Thiên thứ tư: Bát Quan Giới Trai
Chương 1: Bát Quan Giới Trai Và Nội Dung
I. LỜI MỞ ĐẦU
Con đường học Phật là tiến từng giai đoạn, là từng lớp tiến lên. Quy y
Tam bảo chỉ là bước đầu tiến vào cửa của sự tin Phật, học Phật. Ngũ
giới thập thiện mới là sự mở đầu đi vào con đường học Phật. Trong luật
điển thời Đức Phật tại thế, hễ thọ tam quy ắt thọ luôn cả ngũ giới. Vì
thế, tam quy ngũ giới từ trên sự yêu cầu căn bản mà nói, là phân ra
không được. Người đời sau chỉ thọ tam quy không thọ ngũ giới, chỉ là kế
thích nghi tạm thời tiếp dẫn chúng sinh mà thôi.
Thọ tam quy ngũ giới chỉ cầu vâng làm đúng như pháp, tuyệt đối có thể
bảo đảm không đọa tam đồ (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Công đức của
ngũ giới có thể bảo đảm sinh ở loài người, cho đến có thể sinh lên Trời
thành thiên nhân.
Nhưng mục đích cuối cùng của Phật pháp là dạy người liễu sinh thoát
tử, quy y Tam bảo là làm cho chúng sinh không bị đọa vào tam đồ, cũng
chỉ là một kế thích nghi tạm thời của sự liễu sinh thoát tử. Trước tiên
khiến cho người chẳng bị đọa, sau khi chân đứng vững vàng còn phải tiến
lên một tầng và đi trên đường vào cửa liễu sinh thoát tử, Bát quan giới
trai là một con đường vào cửa liễu sinh thoát tử này.
Đương nhiên, Bát quan giới trai chỉ là khởi điểm của con đường liễu
sinh thoát tử, chỉ là một cái cửa lớn, chỉ là một con đường vào cửa, lên
đường rồi còn có cảnh giới cao hơn chờ đợi chúng ta. Vì thế trong kinh
đều nói thọ Bát quan giới trai là chúng sinh gieo trồng chánh nhân xuất
thế, mà chẳng phải quả xuất thế. Nhân vì người trì ngũ giới thanh tịnh
sinh lên Trời, chỉ ở trên trời, nhưng không nhất định liễu sinh thoát
tử. Bát giới sinh lên Trời ,cuối cùng sẽ được kết quả Niết bàn liễu sinh
thoát tử. Đây là chỗ khác nhau giữa ngũ giới sinh lên Trời và bát giới
sinh lên Trời.
II. BÁT QUAN GIỚI TRAI LÀ GÌ?
Giới, trong Phật giáo, trên đại thể, gồm có 2 loại khác nhau:
1. Tiệm thứ giới.
2. Đốn lập giới.
Tiệm thứ giới là chỉ tam quy ngũ giới của tại gia; Sa di, Sa di ni,
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới của xuất gia. Không thọ tam quy ngũ giới sẽ
không thọ được thập giới Sa di, Sa di ni; không thọ thập giới Sa di, Sa
di ni sẽ chẳng thọ được Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới. Trong quá trình từ Sa
di ni tiến vào Tỳ kheo ni còn có lục pháp của Thức xoa ma na. Do vì cần
phải tuần tự tiến lên tầng cấp cho nên gọi là Tiệm thứ giới. Hai chúng
tại gia cộng thêm 5 chúng xuất gia thành ra 7 chúng đệ tử Phật, đều lấy
tiệm thứ giới để được danh phận theo thứ tự.
Đốn lập giới chỉ cho Bát giới và Bồ tát giới của Kinh Phạm Võng và Kinh Anh Lạc. Hai thứ giới này là
giới biệt giải thoát ở ngoài thất chúng giới. Giới này và giới kia tuy
đồng là Phật giới, nhưng không thọ tam quy ngũ giới cũng có thể thọ ngay
Bát giới và Bồ tát giới (Du già Bồ tát Giới vẫn là tiệm thứ giới). Như
vậy, chúng ta nói hiện tại Bát giới đã chẳng phải là một thứ giới của
tiệm thứ giới của thất chúng, tại sao lại đặt bát giới ở sau ngũ giới mà
giảng? Nhân vì trong Bát giới bao quát toàn bộ ngũ giới và gồm phần lớn
của thập giới Sa di. Vì muốn cho dễ hiểu nên tôi đặt Bát giới ở sau ngũ
giới và trước thập giới.
Nội dung của Bát quan giới trai như sau:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cướp.
3. Không phi phạm hạnh (không dâm).
4. Không vọng ngữ.
5. Không uống rượu.
6. Không đeo tràng hoa hương thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố đến xem nghe.
7. Không ngồi nằm trên giường lớn cao rộng.
8. Không ăn phi thời.
Chúng ta xem qua có thể biết trong Bát giới này, trừ ba điều giới 6,
7, 8, ra, 5 điều giới trước đồng với ngũ giới, nhưng điều giới thứ ba
“không tà dâm” đổi lại là “không dâm”.
