn, hoặc thuộc huyện Hưng Nguyên của Nghệ An. Nhưng Trung Mâu của Nghệ An hẳn không là quê của những người tham gia in truyền bản Lê II này. Hai xã Đông Sơn và Tử Nê thì ở các tỉnh Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Thanh Hóa đều có, song ở đây, chúng phải thuộc về huyện Tiên Du, Kinh Bắc. Tóm lại, tất cả những người đứng in truyền bản này đều thuộc vùng Từ Sơn, Kinh Bắc[15]. Như vậy, truyền bản ấy có phải là bản cũ của chùa Tiêu Sơn mà Phúc Điền hòa thượng đã xử dụng để in lại hay không, ta hiện có thể trả lời là không phải. Lý do nằm ở chỗ, những chữ do truyền bản Lê II hiệu chỉnh đã không thấy xuất hiện đầy đủ trong bản in của hòa Thượng Phúc Điền.

Truyền bản Lê II này từ đó có thể nói là một dị bản của truyền bản Lê I với một số cải chính và hiệu đính, làm cho truyền bản Lê I tốt hơn. Sự xuất hiện mấy mươi năm sau truyền bản Lê I của nó tỏ ra phong trào nghiên cứu và học tập lịch sử Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ XVIII rất sôi động và khởi sắc. Để cung cấp tư liệu, chúng tôi cho dịch lại lời Bạt theo lần in cho truyền bản Lê II này, gọi là: Thiền uyển tập anh bạt hậu, nơi Phụ lục IV.

 

 7. TRUYỀN BẢN ĐỜI NGUYỄN
 

Trong lời tựa viết cho việc in lại “năm quyển Truyền đăng” thảo ra vào ngày 15 tháng giêng năm Tự Đức thứ 12, tức ngày 12 tháng 2 năm 1858, và in vào đầu bộ Ngự chế thiền điển thống yếu Kế đăng lục hay gọi tắt Kế đăng lục, nhan đề San khắc truyền đăng thủ Trần gia bản, nhưng ở gáy lại ghi rõ hơn là Truyền đăng ngũ quyển tân tự, An Thiền đã trình bày khá tường tận ý muốn xuất bản một bộ sử thiền tông Việt Nam của mình và phương án để thực hiện ý muốn đó. Đấy là lấy bộ Thiền uyển tập anh làm quyển thượng, lấy bộ Kế đăng lục của Như Sơn gồm ba quyển, tức quyển nhất, quyển tả và quyển hữu làm ba quyển tiếp theo, còn quyển cuối cùng thì đó chính An Thiền sáng tác viết về “ba tổ đời Trần, hai phái Lâm Tế và Tào động, hai phía đạo đời làm thành một tập cùng những ghi chú lặt vặt sách ngoài, riêng làm quyển hạõõ. Bộ Truyền đăng ngũ quyển này, cứ vào cái tên ghi ở quyển thượng tức Thiền uyển tập anh có lẽ có tên Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục hay gọi tắt là Thiền uyển Truyền đăng lục, hay Đại nam thiền uyển truyền đăng. Dẫu sao chăng nữa, đó là những tên An Thiền dùng để gọi bộ Thiền uyển tập anh của chúng, sau khi đã thêm vào hai chữ  “quyển thượng”.

Quyển thượng của bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng như vậy chắc chắn in xong trước năm 1858, hay cùng lắm thì in xong vào năm đó. Nó gồm cả thảy 65 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 10 dòng, mỗi dòng 21 chữ. Chữ in thật đẹp, cùng một cỡ, trừ một số rất ít có chữ cỡ nhỏ để chú thích. Nhưng vì những nguyên chú xuất hiện trong truyền bản đời Lê, phần lớn đã bị bản in này in thành cỡ chữ lớn nên số chữ cỡ nhỏ trở thành không quan trọng gì cho lắm. Bắt đầu mỗi truyện, nó in trồi lên một ô. Vì thế, tuy nói mỗi dòng 21 chữ, nhưng thật sự thì chỉ dòng bắt đầu mỗi truyện mới có số chữ đó, còn tất cả những dòng còn lại thì chỉ có 20 chữ mà thôi. Mỗi dòng đều có chấm câu, nhưng công tác chấm câu không được thực hiện một cách đạt yêu cầu, nên đôi chỗ chấm câu hoàn toàn sai.

