Chương 4: Truyền Thọ Và Điều Kiện Của Bồ Tát Giới
I. KHỞI NGUYÊN CỦA GIỚI PHÁP BỒ TÁT
Kinh Phạm Võng là nhân Phật vì Diệu Hải Vương và một ngàn người Vương
tử thọ giới pháp Bồ Tát mà ra. Đây là pháp thọ giới Bồ Tát trước nhất.
Chúng ta ở nhân gian có giới bổn này là do Bồ Tát Xá Na, sau khi tu hành
giới này rồi thành Phật ở trong thế giới Liên Hoa Đài Tạng; vì muốn lợi
lạc tất cả chúng sanh nên chính mình đem giới bổn tụng ra truyền thọ
cho Hóa thân Phật. Đức Thế Tôn Thích Ca xuất hiện ở địa cầu này là một
trong thiên bá ức Hóa thân Phật của Xá Na, do Hóa thân Phật tùy theo cơ
nghi chúng sinh ở thế giới này phương tiện tụng ra.
Tại Ấn Độ, Bồ tát bắt đầu thọ giới từ lúc nào và cách thọ như thế
nào, không làm sao tra cứu được! Theo truyền thuyết, Đức Thích Ca truyền
cho Ngài Di Lặc, Ngài Di Lặc truyền xuống cho hơn 20 vị Bồ tát lần lượt
truyền nhau, rồi do pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc. Pháp truyền
thọ Bồ tát giới ở Trung Quốc gồm có hai dòng chính:
- Dòng thứ nhất là Phạm Võng Bồ Tát Giới của Ngài Cưu Ma La Thập, song chỉ tụng ra hai quyền (?),đương
thời hơn 800 người như Sa môn Huệ Dung, ĐạoTường v.v… thỉnh pháp sư La
Thập truyền thọ Bồ tát giới. Kinh này là Kinh sau rốt trong số các Kinh
luật do Ngài La Thập dịch.Ngài tụng kinh này ra, Đạo Dung v.v…bút thọ,
không giống như sự phiên dịch các kinh luận khác của Ngài là:”Ngài tay
cầm quyển chữ Phạn, miệng dịch kinh văn”.Chính vì không có bổn chữ Phạn
mà chỉ do Ngài La Thập tụng, để tự bút thọ ,nên khiến cho người đời nghi
là kinh ngụy tạo. Kinh này sau khi tụng ra chưa kịp tu đính .nhuận sắc
và hoằng dương,thì Ngài La Thập qua đời.Toàn bộ nghi thức truyền thọ Bồ
Tát giới đương thời đã sớm thất lạc, cho nên cũng rất khó khảo cứu tân
tường.
- Về Đại Bổn của Kinh Phạm Võng chưa được truyền đến Trung
Quốc,trải qua nhiều đời có tương truyền một sự tích.Theo truyền
thuyết,lúc Ngài Tam Tạng Chân Đế từ Ấn Độ sang Trung Quốc có mang theo
bổn Phạn văn của một bộ Đại Bổn Phạm Võng,nhưng thuyền đi trên biển Nam
Hải chở nặng quá muốn chìm, Ngài ném bớt đồ trên thuyền xuống mà thuyền
vẫn còn muốn chìm,sau cùng Ngài phải ném bộ Phạm Võng Bồ Tát Luật Bổn
thuyền mới nổi lên và tiếp tục hành trình. Nhân đây Ngài than: “Đất Hán
không có duyên với Bồ Tát giới luật, thật đáng buồn!”. Đây cũng là một
vấn đề của Phạm Võng Giới Bổn, thực hư như thế nào không dược biết!
- N hưng pháp truyền thọ của Phạm Võng Bồ Tát giới dường như một
vị truyền cho một vị, vì thế chỉ nói Đức Thích Ca truyền A Dật Đa (Di
Lặc), rồi truyền xuống hơn 20 vị Bồ tát lần lượt truyền nhau, rồi do
Pháp sư La Thập truyền sang Trung Quốc.Điều này so với việc 800 người
như Huệ Dung, Đạo Tường v.v…đồng thời hướng về Pháp sư La Thập cầu thọ
Bồ Tát Giới dường như là bất đồng. Nhưng cũng không thể đoán định. Nói
là A Dật Đa truyền lại hơn 20 vị Bồ Tát rồi do Pháp sư La Thập truyền
sang Trung Quốc, cũng có thể là do tương truyền hơn 20 đời.