T hật ra, 8 điều giới này là 9 điều giới trước của thập giới Sa di,
trừ điều giới thứ 10 :”Chẳng cầm giữ vàng bạc vật báu “ra, hoàn toàn
giống với Sa di giới, chỉ đem hai điều 6, 7 của Sa di giới ở đây hợp lại
thành một điều giới thứ 6. Vì thế, cũng có người đem bát giới này theo
Sa di giới mà phân làm 9 điều, vì trong điều giới cuối cùng: Giới “ăn
phi thời” chẳng phải là giới mà là trai. Không ăn phi thời gọi là trai,
quá giữa ngọ (12 giờ trưa) không ăn gọi là trì trai (trì trai chẳng phải
là ăn chay), quá giữa ngọ mà ăn gọi là ăn phi thời. Bát quan giới trai
cũng lấy sự trì trai này làm thể, làm chủ, làm gốc, làm trọng yếu, cho
nên 8 điều trước gọi là giới, một điều sau gọi là trai. Trai có nghĩa là
thanh tịnh, từ trên sự tướng nói, quá giữa ngọ mà ăn tức là tạp loạn
bất định, vì thế ba đời chư Phật đều không ăn quá giữa ngọ, nhưng từ
trên căn bản mà nói thì ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh là trai.
Chỗ khác biệt lớn nhất giữa Bát quan giới trai và Sa di thập giới là
chỉ thọ trì một ngày một đêm trong sáu ngày trai, chẳng giống như Sa di
giới phải thọ trì suốt đời. Vì Sa di suốt đời thọ trì thập giới nên có
thể chứng quả cao nhất là A la hán. Bát quan giới trai chỉ thọ một ngày
một đêm, tuy gieo trồng được chánh nhân xuất thế, nhưng chẳng thể ngay
nơi thân này chứng quả A la hán. Đức Phật từ bi, nhưng vì trên đời mặc
dù có rất nhiều người hy vọng tin Phật, học Phật để mong ra khỏi đường
sinh tử, nhưng do những nhân duyên sai biệt bất đồng khiến cho nhiều
người không có cách ra khỏi con đường sinh tử này. Có người vì chức
nghiệp khiến cho họ không thể tự do quyết định phương thức sinh họat của
mình nhắm đến, có người vì sự bó buộc của xã hội, có người vì sự ràng
buộc của vợ, con v.v… Vì thế, người mong muốn đi trên con đường xuất thế
thì rất đông, mà người đi được trên con đường xuất thế lại rất ít. Do
đó, Đức Phật mở ra một con đường phương tiện để cho một người mong muốn
đi trên con đường xuất thế mà không có cách đạt đến mục đích cũng có cơ
hội đi qua sinh hoạt xuất thế để gieo trồng thiện căn xuất thế. Bát quan
giới trai là pháp môn phương tiện rộng lớn này.
Bát quan giới trai đã là 9 điều trước của Sa di thập giới, cho nên
phân mục thọ trì cũng gần với Sa di thập giới. Sinh hoạt xuất thế lấy
sinh hoạt của Sa di làm cơ sở. làm mở đầu, phân mục thọ trì 9 giới trước
của 10 giới cũng gần với phân mục của sinh hoạt xuất thế phải thọ trì.
Bát quan giới trai là một ngày một đêm thọ trì, thọ thêm một lần là được
lợi ích nhiều thêm một lần. Thông thường lấy các ngày mùng 8,14, 15,
23, và 2 ngày cuối tháng âm lịch gọi là 6 ngày trai. Trong 6 ngày này
mỗi ngày đều thọ cố nhiên là tốt, nếu như vì sự hạn chế của hoàn cảnh
chỉ thọ 5 ngày cho đến một ngày cũng tốt.
III. VÌ SAO CẦN PHẢI THỌ BÁT QUAN GIỚI TRAI?
Ý nghĩa đại khái, đoạn trước đã nói qua là gieo trồng thiện căn xuất
thế, thọ trì Bát quan giới trai tuy chỉ một ngày một đêm, nhưng rốt cuộc
ắt nhờ công đức này được đến quả Niết bàn. Tại sao Bát quan giới trai
lại có đủ công đức như thế?
Điểm này chúng ta cần nên chú ý: Trọng tâm của Bát quan giới trai là
lập ra phương pháp đóng chặt cửa sinh tử của chúng sinh. Tác dụng của
Bát quan giới trai là do từ quan ải này mà chúng sinh chạy ra khỏi cửa
sinh tử. Hai nguồn đại họa dâm dục và ăn uống là gốc của sinh tử. Nho
gia nói: “Ẩm thực, sắc dục là tánh. Nguyên nhân căn bản khiến chúng sinh
thành chúng sinh.” Theo quan điểm Phật pháp nói: “Ăn uống là trợ duyên
tăng thượng của sinh tử, dâm dục là nguyên nhân căn bản của sinh tử.”