Sách không chia thành nhiều quyển và cũng không có một dấu tích gì cho phép ta giả thiết là nó gồm nhiều quyển hết. Từ đầu tờ 1a1 nó có tên Trùng khắc Đại nam thiền uyển truyền đăng tập  lục quyển thượng. Ở cuối sách tờ 65a10 nó cũng có tên Đại nam thiền uyển truyền đăng quyển thượng. Còn gáy các tờ từ 1 cho đến 65 đều có ghi Thiền uyển Truyền đăng lục quyển thượng. Sự thống nhất toàn bộ bản Thiền uyển tập anh thành quyển thượng của bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục này dĩ nhiên là công cũng như tội của An Thiền. Chính trong lời tựa dẫn trên, Thiền đã minh xác rất rõ ràng vai trò của mình trong việc tạo nên quyển thượng đấy. Ông nói: “Kịp đến nước ta thì xưa có Thiền uyển làm lục, Tập anh làm tên, ghi lấy thạc đức cao tăng của ba triều, trình sơ nét chính, nhưng bên trong sai lầm không phải một, ngược lộn không kể ra, do đó tôi đã hiệu đính lại, viết sạch ra mà khắc vào bản gỗ, để bảo tồn bản văn xưa, riêng làm quyển thượng”. Như vậy Thiền không những là người tổ chức lại bản văn của Thiền uyển tập anh cũ mà còn làm công việc chỉnh cú và hiệu đính bản văn đó cùng việc in nó ra nữa. Thực vậy, trùng khắc Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng tờ1a2 ghi rõ: “Hòa Thượng Phúc Điền chùa Liên Tôn có giới đạo độ điệp thuộc phái Lâm Tế hiệu đính và  khắc bản”.

Hòa Thượng Phúc Điền là đạo hiệu của An Thiền, vị Sư trú trì chùa Đại Giác ở Bồ Sơn, Bắc Ninh. Ông là một dịch giả quốc âm lớn cũng như một nhà nghiên cứu có tiếng tăm của thế kỷ thứ XIX. Trong bài tựa Quốc âm tiểu luận viết ở đầu sách Khóa hư giải âm, An Thiền đã ghi 34 bộ kinh sách Phật giáo do chính ông dịch quốc âm và do một “Trưởng lão” nhóm sơn môn lại để khắc bản ra từ năm 1840 đến năm 1861, đó là:

1. Kim cương kinh                     1 quyển

2. Di Đà kinh                               1 quyển 

3. Qui sơn cảnh sách                      2 quyển

4. Sa di sớ                     2 quyển

5. Thiền lâm bảo huấn    4 quyển

6. Đại đường từ ân xuất gia châm                   1 thiên

7. Di Sơn đại sư phát nguyện                   1 văn

8. Vân Thê đại sư phát nguyện                   1 văn

9. Trúc song                    3 quyển      

10.Hộ pháp luận    1 quyển

11.Khóa hư lục   3 quyển

12.Thái căn đàm    1 quyển

13.Tam giáo nhất nguyên    1 quyển

14. Nhân sinh nhất đán    1 văn

15. Bán điểm    1 văn

16. Hàn lâm sở    1 quyển

17. Vương thị cảnh thế lương ngôn    1 thiên

18. Tân soạn thích giáo chân ngôn    1 thiên

19. Tiên nho công luận    1 thiên

20. Thượng đường quốc ngữ    1 thiên

21. Phụng Phật tổ đối liễu kỷ cú 

22. Hoa nghiêm phương san kinh    82 quyển

23. Giải hoặc thượng hạ    2 quyển

24. Tam giáo quản khuy nho thích đạo   3 tập

25. Truyền đăng Phật tổ   5 quyển

26. Phật tổ thống kỷ                        

27. Cổ bản phạn giáp    54 quyển

28. Kim vi phương sam    20 quyển

29. Tại gia tu trì                               

30. Đạo giáo nguyên lưu   2 quyển

31. Tiểu du già   1 quyển

32. Lễ thiên địa lương tinh cập âm hồn bài vị 22 bài

33. Trùng khắc đại giới điệp                    1 trương

34. Tân biên ngũ giới thập giới điệp                    1 trương

Theo Thích song tổ ấn tờ 3a6-7 do Tịnh Hạnh viết vào năm 1924 thì hòa Thượng Phúc Điền có dịch “Đại nam thiền uyển tập một quyển, Trúc song một bộ, Phật tổ thống chí một bộ”, vào năm Minh Mạng thứ 9 (1828). Trúc song và Phật tổ thống chí đều có ghi trong số 32 dịch phẩm vừa dẫn, nhưng Đại nam thiền uyển tập, mặc dù Thích song tổ ấn nói có một quyển, ta biết chắc chắn là phải gồm cả thảy năm quyển, như đã bàn cãi ở trên và chúng tôi chưa tìm thấy một dấu vết gì khác về một bản dịch quốc âm của nó. Ngoài những dịch phẩm đấy, chúng tôi hiện đã tìm được Đạo giáo nguyên lưu ba quyển, Thiền lâm qui ước ba quyển, Tân tập tại gia nhật dạ tu trì nghi thức một quyển, Phóng sanh giới sát văn một tập, Tiểu du già , Hàn lâm sở, nhưng tất cả đều bằng Hán văn. Chỉ mới phát hiện đều các bản dịch Kim cương, Di Đà và Khóa hư lục bằng quốc âm. 

An Thiền như vậy là một tác giả lớn không những của Phật giáo thế kỷ thứ XIX, mà còn là của văn học và tư tưởng nước ta thế kỷ đó. Việc ông cho ra đời bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục không phải không là một sáng kiến hay. Điều đáng tiếc là ngoài bài tựa San khắc truyền đăng thủ Trần gia bản dẫn trên, giới thiệu tổng quát phương án và tư liệu của việc in ra bộ đó, An Thiền đã không viết giới thiệu riêng cho từng quyển. Do thế, ngày nay ta không thể chắc chắn Thiền đã dùng truyền bản nào để in lại Thiền uyển tập anh thành quyển thượng của Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục. Tuy nhiên, vào tờ đầu quyển thượng của Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục, Thiền chua “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn”, với ý nghĩa là, Thiền đã dùng truyền bản của bản gỗ chùa Tiêu Sơn. Về lai lịch bản gỗ ấy, ta hiện có thể đồng nhất với truyền bản đời Lê của bản in năm 1715. Bởi vì, ngoài những xuất nhập văn bản, mà ta hiện chưa thể phát hiện nguồn gốc, tối thiểu ta đang có một chứng cớ tỏ ra “bản gỗ cũ của chùa Tiêu Sơn” dứt khoát phải là truyền bản đời Lê in năm 1715. Đấy là ở truyện Viên Chiếu, bản của Phúc Điền hòa thượng tờ 11a9 thiếu hẳn cơ duyên thoại ngữ của đúng một tờ trong bản in 1715, tức từ tờ 14b9 đến tờ 15b9. Chúng tôi do thế nghĩ “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn” phải là truyền bản của bản in năm 1715 cũng như bản đời Lê II. 