Dòng thứ hai là Bồ Tát Giới Bổn kinh của Tam Tạng Đàm Vô Sấm
truyền dịch, đây cũng rút ra từ bộ Du già. Nhân vì nội dung của Bồ Tát
Giới Bổn kinh này, như Đại sư Pháp Tạng nói: “Nay riêng lưu hành Địa Trì Giới Bổn, ở phần đầu có đặt bài kệ quy mạng”.
Ở đây cũng có một sự tích, trong Bồ Tát Giới Sớ của Đại sư Pháp
Tạng có thuật như vầy: “Lúc Tam Tạng Đàm Vô Sấm ở Tây Lương Châu, có sa
môn Pháp Tấn v.v… đến cầu Đàm Vô Sấm truyền thọ Bồ Tát giới và thỉnh
phiên dịch Giới Bổn…, Ngài nói: “Người nước này (Trung Quốc) tánh nhiều
giảo hoạt, lại không tiết tháo, đâu có đủ sức làm pháp khí của đạo Bồ
Tát”, bèn không truyền giới. Pháp Tấn v.v… cầu xin mãi không được nên ở
trước tượng Phật lập thệ, khổ nhọc cầu giới, bảy ngày vừa mãn, mong thấy
Đức Di Lặc đích thân truyền giới và giới bổn, Pháp Tấn đều tụng được
,sau khi thức dậy liền đến gặp Đàm Vô Sấm. Thấy tướng của Pháp Tấn lạ,
Đàm Vô Sấm khen: “Đất Hán cũng có người”, rồi dịch Giới Bổn một quyển
cùng với Giới Bổn của Pháp Tấn tụng trong mộng,văn nghĩa đồng nhau”.
Nhưng trong truyện Đàm Vô Sấm của Lương Cao Tăng truyện quyển 2 lại
thuật hơi khác, nay sao lục lại như sau để cùng tham khảo: “Ban đầu Sấm ở
Cô Tàng, có Sa môn Trương Dịch, Đạo Tấn muốn thọ Bồ tát giới. Sấm nói:
“Hãy sám hối!”. Tấn chí thành sám hối 7 ngày 7 đêm,ngày thứ 8 đến Sấm
cầu thọ giới, Sấm bèn thình lình nổi giận,Tấn bèn suy nghĩ: “ Đó là
nghiệp chướng của mình chưa tiêu”. Tấn gắng sức 3 năm tu chuyên tu thiền
định, mộng thấy Đức Phật Thích Ca và các Đại sĩ truyền Bồ Tát giới cho
mình,đêm ấy cùng với hơn 10 người cảm mộng như Tấn thấy. Tấn đến chỗ Sấm
để nói, còn cách nhau mười bước, Sấm trông thấy, kinh ngạc, đứng dậy
nói: “Lành thay, Lành thay! Đã cảm giới rồi, ta sẽ làm chứng cho ông”.
Rồi Ngài ở trước tượng Phật nói giới tướng cho Tấn nghe:
Lương Cao Tăng Truyện cùng với Đại sư Pháp Tạng thuật có sai khác,
nhưng có một sự thật rõ ràng là Đàm Vô Sấm làm chứng sư cho Sa môn đất
Hán thọ giới Bồ tát.
Dòng pháp của Đàm Vô Sấm về sau lưu hành ở Trung Quốc rất rộng.Vì
thế, Lương Cao Tăng Truyện quyển 2 nói tiếp: “Lúc ấy, Sa môn Đạo Lãng
nổi tiếng ở Quan Tây, ngay đêm Tấn cảm giới, Lãng cũng chung mộng, nhưng
tự ty giới lập nên cầu làm pháp đệ.Thuở đó hơn 1000 người từ Pháp Tấn
thọ giới.Truyền thọ pháp này cho đến ngày nay đều bắt đầu từ Đàm Vô
Sám:.