Tất cả chúng sinh đều do chẳng đọan dâm dục, vì thế chẳng lìa sinh tử.
Tất cả chúng sinh đều tham luyến các khoái lạc dâm dục, thành trợ duyên
cho sự sinh tử của con cháu đời sau, tự thân cũng bị sợi dây sinh tử
trói buộc. Chúng sinh có dâm dục là bẩm sinh. Sự giao tiếp của hai tánh
(nam, nữ) hình thành sự dâm dục phải sau khi được no ấm. No ấm thuộc về
ăn mặc, ăn so với mặc còn trọng yếu hơn. Có ăn không có mặc, có thể no
cũng có thể ấm. Có mặc không có ăn, rốt cuộc phải bị đói mà chết. Vì
thế, dâm là căn bản của sinh tử, ăn là trợ duyên sinh tử. Nếu vượt ra
ngoài dâm dục và ăn uống, ắt đã liễu thoát sinh tử. Trong tam giới, dầu
đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng của Vô sắc giới không còn có niệm
dâm dục, nhưng cũng chẳng lìa thức thực, cho nên vẫn không ra khỏi sinh
tử. Vì đã vượt ra sinh tử nên giới dâm. Vì ức chế dâm dục nên trì trai.
Sinh họat xuất thế bắt đầu thực hiện từ giới dâm và trì trai. Ăn uống là
trợ duyên của sinh tử. Dâm dục lại do ăn uống đầy đủ mà nổi dậy. Chính
vì thế, trì trai tuy chẳng phải giới, nhưng lại là thể của giới.
Đến đây, người đọc sẽ hoài nghi nội dung của Bát quan giới trai rõ
ràng có 8 điều hoặc 9 điều, tại sao chỉ nói dâm dục và trì trai mới là
trọng tâm của Bát quan giới trai ?
Vì 5 giới đầu của Bát quan giới trai, trừ giới thứ ba “không tà dâm”
đổi thành “không dâm”, ngoài ra đều giống ngũ giới, đủ thấy điểm trọng
yếu của nó ở tại giới dâm, cho nên cùng ngũ giới bất đồng.
Đến điều thứ 6 “Không đeo tràng hoa thơm, không xoa dầu thơm, không
ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố đến xem nghe”, và
điều thứ 7: “Không ngồi nằm trên giường lớn cao rộng”, mục đích cũng là
gián tiếp giới dâm. Đeo hoa, xoa dầu, biểu diễn nghệ thuật, ngồi tòa
báu, nằm giường lớn, bất luận tự mình làm hay thấy người khác làm, đối
với người tu hành chẳng thích nghi. Đây đều là môi giới phóng túng dâm
dục, cho nên các điều giới ấy vẫn thuộc vào phạm vi giới dâm.
Đến giới thứ 8 là “trì trai” thì không cần phải giải thích nữa. Chính
nhân vì Bát quan giới trai là đặt nặng ở sự giới trừ và tiết chế dâm
dục cùng ăn uống; vì thế trì Bát quan giới trai là gieo trồng công đức
của chánh nhân xuất thế. Người thế tục tại gia muốn gieo trồng công đức
của chánh nhân xuất thế phải thọ trì Bát quan giới trai. Bất luận ông đã
thọ tam quy rồi cũng tốt, thọ ngũ giới rồi cũng tốt, thọ Bồ tát giới
rồi cũng tốt, đều nên thọ trì Bát quan giới trai. Vì Bát quan giới trai
không có xung đột với sự thọ trì tam quy ngũ giới và Bồ tát giới. Đây
chỉ là một ngày một đêm thọ, hôm nay thọ đến sáng hôm sau không còn bị
sự hạn chế của giới trai này nữa. Nếu như lần sau muốn thọ trì phải thọ
giới lại. Đây thật là Ba la đề mộc xoa (giới Biệt giải thoát) hết sức
phương tiện mà công đức rất lớn, không giống như ngũ giới thọ trì suốt
đời và Bồ tát giới thọ trì đến tận đời vị lai.
IV. NỘI DUNG CỦA BÁT QUAN GIỚI TRAI
Nội dung của Bát quan giới trai, đoạn trước đã giới thiệu sơ qua rồi, nay xin giải thích thêm một chút.