Kết luận như vậy, ta sẽ qui trách nhiệm hoàn toàn cho An Thiền về sự ra đời của những xuất nhập xảy ra giữa truyền bản đời Lê I và Lê II và truyền bản đời Nguyễn. Đây là một kết luận phải chăng, và sự có mặt của những xuất nhập chỉ biểu hiện cho sự ưu việt của truyền bản đời Lê mà thôi, không hơn không kém. Cũng cần thêm rằng những xuất nhập ấy có lẽ đã xuất hiện trong bản đời Nguyễn xuất phát từ một cây bút có liên hệ với truyền thống chùa núi Phả Lại. Bởi vì sự sai khác giữa hai truyền bản đời Lê và truyền bản đời Nguyễn chủ yếu nằm trong truyện Không Lộ. Không Lộ theo truyền bản đời Lê là vị Sư của chùa Nghiêm Quang ở Hải Thanh, trong khi truyền bản đời Nguyễn muốn gồm luôn cả chùa núi Phả Lại nữa. Truyền thống liên kết Không Lộ với chùa núi Phả Lại ấy đã thấy xuất hiện trong An nam chí lược 15 tờ 147, như vậy chứng tỏ có một lịch sử xa xưa. Từ đó, không cần phải đợi đến An Thiền mới nảy ra cố gắng tạo nên một truyền thuyết mới về Không Lộ.

Do thế, về nội dung truyền bản đời Nguyễn, tuy chủ yếu là đồng nhất với hai truyền bản đời Lê, đã có hai xuất nhập chủ chốt. Thứ nhất, nó hoàn toàn thay đổi truyện của Không Lộ bằng một nội dung mới khác hẳn với truyện Không Lộ của truyền bản đời Lê I và Lê II. Thứ hai, nó thiếu truyện Minh Không ở thế hệ 13 của dòng thiền Pháp Vân. Sự thiếu truyện Minh Không này có thể không phải do người đứng khắc “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn” hay chính An Thiền tạo nên từ hành động loại bỏ văn bản có ý thức của họ. Trái lại, nó có lẽ xảy ra, vì truyền bản của “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn” hay chính bản thân bản gỗ cũ đó đã thiếu mất một tờ, khi An Thiền sử dụng để in lại thành quyển thượng của bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục. Lý do cho một giả thiết như thế nằm ở chỗ truyện của Minh Không trong bản in năm 1715 chiếm đúng một tờ, tức từ tờ 59b2 đến 60b1, mà có thể rơi đúng lên khuôn một tờ của truyền bản nguyên ủy của đời Nguyễn, chớ không phải ăn thâm đến hai tờ khác nhau, như ở trường hợp truyện Viên Chiếu. Một lần nữa, nếu giả thiết ấy tỏ ra đúng đắn, thì sự thiếu truyện Minh Không vừa nêu là một chứng cớ khác cho khẳng định rằng “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn” phải là bản in năm 1715.

Ngoài ra, bản in do An Thiền thực hiện đã không có lời tựa của người hiệu đính bản in năm 1715. Đấy có thể là do Thiền cố ý loại bỏ. Chúng tôi nghĩ, trường hợp này gần đúng với sự thực hơn, bởi lẽ nội dung bài tựa bản in năm 1715 không có liên hệ gì với mục tiêu An Thiền đang làm đối với Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục, nên An Thiền đã loại bỏ. Do thế, đấy là có thể  là một chứng cứ thứ ba cho ta khẳng định rằng “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn” phải là bản in năm 1715. Khẳng định như vậy, ta vẫn chưa biết văn bản của truyền bản đời Nguyễn trước “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn” là ra sao cả. Dẫu thế, trừ sự sai khác chính yếu về truyện Không Lộ chưa thể giải quyết một cách thỏa đáng trên, ta có thể nói nội dung truyền bản đời Nguyễn là đồng nhất với truyền bản đời Lê, khi coi sự thiếu truyện Minh Không trong truyền bản trước xuất phát từ việc mất một tờ trong “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn”, như truyện Viên Chiếu đã thiếu một tờ trong phần cơ duyên thoại ngữ.