Nhân nay, trong Bồ tát Giới Sớ của đại sư Trí Giả nêu ra pháp thọ giới là Phạm Võng, Địa Trì, Cao Xương, Anh Lạc, Tân Soạn, Chế Chỉ. Trong 6 bổn pháp thọ giới này có 2 bổn quan hệ với Tam Tạng Đàm Vô Sấm, một là Địa Trì Bổn Thọ Giới Pháp, hai là Cao Xương Bổn Thọ Giới Pháp. Địa Trì Bổn là do Đàm
Vô Sấm dịch, Cao Xương Bổn là do Ngài Tăng Tuân người Cao Xương của
phái Đạo Tấn làm ra. Nam triều, cuối niên hiệu Nguyên Gia đời Tống Văn
Đế có Pháp sư Huyền Sướng tuyên pháp truyền thọ Bồ tát giới đại khái
tương tự với Cao Xương Bổn, gọi là Sướng Pháp Sư Bổn.Do đó đủ thấy, dòng Bồ Tát Giới do Ngài Tam Tạng Đàm Vô Sấm truyền ở Trung Quốc có lực lượng rất lớn mạnh.
Nói đến Kinh Địa Trì của Ngài Đàm Vô Sấm dịch khiến chúng ta tìm đến
vấn đề lai lịch của Kinh Địa Trì và giới pháp của kinh này. Theo Giới Sớ
của Đại sư Trí Giả thuật như sau: “Tương truyền Kinh Địa Trì là do Ngài
Di Lặc thuyết,nguyên bổn là Phật Đăng Minh thuyết, Bồ Tát Liên Hoa Tạng
thọ trì lần lượt thuyết hóa hơn 30 vị Bồ Tát, sau có Bồ Tát Y Ba Lặc
ứng tích truyền hóa sang cõi này,nhưng Kinh Địa Trì do Ngài Đàm Vô Sấm
dịch, nên nghi Ngài tức là Y Ba Lặc, trong phẩm thứ tư của Kinh Địa trì
này có nói về thọ giới”.
Điều này cùng với đoạn trước nói Du Già Giới Bổn là do Bồ Tát Di Lặc
biên tập những điều giới Phật nói tản mác trong kinh mà thành, dường như
có thêm bớt. Nhưng Du Già và Địa Trì đồng xuất phát từ một nguồn, nên
vấn đề Đàm Vô Sấm là vị Cao tăng đầu tiên tại Trung Quốc truyền thọ một
hệ Bồ tát giới pháp của Địa Trì, và Bồ tát giới của hệ Đàm Vô Sấm tại
Trung Quốc hình thành lực lượng rất lớn mạnh cũng là một sự thật, không
cần phải bàn cãi.
Tóm lại Phạm Võng Bồ tát giới của Ngài La Thập truyền và Địa Trì Bồ
tát giới do Ngài Đàm Vô Sấm truyền, chẳng những là hai dòng lớn của
Trung Quốc mà ở tại Ấn Độ cũng là hai dòng lớn. Phạm Võng là từ Ngài Di
Lặc truyền xuống hai mươi vị Bồ tát và đến Trung Quốc, Địa Trì là từ Bồ
tát Liên Hoa Tạng và đến Trung Quốc. Đây không phải chứng minh ngay từ
đầu là hai dòng lớn ư? Nhưng đến đời sau ở Trung Quốc pháp thọ giới của
Bồ tát giới lại do ba hệ: Anh Lạc, Phạm Võng, Du Già hội quy tổng hợp thành một pháp thọ giới toàn bích, như cuối đời nhà Minh có “Bồ tát Giới Truyền Giới Chánh Phạm” do luật sư Độc Thể Kiến Nguyệt biên tập, là một bộ sách góp nhặt từ các bộ sách khác mà thành.