Từ giới thứ nhất đến giới thứ năm (trừ giới dâm ra không hoàn toàn
tương đồng với ngũ giới), chúng tôi không giải thích nữa, độc giả nên
xem lại chương thứ nhất của thiên Ngũ giới Thập thiện, giả sử một điều
giới dâm, ở trong đây đã có đề cập đến “Sáu ngày trai của mỗi tháng
không được hành dâm”. Nhưng người chỉ trì ngũ giới mà không trì Bát quan
giới trai, tuy nói 6 ngày trai không được hành dâm, nhưng nếu có hành
chánh dâm của vợ chồng cũng không kể là phạm giới. Trong điều thứ 30 của
khinh cấu tội trong Kinh Phạm Võng Bồ tát Giới cũng có quy định như vầy:
“Vì hàng bạch y làm mai mối cho nam nữ giao hội dâm sắc gây thành ác
nghiệp kiết phược. Sáu ngày trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai
(tháng giêng, tháng năm, tháng chín) trong mỗi năm, làm việc sát sinh,
trộm cướp, phá trai phạm giới , Phật tử này phạm khinh cấu tội. Đây là
nói người thọ Phạm Võng Bồ tát giới rồi cũng phải trong 6 ngày trai của
mỗi tháng và ba tháng trường trai của mỗi năm đều chẳng được có những
hành vi sát sinh, trộm cướp, dâm dục, ăn phi thời. Bằng không thì giống
như người thọ Bát quan giới trai, thành tội phạm giới. Điều này ở trong
Kinh Phạm Võng Giới gọi là Bất kính hảo thời giới, tuy chẳng phạm giới
song cũng chẳng phải là việc tốt. Trong Bát giới, nếu như phạm Bất kính
hảo thời giới thành phạm giới, đây là chỗ bất đồng với ngũ giới.
Đồng thời, giới “không dâm” của Bát giới còn có yêu cầu tiến lên một tầng nữa, như trong Kinh Phật Thuyết Trai nói: Một ngày một đêm gìn giữ tâm như
Chân Nhân (Như Lai), không có ý dâm, chẳng nhớ nghĩ đến việc phòng thất
(ân ái), tu trì phạm hạnh, chẳng làm tà dục, tâm không tham sắc, như
giới thanh tịnh, nhất tâm tu tập”. Điều trọng yếu nhất ở đây là phải
giống như Phật, tuy chỉ một ngày một đêm cũng được hy vọng giữ phạm hạnh
thanh tịnh như vị Tỳ kheo trăm tuổi, thân chẳng phạm dâm hạnh, miệng
chẳng nói lời dâm, tâm chẳng khởi ý dâm. Trong một ngày một đêm này hoàn
toàn phải tự mong sống được với thân tâm ly dục xuất thế. Hễ khởi một
niệm dâm dục hiện tiền, hoặc giả nhớ lại cảnh dâm quá khứ, hoặc giả
tưởng tượng lạc thú dâm dục vị lai đều kể là trai chẳng thanh tịnh. Điều
này so với “Bất kính hảo thời giới” của Bồ tát giới lại nghiêm khắc hơn
nhiều. Nhưng Bồ tát phải trì lục trai, cho nên trong Ưu bà tắc Giới Kinh có quy định trì lục trai giới.
Bây giờ bắt đầu trì giới thứ 6, chúng ta phân ra từng điều để nghiên cứu:
Điều thứ 6: Không đeo tràng hoa thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa biểu diễn các bộ môn và cố đến xem nghe.
Bát quan giới trai đặt nặng ở chỗ dạy người xuất ly thế gian, gieo
trồng chánh nhân xuất thế, vì thế từ trên sự tướng, chúng ta thấy nó
thuộc pháp môn Tiểu thừa, tự cầu giải thoát sinh tử (nhưng nên không
khinh thị Tiểu thừa, vì nếu không có hạnh Tiểu thừa làm nền tảng, hạnh
Đại thừa không làm sao thực hiện). Tự mình không tự chủ được đối với
sinh tử, mà nói:”Ta chẳng vào địa ngục, ai vào địa ngục ?”. Những người
nói như vậy đồng phạm tội đọa địa ngục, chớ chẳng phải thừa nguyện cứu
địa ngục. Phải biết, người có năng lực tự chủ mạnh mẽ mới có được phạm
vi hóa độ sâu rộng. Cho nên cũng không nên nói: “Vì tiếp dẫn chúng sinh,
Bồ tát Nhất sinh Bổ xứ cũng dùng tràng hoa anh lạc để làm trang
nghiêm”. Phải biết, tiếp dẫn chúng sinh là một chuyện, cầu liễu sinh tử
lại là một chuyện.