 
8. BẢN CHÉP TAY A.2767

Đúng ra, sau khi chúng ta đã có trong tay 3 bản in Thiền uyển tập anh, đó là bản in đời Lê I, Lê II và đời Nguyễn, thì bản chép tay A.2767 do trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp thuê chép hiện tàng trữ tại thư viện Hán Nôm, Hà Nội, không đáng cho ta bận tâm bàn cãi ở đây. Tuy nhiên, nhân viên trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp dùng vi phim chụp lại trước khi rời khỏi Hà Nội vào năm 1954, rồi phổ biến cho những người nghiên cứu miền Nam sử dụng. Đặc biệt Viện đại học Vạn Hạnh đã dùng nó làm bản đáy để chép lại và in ronéo ít lắm là hai lần để làm tài liệu giảng dạy, vào những năm 1965 và 1966, từ đó được phát tán rộng rãi, trong nước cũng như ngoài nước, cho nên bản chép tay A.2767 này có cơ hội gây nhiều lầm lẫn cho những người học tập và nghiên cứu gần đây[16]. Do vậy, chúng tôi phải nói sơ đôi chút về bản chép tay A.2767 này, để người sau thận trọng hơn khi phải dùng các bản chép tay loại ấy. 

Thứ nhất, bản A.2767 có tên là Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, như vậy nó đã dùng bản in thế kỷ XIX của thiền sư An Thiền ở chùa Đại Giác, Bồ Sơn, Bắc Ninh, làm bản đáy để chép lại. Thứ hai, nó chép đúng theo khuôn khổ của bản in đời Nguyễn, nghĩa là số trang, số dòng và số chữ cùng giống nhau trên mỗi trang. Bản in năm 1966 do Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành. cũng theo cùng cỡ. Còn bản năm 1965 thì chép một cách tùy tiện nên không kể tới. Thứ ba, vì chép đúng theo cỡ trang, số dòng và số chữ của mỗi trang, bản này đã có những khuyết tật của bản đời Nguyễn, nghĩa là nó đã loại bỏ truyện Không Lộ của dòng thiền Vô Ngôn Thông có trong bản đời Lê I và Lê II và thế vào đó bằng một truyện Không Lộ mới, mà đôi khi nó lại viết thành Không Lộ khi chép về chuyện Không Lộ đúc “Đại nam tứ khí”. Ở truyện Viên Chiếu, nó thiếu một tờ giống như bản in đời Nguyễn. Và cuối cùng nó không có truyện Minh Không. Những sai sót này, lúc ta so với bản đời Nguyễn của thiền sư An Thiền, là tình trạng “tam sao thất bổn” mà người xưa đã từng nói đến. Thứ tư, ngoài những chép sai, chép sót và chép thiếu nằm rải rác ở khắp cả bản chép như nêu trên, bản sao A.2767 này đã tùy tiện thêm thắt một số đoạn viết. Cụ thể là đoạn phiến về Khương Tăng Hội trong truyện Thông Biện quốc sư, ở tờ 17a3, nó thêm năm chữ “Khương Tăng Hội chi nhân”. Và sự tình này xảy ra là do việc trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp trả tiền công cho bản chép trên cơ sở số chữ đã chép, nên người chép đã thêm một số chữ để kiếm thêm tiền, như ggiáo sư Hoàng Xuân Hãn đã từng nhận xét[17]. Tóm lại, đây là một bản chép tồi tệ, không đáng để ta nói đến. 

Trong lần xuất bản trước vào năm 1976, bản nghiên cứu Thiền uyển tập anh của chúng tôi không đề cập gì đến bản chép tay này vì suy nghĩ như thế. Nhưng do gần đây những sai lầm của bản chép này đã gây ra nhiều nhiễu loạn cho nhận thức trong giới nghiên cứu, đặc biệt là ở nước ngoài, vì không tiếp cận được với những truyền bản gốc, nên đã nêu lên vài vấn đề tưởng có vẻ như là khám phá mới mẻ, song thật sự chỉ là xuất phát từ những sai lầm đó mà thôi. Do vậy, chúng tôi phải đưa ra vài nhận xét ở đây. Và vì nó phát tán rộng rãi qua những lần in ronéo, nên trong khi làm bản hiệu đối, chúng tôi ghi nhận sự sai biệt của nó đối với ba bản kia để giúp những người có bản vi phim hay bản ronéo trong tay có thể dò theo để hiệu chỉnh lại cho đúng. 