II. ĐIỀU KIỆN CẦU THỌ BỒ TÁT GIỚI
Vì Bồ tát giới có sự bất đồng của đốn lập và tiệm thứ, lại có sự bất
đồng của tại gia và xuất gia, nên đối với điều kiện cầu thọ Bồ tát giới
cũng đều riêng có sự bất đồng của khoan dung và nghiêm khắc. Nhưng cần
phải có đủ điều kiện chủ yếu đó là:
1. Phải có cái thiện của sự cảm giới.
2. Phải không có cái ác của chướng giới.
Điều kiện chủ yếu nhất: “Phải có cái thiện của sự cảm giới”.
Cái thiện của sự cảm giới phân làm hai thứ là Bồ tát chủng tánh và Phát Bồ đề nguyện.
1. Bồ tát chủng tánh: Chỉ cho căn tánh đại thừa, như Kinh Địa Trì nói: “Trụ vô chủng tánh Bổ đặc
già la (sát thủ thú-hữu tình chúng sanh), vì không chủng tánh tuy có
phát tâm và gia hạnh nhưng nhất định không thể viên mãn Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Đó là nói: người không có căn tánh Đại thừa tuy có phát tâm
cầu thọ Bồ tát giới nhưng không thể thực hành đúng như thật đạo Bồ tát.
Bỏ mình vì người, quên mình mà lợi người, là tinh thần Bồ tát của căn
tánh Bồ tát, nếu như không có tinh thần này thì không làm sao đến mục
đích thành Phật.
2. Phát Bồ đề nguyện, hoặc gọi là phát Bồ đề tâm.
Như ngày nay ở trong cửa Phật, bất luận bảo người làm việc gì, đều
phải nói: “Xin ông phát tâm”. Đây tuy không phải kể là sai, nhưng lại
đem hai chữ phát tâm lạm dụng quá độ, lại dùng hai chữ “ phát tâm” không
phân biệt thiện ác, nguyện làm thiện cố nhiên là phát tâm, muốn tạo ác
cũng kể là phát tâm. Kỳ thật, bản ý của phát Bồ đề nguyện là chỉ cho ý
chí nỗ lực tinh tấn làm thiện, bỏ ác. Nếu có căn tánh Đại thừa này mà
không có chí nguyện kiên cường để thành tựu nó cho được viên mãn, thì dù
có căn tánh Đại thừa thì cũng là vô dụng. Giống như có một khúc gỗ tốt,
có thể làm thành đồ dùng quý giá, nhưng nếu như không gia công chế tác
thì khúc gỗ tốt cũng chỉ là khúc gỗ mà thôi. Vì thế trong Kinh Địa Trì
nói: “Nếu không phát tâm, không tu gia hạnh, tuy có kham nhậm nhưng
không chóng chứng Vô thượng Bồ đề”.
Căn cứ vào Bồ tát Giới Bổn Sớ của pháp sư Nghĩa Tịch nói, nội dung
cái thiện của sự cảm giới còn có một quy định là phải đầy đủ ba duyên
mới thành, tức là: “Thắng chủng tánh, Thắng hạnh nguyện và Thắng hạnh
tâm. Thắng chủng tánh đồng với Bồ tát chủng tánh. Thắng hạnh nguyện đồng
với phát Bồ đề nguyện. Thắng hạnh tâm gồm có 10 thứ yêu cầu:
1. Sinh thâm tâm đối với Vô thượng Bồ đề.
2. Suốt đời lìa ác tri thức, gần thiện tri thức.
3. Suốt đời hối quá, tùy hỷ khuyến thỉnh (Phật pháp), hồi hướng (chúng sinh) tăng trưởng Phật đạo.
4. Suốt đời đem hết năng lực cúng dường Tam bảo.
5. Suốt đời đọc tụng biên chép kinh điển Phương Đẳng vì người giải nói.
6. Tùy sức cứu hộ cho đến một niệm sinh lòng xót thương đối với người cô độc, nghèo khổ, hoặc phạm giới luật.
7. Suốt đời bỏ sự biếng nhác, phát khởi tinh tấn siêng cầu Phật đạo.
8. Lúc ở trong trần lao ngũ dục sinh ra phiền não hay tìm cách chế phục.
9. Nếu lúc đối với Vô thường Bồ đề sinh tâm lui sụt, sinh tâm tham đắm pháp Tiểu thừa, phải tìm cách diệt trừ.
10. Xả bỏ tất cả sỡ hữu, không tiếc thân mạng.
Ba duyên: Thắng tánh, Thắng nguyện, Thắng tâm, phối hợp với kham
nhậm, gia hạnh, đại Bồ đề, tức gọi là Bồ tát tam trì. Nay đem nội dung
cái thiện của cảm giới liệt vào biểu đồ như sau:
Thông thường lúc cầu giới, vị pháp sư chỉ hỏi hai câu: “Ông là Bồ tát
chăng? Ông đã phát Bồ đề tâm chưa?”. Đây cũng là thủ tục phải trải qua
để hỏi về Bồ tát chủng tánh và phát Bồ đề nguyện, còn 10 thứ yêu cầu của
Thắng hạnh tâm thì rất ít hỏi đến. Nhưng lý ra người cầu thọ Bồ tát
giới phải tự thệ đầy đủ 10 thứ yêu cầu của Thắng hạnh tâm này.
Chính vì trước khi thọ giới phải có cái thiện của cảm giới, mà thật
ra chúng sanh từng học Phật thì không thể biết cái gì gọi là cái thiện
của cảm giới. Nhưng theo Phạm Võng và Anh Lạc nói: “Chúng sinh nào hiểu
được lời của Pháp sư đều thọ đắc giới”. Vì thế điều giới khinh thứ 45
phải nói: “Nếu Phật tử thường khởi tâm đại từ bi, hoặc vào tất cả thành
ấp, nhà cửa, thấy tất cả chúng sanh, phải tâm nghĩ, miệng nói: “Các
ngươi là súc sanh phát Bồ đề tâm”. Bồ tát vào tát cả chỗ núi rừng, sông
ngòi, vườn rừng đều khiến cho tất cả chúng sinh phát Bồ đề tâm”. Đây là
công đức giáo hóa khiến cho tất cả chúng sinh biết cái thiện của cảm
giới. Kinh Anh Lạc quyển hạ cũng nói: “ Nếu có người muốn đến thọ giới
Bồ tát, Pháp sư trước tiên vì họ mà giảng giải, đọc tụng, khiến cho
người ấy tâm khai ý giải, sinh lòng ưa thích, sau đó mới truyền thọ”.
Căn cứ vào đó, trước khi truyền giới Bồ tát, Pháp sư giảng giải Bồ
tát giới. Bằng không cái thiện của cảm giới chưa biết rõ, chưa biết đầy
đủ, làm sao mà đắc giới? Pháp sư truyền giới ngày nay chỉ mê tín tấn
hương (đốt sẹo trên thân thể) cho đó là cái thiện của cảm giới, thật bất
hạnh thay!
“Cái thiện của cảm giới” như nhuộm vải, trước hết phải có tính chất
có thể nhuộm (căn tánh) và cái yêu cầu cần phải nhuộm (phát tâm) mới có
thể đem màu sắc nhuộm lên vải được.
Điều kiện chủ yếu thứ hai: “Phải không có cái ác của chướng giới”.
Những gì là cái ác của chướng giớ? Các chướng đó là: phiền não
chướng, nghiệp chướng, báo chướng. Đây là ba chướng ngại lớn ngăn cản
chúng sinh liễu sinh thoát tử, hành Bồ tát đạo
Trong pháp thọ giới của Bồ tát giới, chỉ hỏi thất nghịch (so với ngũ
nghịch chướng Tỳ kheo giới thêm hai tội thất nghịch: giết Hòa thượng và A
xà lê). Thất nghịch thuộc về nghiệp chướng, hễ phạm một tội nào trong
tội thất nghịch đều không thọ Bồ tát giới, đây là cái ác chủ yếu của
chướng giới.