Đeo vòng hoa là vòng trang sức làm đẹp ở Ấn Độ, dùng hoa thơm kết
thành mão hoa, xỏ thành vòng hoa, dây hoa, hoặc dùng vàng bạc châu báu
kết dính lại, đội lên đầu, đeo trước ngực, mang trên vai cho đến đeo
lòng thòng trên thân hoặc trên hoặc dưới. Như ngày nay nói dây chuyền,
vòng đeo cổ, bông tai, kẹp tóc, đồ trang điểm trên nón, trâm cài tóc,
vòng đeo tay, cà rá, hột xoàn, nhẫn… của người nữ; đồng hồ đeo tay, nhẫn
vàng, vật trang sức đeo trên cổ của người nam, đều đồng một tính chất
với vòng hoa thơm. Vì thế, Nam truyền Tiểu thừa, Tỳ kheo và Sa di không
đeo đồng hồ tay nguyên nhân là do đây. Hiện nay, các nơi theo Phật giáo
Đại thừa, Tỳ kheo đi ra nước ngoài được đón tiếp và được quàng vòng hoa
theo thể thức Hạ Uy Di lên cổ, đây là việc không phù hợp với người xuất
gia. Theo nghĩa rộng, “không đeo tràng hoa thơm” ở đây bao quát cả nghĩa
không mặc y phục hoa lệ cao quý và màu sắc tươi đẹp, điều này cần phải
chú ý. Người xuất gia mặc cà sa (y hoại sắc) là việc của suốt đời. Người
tại gia trong 6 ngày Trai trì Bát quan giới trai cũng nên mặc y phục
mộc mạc. Vào thời Đức Phật, có một bà quyền uy có tiền tài địa vị lớn
lao tên là Tỳ Xá Khư Mẫu. Có một lần bà đi bái kiến Đức Phật, đi đến gần
cửa Tịnh xá Kỳ Viên, bà mới nhớ ra những đồ trang sức trên thân đều là
vòng hoa anh lạc chiếu sáng ngời.Bà biết rằng đi bái kiến Đức Phật không
nên như thế, nhưng trở về nhà cởi đồ trang sức cũng không tiện, bà liền
tùy tiện cởi vòng hoa anh lạc bỏ dưới gốc cây trong tịnh xá, mộc mạc
không trang sức đi bái kiến Đức Phật. Do đây đủ thấy đệ tử vì cung kính
Đức Phật, nên chẳng dám trang sức xinh đẹp đến bái kiến Ngài. Chúng ta
vì liễu thoát sinh tử mà thọ Bát quan giới trai, không nên trang sức đẹp
đẽ vậy.
Dùng dầu thơm xoa thân vốn cũng là tập tục ở Ấn Độ. Xứ Ấn Độ thuộc
miền nhiệt đới, da cần phải luôn luôn trơn ướt, vì thế người có tiền bất
luận là nam hay nữ đều có thói quen xoa dầu. Cho nên xoa dầu cũng là
làm cho thanh khiết. Tỳ kheo và Tỳ kheo ni vốn không được phép xoa dầu,
nhưng khi bệnh Phật cũng cho xoa dầu, điều này thường thấy ở trong luật,
cho nên biết dùng dầu xoa thân là việc bình thường. Nhưng người thế
tục, hơn nữa là người có tiền đều dùng dầu có chất trơn thượng đẳng.
Người đã sống cuộc đời xuất gia chẳng nên dùng chất thơm (hương liệu)
xoa thân. Ngày nay trên thị trường có bán nước hoa, xà bông thơm, phấn
thơm, son thơm, sáp thơm, dầu thơm, ở ngay ngày thọ Bát quan giới trai
tất cả những thứ đó chẳng nên sử dụng (nếu như Tỳ kheo, Tỳ kheo ni dùng
chất thơm xoa thân, ấy là hiện tượng trì giới không thanh tịnh) Hai điểm
kể trên người nam so với người nữ dễ trì hơn. Tâm lý thích đẹp của
người nữ là do bẩm sinh, nhưng chẳng nghe nói:”Người nữ trang điểm cho
đẹp là vì muốn cho người nam yêu mình”. Người nữ làm đẹp dung mạo của
mình là vì cầu sự ái mộ và quan tâm của người nam, trong đó có ý khêu
gợi dẫn dụ dâm dục bên trong, vì thế Đức Phật dạy hàng đệ tử tại gia
trong ngày thọ Bát quan giới trai phải buông bỏ toàn bộ những thứ ấy.
Nếu nói vì lý do giao tế và thù tạc mà không bỏ được, thì ông cứ lựa
ngày không có giao tế và thù tạc mà thọ Bát quan giới trai, chớ không
nên thọ rồi lại phạm, bởi công đức thọ giới đã lớn, mà tội phạm giới còn
lớn hơn.
Vì thế người tại gia ở nước Thái Lan gọi 6 ngày trai là ngày “Phật
nhật thọ bát quan giới trai”. Một ngày một đêm ấy họ chẳng về nhà, ban
đêm quấn y ngủ ở bốn phía Phật điện (xem Thái Tăng An Cư Ký của Pháp sư
Tịnh Hải).
Đối với sự vận dụng chất thơm (hương liệu), trong luật cũng chỉ dạy
bôi ở trong Phật điện, bôi ở trong Tăng phòng, hoặc vì trong phòng có
mùi hôi thúi cũng có thể xông đốt các loại hương thơm. Như bệnh mắt,
bệnh ghẻ, thầy thuốc ra toa bảo phải dùng chất thơm làm thuốc và nếu
chẳng dùng chất thơm thì không trị lành bệnh được thì mới có thể dùng.