 
9. VẤN ĐỀ CHỌN LỰA TRUYỀN BẢN

Sau khi đã giới thiệu và phân tích tám truyền bản, mà ta hiện có thể truy cứu được, thì rõ ràng truyền bản đời Trần, đời Hồ, đời Lê sơ và truyền bản 6 quyển của Phan Huy Chú ngày nay đã hoàn toàn tán thất, do thế không giúp ích gì lắm cho công tác lựa chọn đề bản của ta. Còn lại như vậy là truyền bản đời Lê I, đời Lê II và truyền bản đời Nguyễn, mà chủ yếu là bản in năm năm 1715, khoảng năm 1750 và bản in năm 1858 của chúng. Với những phân tích trên, ta bây giờ có thể so sánh và đánh giá trị văn bản của từng bản in. Thứ nhất, về mặt hình thức, hai bản in đời Lê với những lời chua in bằng khổ chữ nhỏ và với những dấu vết của truyền bản sáu quyển đã tỏ ra hơn hẳn bản in đời Nguyễn bằng hai đặc điểm đó, mà bản in đời Nguyễn không có. Tiếp đến, về nội dung, bản in đời Nguyễn, có lẽ vì mất một tờ, trong nguyên bản, đã đánh rơi mất đúng gần một nửa số cơ duyên thoại ngữ của Viên Chiếu trong truyện Viên Chiếu. Đồng thời truyện Không Lộ hoàn toàn khác hẳn truyện Không Lộ trong hai bản đời Lê, biểu hiện một tạo dựng vụng về hậu kỳ, mà ta hiện chưa thể xác định được nguồn gốc. Ngoài ra, vì truyện Không Lộ của nó đã bao gồm luôn truyện của thiền sư Minh Không, nay truyện Minh Không của dòng thiền Pháp Vân không xuất hiện trong phần viết về dòng thiền đấy. Sự vắng mặt nó cũng có thể đến từ việc nguyên bản, mà An Thiền dùng để in bản in năm 1858, đã bị mất tờ có truyện Minh Không. Dẫu sao chăng nữa truyện Minh Không đã không thấy xuất hiện trong dòng thiền Pháp Vân. Cuối cùng, về quyển số, vì gộp Thiền uyển tập anh vào làm quyển thượng của bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, bản in đời Nguyễn đã loại bỏ hết mọi dấu tích phân chia quyển số của hai bản in đời Lê, một điều không phải là không nguy hiểm cho những người nghiên cứu. 

Còn giữa bản in đời Lê I và đời Lê II, khi so sánh, tuy bản đời Lê II có một số ưu điểm là sửa lại những chữ sai và sót của bản Lê I, nhưng vì nó xuất hiện sau bản Lê I và không phải lúc nào nó cũng sửa đúng cả, nên chúng tôi vẫn chọn bản Lê I làm bản đáy. Và đó là chưa kể bản Lê II có đóng chung với ba tờ 7, 8, 9 khắc chân dung và ghi tiểu truyện của Trúc Lâm tam tổ, biểu thị nó có một số pha tạp, mà ta hiện không biết lý do vì  sao. Ít nhất, những pha tạp đó đã làm nó mất đi khá nhiều tính đáng tin cậy của nó, như  Gaspardone đã vạch ra[18].

Do thế, nếu so sánh hai truyền bản đời Lê và bản đời Nguyễn, chúng tôi chọn truyền bản đời Lê I mà cụ thể là bản in năm 1715, làm để bản, rồi tham khảo bản in đời Lê II và Nguyễn cùng những trích dẫn của truyền bản đời Trần, đời Hồ và đời Lê sơ để làm một bản hiệu cho công tác phiên dịch của chúng tôi. Nói rõ ra, chúng tôi dùng bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh để dịch, rồi tham khảo thêm bản đời Lê II và Nguyễn và những trích dẫn của truyền bản đời Trần, đời Hồ và đời Lê sơ bổ sung cho cách đọc bản in năm 1715, và trong một số trường hợp rất ít (không lên quá số ba), để cải chính cách đọc của bản in đó. Xem bản hiệu đối đính kèm ở dưới.


Tiêu điểm:

Âm lịch

Ảnh đẹp