Kỳ thật trong ba chướng, chướng nào cũng đều thành giới chướng của Bồ
tát. Nay đem tình hình của ba chướng giới căn cứ theo Giới Sớ của Ngài
Nghĩa Tịch soạn thuật, phân biệt giới thiệu như sau:
1. Phiền não chướng có 4 thứ:
a/ Phóng dật: phóng dật thành tánh, tạm thời khó sửa đổi, vì thế không được thọ giới.
b/ Tự không thiện xảo và theo bạn ác, vốn không tưởng đến thọ giới.
c/ Bị người khác ràng buộc: người bị bậc tôn trưởng, chồng, chủ nhân,
vua, giặc, oan gia cầu thúc, thân tâm chẳng được tự do, vì thế chẳng
được thọ giới.
d/ Sinh hoạt cùng khốn: luôn luôn bị sự sinh hoạt chi phối lo lắng, vì thế không rảnh rang nghĩ đến thọ giới.
2. Nghiệp chướng có 2 thứ:
a/ Thất nghịch: là thất giá. Trong Kinh Phạm Võng nói: làm thân Phật
ra máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá Yết ma
tăng và Chuyển pháp luân tăng, giết Thánh nhân (Tiểu thừa La hán, Đại
thừa Địa thượng Bồ tát).
b/ Thập trọng: là 10 điều thứ giới trọng của Anh Lạc và Phạm Võng
3. Báo chướng có 4 thứ:
a/ Địa ngục.
b/ Ngạ quỷ.
c/ Trong loài súc sinh không hiểu được lời của Pháp sư.
d/ Bắc câu lô châu và người bẩm tánh hạ liệt không tin nhân quả, ý chí bạc nhược.
Về ý nghĩa của ba chướng này cần phải nói thêm: phiền não chướng tuy
có bốn thứ chướng giá nạn, Pháp sư Nghĩa Tịch đối với điều này giải
thích như vầy: “vì không quyết định, nên chẳng phải nhu thất giá quyết
định không đắc giới”, cũng là nói phiền não chướng có thể chướng giới
nhưng chẳng phải tuyệt đối chướng giới.
Tội thất nghịch trong nghiệp chướng là không sám hối, người phạm tội
thất nghịch bất luận sám hối hay không, hiện đời đều không được đắc
giới. Như đều giới khinh thứ 41 của Phạm Võng nói: nếu hiện thân có thất
giá (nghịch), Sư chẳng nên cho thọ giới. Điều giới khinh thứ 40 cũng
nói: Bồ tát Pháp sư không được cho người phạm tội thất nghịch hiện đời
này thọ giới”. Lại nói: “ Nếu đủ thất nghịch thì hiện đời không đắc
giới”.
Trên thực tế, tội thất nghịch không phải ai ai đều có thể phạm đến
được. Sinh sau Phật diệt độ không làm thân Phật chảy máu được. Trừ người
xuất gia đã thọ giới Sa di trở lên thì không có Hòa thượng để giết
(nhưng ngoại đạo Ấn Độ cũng có Hòa thượng, Hòa thượng ni). Người tục
chưa quy y Phật giáo, không có A xà lê để giết. Người tại gia không đủ
tư cách phá tăng. Trừ Tỳ kheo ra không có người có thể phá Chuyển pháp
luân tăng, Tỳ kheo ni chỉ có thể phá Yết ma tăng chứ không thể phá
Chuyển pháp luân tăng. Tăng có cơ hội giết Thánh nhân không phải là dễ.
Thời nay, trọng yếu hơn hết là hai tội nghịch: giết cha, giết mẹ: người
xuất gia thì có thêm giết Hòa thượng và giết A xà lê thành bốn tội
nghịch là thuộc chủ yếu. Nhưng vì tuân theo quy chế, lúc hỏi vẫn hỏi cả
thất nghịch.
Đến như phạm 10 giới trọng, được hay không được thọ giới lại, căn cứ vào Giới Sớ của pháp sư Nghĩa Tịch có bốn thuyết bất đồng:
1. Bốn điều giới trước trong 10 giới trọng là căn bản tánh tội, hễ
phá thì đồng như tội thất nghịch dù sám hối hay không sám hối, hiện đời
cũng không đắc giới. Còn 6 điều giới sau, nếu có phạm mà sám thì không
chướng giới.
2. Nhưng trong điều giới khinh thứ 40 của Pham Võng nói: Nếu người
phạm thập trọng phải dạy người ấy sám hối cho đến một năm, cần phải thấy
hảo tướng. Hảo tướng như Phật đến xoa đầu, thấy ánh sáng, thấy bông
hoa, các thứ tướng lạ, thì được diệt tội. Sau khi diệt tội được thọ giới
lại.