Ngày này gần như rất ít dùng chất thơm thoa ghẻ, cho nên cũng không cần
thiết khai giới này.
Ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, nói theo pháp thế gian là
vui chơi, con người đối với sự vui chơi không thể thiếu được. Loài người
từ thời Thượng cổ đã có ca hát và nhảy múa giản đơn. Vì sự vui chơi là
một thứ sản vật làm quân bình sinh hoạt của loài người, cho nên từ xưa
đến nay các dân tộc trên thế giới đều coi trọng sự vui chơi. Nhưng phạm
vi của sự vui chơi rất rộng, có thiện và bất thiện. Vì thế, xã hội hiện
nay cần đề xướng sự vui chơi chính đáng mà hạn chế sự vui chơi không
chính đáng. Sự vui chơi có ích cho thân tâm con người là chính, là
thiện; có hại cho thân tâm con người là tà, là ác. Cho nên cổ Thánh tiên
Hiền ở Trung Quốc phải chế lễ làm nhạc :”Lễ là dưỡng vậy”. Mục đích của
lễ là để bồi dưỡng tánh trung chính, hòa bình cho quốc dân, là vì phát
dương nhân tính, đề cao nhân cách mà thiết lập. ”Nhạc là vui vậy, vui
thì an, an ắt lâu dài”. Mục đích của nhạc là để hỗ trợ đào luyện tính
hòa bình an lạc cho quốc dân, là vì trên dưới hòa kính, lớn nhỏ hòa
thuận, làng xóm hòa thân nên thiết lập. Thật ra hai môn lễ nhạc dùng xen
lẫn nhau mới có thể sinh ra hiệu quả kính thuận, hòa lạc. Có nhạc có lễ
thì tuy nhạc mà không đi vào dâm lọan. Có lễ có nhạc thì tuy lễ mà
không kẹt vào cứng nhắc. Nhân đây, giá trị của sự vui chơi có thể đạt
thành mục đích cải thiện dân tộc. Như thế, tại sao Phật giáo chúng ta
lại dạy người “không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật”?
Lý do là vì hướng về xuất thế. Đã hướng về xuất thế thì không còn tâm
tình gì để hưởng thụ sự vui chơi của thế gian. Thái độ của người xuất
thế không để cho tâm thuận với thế tục hoành hành, bằng không thì cũng
chẳng thành thái độ của người xuất thế. Đã cầu xuất thế, không nên lại
đem lý do rộng độ chúng sinh ra để tùy thuận thế tục. Nếu chưa chứng
nhập Thánh quả, Thánh vị, chỉ khóac lác nói tùy thuận thế tục rộng độ
chúng sinh thì ông sẽ bị thế tục cuốn trôi. Trôi xuôi theo dòng thế tục
đó là sự thật, còn việc rộng độ chúng sinh quyết chắc là khó làm đến. Vì
thế trong Du già Bồ tát giới, Bồ tát vì độ chúng sinh có thể khai mở 7
chi tội, tuy phạm giới mà vẫn có công đức, song văn có quy định rõ: “Bồ
tát xuất gia vì hộ trì Thanh văn khiến cho lời răng dạy của Phật không
bị hoại diệt”. Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Bồ tát Địa thượng, (từ Sơ địa
trở lên) vì độ chúng sinh có thể khai thập ác, tuy phạm thập ác nhưng
vẫn nhiều công đức”. Trong Căn Bản Tạp Sự quyển 38 nói: “Đức Phật vì
muốn độ nhạc thần Càn thác bà Vương Thiện Ái, Ngài cũng đi lên Trời tấu
đàn không hầu lưu ly ngàn dây”. Bát quan giới trai đã là giới xuất thế
(bản chất giống như giới xuất gia). Chúng ta đã chẳng phải là Thánh vị
Bồ tát Địa thượng, vì cầu giải thoát sinh tử, thì ngày trì trai không
ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không hưởng thú vui thanh
sắc, ai nói là không nên?
Đương nhiên, Đức Phật cũng không ngăn cấm sự ca múa và biểu diễn các
môn nghệ thuật của đệ tử tại gia. Vì cúng dường Tam bảo, người thế tục
có thể ca múa để phụng hiến, điều này ở trong Kinh điển Đại thừa, Tiểu
thừa đều có ghi chép. Chỉ lấy sự tán dương công đức Tam bảo làm điều
kiện tiên quyết bằng không thì chẳng được diễn tấu trước Tam bảo. Người
thời này Phật hóa điện ảnh, Phật hóa ca khúc, Phật hóa hý kịch để hoằng
dương Phật pháp, tuy chẳng trái với Phật chế, nhưng người xuất gia quyết
không nên tham dự diễn xuất. Nếu trong tự viện, do người thế tục trình
diễn ca múa thuộc về tán dương công đức Tam bảo và lúc trình diễn dành
riêng cho người xuất gia xem thì Đức Phật cho xem. Nếu đến nơi rạp để
xem ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, đức Phật tuyệt đối ngăn
cấm. Các lý do như sau:
1. Sự ca múa ở rạp hát tốt xấu không đồng, người lấy sự vui chơi làm
thương nghiệp, vì giá vé vào cửa mà diễn xuất theo thị hiếu tình ái
thấp hèn là điều rất bình thường.