3. Phạm 4 giới trọng trước, sám hối cần phải thấy hảo tướng, thấy hảo
tướng thì được thọ giới lại, không thấy hảo tướng không được thọ giới
lại. Phạm 6 giới trọng sau, dù không sám hối vẫn có thể thọ lại và đắc
giới lại.
4. Phạm 10 giới trọng không sám hối đều là giới chướng, sám hối đều được thọ giới lại.
Nhưng, trong Kinh Anh Lạc lại nói: “10 giới trọng, có phạm không
có hối, nhưng được thọ giới lại”. Đây là nói: phạm 10 giới trọng là
không có pháp hối quá, nhưng phạm giới mất giới vẫn có thể sau khi mất
giới xin thọ giới lại.
Báo chướng trong pháp thọ giới cũng chưa liệt vào “Giá nạn”. Đồng
thời, Kinh Anh Lạc nói: “Lục đạo chúng sinh thọ đắc giới, chỉ hiểu lời
nói của Pháp sư liền đắc giới, không mất”. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Hễ
nghe được ý tứ của ngữ ngôn của Pháp sư thuyết pháp, tất cả chúng sinh
đều được thọ đắc giới. Trên thực tế, vấn đề “Hiểu lời của Pháp sư” cũng
khó đối với nhiều chúng sinh. Chúng sinh do nghiệp báo bị đọa trong địa
ngục, ngạ quỷ, chịu khổ không ngừng, khó có cơ hội và năng lực nghe
pháp. Đến như súc sinh lợi căn hiểu được tiếng nói của Pháp sư không
phải không có, nhưng rất ít có. Người Bắc câu lô châu vốn không tin Phật
pháp. Nhân loại trong thế giới này của chúng ta cũng có nhiều người
không dám tin Phật hoặc không muốn tin Phật. Đây thuộc về quả báo chướng
ngại đến cùng một lượt với đời sống. Nhưng trong súc sinh có chúng sinh
hiểu lời nói, trong địa ngục có chúng sinh tội nhẹ, trong ngạ quỷ cũng
có chúng sinh có phước. Những chúng sinh này đều có thể thọ Bồ tát giới,
vì thế báo chướng đối với việc thọ Bồ tát giới mà nói, cũng không phải
quyết định không được đắc giới. Nhưng chúng ta phải biết, đây là một môn
của giới chướng.
Cái ác của chướng giới như bệnh khuẩn có sức kháng dược tánh cực
mạnh, nếu loại khuẩn bệnh này còn ở trong thân thể con người thì uống
thuốc bổ đều không công hiệu và không làm sao bổ ích được. Tính chất của
tội thất nghịch khó trị liệu, đại khái có thể so sánh với vi khuẩn ung
thư trong giới y học ngày nay.
Nay đem các điều kiện chủ yếu của sự cầu thọ Bồ tát giới liệt vào đồ biểu như sau:
III. VẤN ĐỀ THẦY TRÒ CỦA BỒ TÁT GIỚI
Nhân vì Bồ tát giới vốn có nhiều thứ, nên vấn đề thầy trò cũng đều
riêng có bất đồng. Trong đó, yêu cầu của Kinh Anh Lạc là rộng rãi hơn
hết: “Về vấn đề này, thì vợ chồng, lục thân đều làm thầy truyền giới cho
nhau”. Đó nói là: phàm là người đã thọ Bồ tát giới rồi, bất luận tăng
tục, giả sử vợ chồng và lục thân tại gia cũng có thể truyền thọ giới
pháp Bồ tát cho nhau. Nhưng theo sự giải thích của Pháp sư Nghĩa Tịch:
“Giới tại gia có thể như Kinh, năm chúng xuất gia cần phải đủ đức (mới
được truyền thọ)”.