2. ÔÛ rạp hát người đến xem gồm có nam nữ lẫn lộn đủ hạng người.
3. Sinh hoạt của người xuất gia phải lấy nhiếp tâm nhàn tịnh làm
chức nghiệp và chí nguyện phải lấy thiền định, tụng kinh, thính pháp làm
việc chính yếu.
4. Người xuất gia phục sức hình dạng khác với người thế tục dễ bị người thế tục chú ý, chê bai.
Với bốn lý do này, người tu hành có nên đi vào rạp hát không? Người
thọ Bát quan giới trai có thể không quan hệ đến điểm thứ tư song rất mật
thiết quan hệ với ba điểm trước. Nhưng tôi xem thấy Pháp sư Tịnh Hải
nói về sinh hoạt của các thầy Tỳ kheo nước Thái Lan, họ có thể xem
truyền hình, có thể nghe ca hát trong máy thâu âm. Căn cứ vào Phật chế,
truyền hình cho họ xem phải có quan hệ đến tiết mục giáo hóa của Phật
giáo, họ nghe ca hát trong máy thâu âm, cũng phải là ca hát để tán tụng
Tam bảo. Nước Thái thật tình như thế nào? Tôi chẳng được biết.
Liên quan đến nội dung của “Ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật”, giới khinh cấu thứ 33 của Phạm Võng Bồ tát Giới nói “Chẳng được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v…cho đến bói xủ”.
Đại sư Ngẫu Ích trong Sa Di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu chú thích rằng:”Xướng khúc ngâm thơ gọi là ca,
tay chân nhảy múa gọi là vũ. Thổi tiêu, đàn cầm, chơi cờ, đánh bạc,
nghề thuốc, nghề bói, xem sao, bắn tên, đua ngựa, đánh kiếm đều gọi là
xướng kỵ (biểu diễn các bộ môn nghệ thuật)”.
Từ đó có thể rõ nội dung của không ca múa và biểu diễn các bộ môn
nghệ thuật là bao quát, tất cả ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật
chẳng cố đến xem nghe là nói chỉ cần không có ý đi xem, đi nghe; nếu
như ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật đi ngang qua trước mắt thì
không phạm giới. Nhưng chẳng được nhân vì ngẫu nhiên ca múa và biểu
diễn các bộ môn nghệ thuật đi ngang qua trước mắt lại dừng chân xem nghe
hoặc đi theo xem nghe. Ở đây phải chú ý là cũng không được đi xem cảnh
náo nhiệt ở đầu đường hoặc trong hẻm.
Điều thứ 7: Không được ngồi nằm trên giường lớn cao rộng.
Chữ giường (sàng) dùng trong luật, người Trung Quốc có thể không hiểu
rõ. Vì giường của người Trung Quốc là chuyên dùng để nằm ngủ, còn ở Tây
Vực (Ấn Độ) nghĩa của chữ giường rất rộng, dùng để ngồi cũng gọi là
giường. Giường có lớn, nhỏ, cao, thấp, bất đồng, có cái cao lớn đến nỗi
phải nhờ người khiêng, có cái thấp nhỏ chỉ cầm dùng một tay cũng dời đi
chỗ khác được. Do đó, giường có thể hai người cho đến vài người dùng
ngồi nằm, có giường chỉ có ngồi mà không nằm được. Cho nên chữ sàng
(giường) và chữ tòa trong kinh Phật thường dùng chung, như nói thân làm
sàng tòa khắp đại thiên thế giới. Trong kinh thường nói Đức Phật “trải
tòa ngồi” nhưng cũng có chỗ nói “trải tòa nằm” như trong Tỳ Nại Da quyển
4: “Bây giờ Đức Thế Tôn xếp làm tư cái y Bích ưu đa tăng (y thất điều)
trải trên giường (tòa), dùng y Tăng già lê (y cửu) gối đầu, nằm nghiêng
bên hông phải trên tòa sư tử, hai chân duỗi thẳng chồng lên nhau”. Lại
như “tòa sàng đại điển” của Đạt Lai Lạt ma và Ban Thiền Lạt ma ở Tây
Tạng thật ra cũng là “thăng tòa đại điển”, gọi là “kim sàng” cũng tức là
bảo tòa.
Sau khi rõ được nghĩa chữ sàng, chúng ta có thể giải thích là “giường lớn cao rộng”. Đại sư Ngẫu Ích trong Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu chú
thích rằng: “Giường chân cao 6 thước 4 tấc (tàu), lúc ngồi chân phải
chấm đất, quá lượng này gọi là cao. Chỉ có thể cho thân nghiêng qua
nghiêng lại, nếu quá lượng này gọi là rộng. Đã cao lại rộng gọi là lớn”.
Đầy là căn cứ điều 84 của Pháp Đơn Tuỳ trong Tứ Phần Tỳ kheo giới mà ra.
Chỉ có hưởng thụ vật chất đạm bạc mới có thể đề cao lãnh vực tinh
thần. Chỉ có sinh hoạt vật chất giản đơn mới có thể dũng mãnh tinh tấn
nơi đạo nghiệp. Đã hướng về cảnh giới xuất thế, tự nên buông bỏ sự tham
đắm của cảm quan. Vật dụng nuôi thân càng tốt đẹp, chúng ta càng bị nó
chi phối, thậm chí còn tha thiết yêu thích giữ gìn nó hơn đạo tâm của
mình. Vật dụng nuôi thân càng cao quý, tâm chúng ta càng vì nó mà sinh
ra kiêu căn ngã mạn. Một khi tâm kiêu căn ngã mạn xuất hiện, đạo tâm
chạy mất không còn tung tích. Vì thế, Ngài Quốc sư Ngộ Đạt đời Đường,
nhân thọ toà báu trầm hương, một niệm tâm danh lợi nổi dậy mà phải chịu
quả báo ghẻ mặt người.
Lại nói, trên giường chạm trổ sơn vẽ, màn trướng lụa là, gối thêu,
mền gấm… đều kể là cao quý. Nều lại thêm giường rộng rãi cao lớn, thử
hỏi thứ đó đối với người tu hành có thích hợp không? Một người ngủ trên
chiếc giường vừa đẹp vừa lớn như thế thì có những phản ứng tâm lý nào,
cũng có thể tự suy nghĩ biết.
Người tại gia ngày thọ Bát quan giới trai, nam nữ vợ chồng phải ngủ
riêng giường, riêng phòng. Nếu trong nhà chỉ có cái giường đôi to lớn,
không có giường nhỏ cho một người nằm, phải sắm cái giường nhỏ một người
nằm để chuẩn bị cho 6 ngày trai.
Năm chúng xuất gia đối với điều này còn có quy định chặt chẽ hơn, ở đây không nêu ra.
Điều 8: Không ăn phi thời.
Đoạn trước đã nói một điều quá giữa ngọ không ăn rất quan trọng trong
Bát quan giới trai và cũng là điều chủ yếu. Thọ Bát quan giới trai mà
chẳng trì “không ăn phi thời” thì chẳng thể vì người thế tục làm Bát
giới A xà lê (sư). Người chẳng suốt đời trì “không ăn phi thời” thì
không được làm Bát giới A xà lê truyền Bát quan giới trai cho người thế
tục, và cũng chẳng được làm Hoà thượng Sa di giới cho đến Hoà thượng Tỳ
kheo giới. Sa di chẳng trì “không ăn phi thời” chẳng được thọ Tỳ kheo
giới, đây là điều rất nghiêm chính.
Ở Ấn Độ vào thời đức Phật tại thế, ngoại đạo Bà la môn đều trì “không ăn phi thời”.
Xá Lợi Phất vấn, Đức Phật nói các Bà la môn không ăn phi thời, ngoại
đạo Phạm Chí cũng không tà thực. Sau giữa ngọ không ăn, thân tâm đều
được nhẹ nhàng sảng khoái, tạp tưởng vọng niệm cũng được giảm bớt.
Không ăn phi thời là nói qua sau giữa ngày, trừ uống nước ra, không
được ăn vật gì nữa. Người thế tục không quen sau giữa ngày không ăn, đến
chiều tối bị đói khó chịu mà thêm phiền não, thậm chí thành ra bệnh đau
bao tử. Về điểm này tôi xin khuyên: Nếu vạn bất đắc dĩ, bạn có thể ăn
đường cho đỡ đói, có thể uống nước trái cây, nhưng trước tiên phải lóng
trong hoặc lược cho sạch cặn, không được ăn cái của trái cây. Nếu bạn
chịu đựng nổi, một tháng chỉ có sáu ngày, vì sao chẳng dũng cảm chịu
đựng một phen! Như nói dinh dưởng chẳng đủ, ấy là quá lo xa, quân nhân
Trung Quốc lúc ở Đại Lục mỗi ngày chỉ ăn hai bữa, cũng chưa thấy ai chết
đói. Nói đến tình hình và lý do của vấn đề này một cách rõ ràng kỹ
lưỡng, tôi có viết một thiên “Quy chế ăn uống của Phật giáo” trong quyển
Phật giáo Chế Độ và Sinh hoạt (từ trang 106-150) độc giả có thể tham
khảo.