Yêu cầu của Ưu bà tắc Giới Kinh rất nghiêm khắc: mãn 6 tháng gần gũi
bậc trí giả xuất gia, bậc trí giả lại phải hết lòng xem xét bốn oai nghi
(đi, đứng, ngồi, nằm) của người này, nếu biết người này làm được như
lời dạy…, qua 6 tháng xong, hòa hợp tăng chúng, đủ 20 người tác bạch yết
ma”, mới có thể truyền Đại thừa ngũ giới và Bồ tát giới 6 trọng 28
khinh.
Theo pháp truyền giới của Phạm Võng do Ngài La Thập truyền, nói: Thầy phải là Bồ tát xuất gia đầy đủ năm đức:
1. Kiên trì tịnh giới
2. Mười năm giới lạp
3. Khéo hiểu luật tạng
4. Có công phu tu thiền
5. Trí tuệ sâu, biện tài vô ngại
Lại nói còn có 4 đức:
1. Đồng pháp Bồ tát: biểu thị không phải là người học Tiểu thừa.
2. Đã phát đại nguyện: biểu thị không phải là người chưa phát Bồ đề tâm.
3. Có trí lực: biểu thị đối với văn nghĩa của Kinh luật hiểu được, trì được.
4. Nơi ngữ biểu đạt nghĩa, có khả năng truyền dạy: biểu thị có khả
năng dùng ngôn ngữ biện luận rõ ràng, thuyết pháp dạy người khiến cho mở
thông tâm trí.
Trong Kinh Địa Trì nói: “Cần phải giới đức nghiêm minh, khéo hiểu tam
tạng, có thể làm cho người phát khởi tâm kính tin mới có thể làm thầy
cho người cầu thọ Bồ tát giới”.
Trong Thiện Giới Kinh lại đòi hỏi kỹ lưỡng hơn: nếu người bất tín,
chẳng nên theo thọ giới, người bỏn xẻn tham lam, người không biết đủ,
phá giới, ô giới, không kính trọng giới, người thích tham sân, người
không nhẫn nhục, người không có khả năng ngăn tội lỗi của người khác,
người biếng nhác, giải đãi, ham hưởng thụ thú vui thế gian, thích nói
chuyện đời, cho đến không có một niệm nghĩ đến Tam bảo, nghi ngờ, ngu si
tăm tối không đọc tụng được Bồ tát pháp tạng (Kinh tạng), Bồ tát ma di
(Luận tạng) và sinh phỉ báng, người như thế không nên theo thọ giới”.
Do đây đủ thấy muốn làm một Giới sư Bồ tát giới thật không phải dễ.
Đến như thái độ của một vị Bồ tát Pháp sư, trong Kinh Phạm Võng còn có yêu cầu:
1. Điều giới khinh thứ 22: “ Nếu pháp sư tự ỷ mình hiểu Kinh luật,
Đại thừa học giới, kết bạn cùng với quốc vương, thái tử, bá quan, mà tân
học Bồ tát đến cầu hỏi hoặc nghe Kinh, nghĩa luật, lại vì tâm khinh
ghét, tâm ngã mạn mà không giải đáp, đây là phạm khinh cấu tội”.
2. Điều giới khinh thứ 40: “Lúc cho người thọ giới không được lựa
chọn, tất cả quốc vương, vương tử, đại thần, bá quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, tín nam, tín nữ, dâm nam, dâm nữ , mười tám Phạm thiên, thiên tử sáu
cõi Dục, người không căn (không có sinh thực khí), huỳnh môn, nô tỳ,
tất cả quỷ thần đều được thọ giới”
3. Điều giới khinh thứ 41: “Bậc thầy giáo giới phải ở trong pháp Bồ
tát giới này mỗi mỗi đều hiểu rõ. Nếu không hiểu Kinh luật Đại thừa hoặc
khinh hoặc trọng, tưởng phải chẳng phải, không hiểu đệ nhất nghĩa đế,
tập chủng tánh, trưởng dưởng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh,
chánh pháp tánh. Trong đó, bao nhiêu quán hạnh xuất nhập, 10 chi thiền,
tất cả hành pháp mỗi mỗi không hiểu ý nghĩa trong các pháp này. Vì lợi
dưỡng, vì danh tiếng, ác cầu, đa cầu, vì tham lợi, tham nhiều đệ tử mà
dối hiện thông hiểu tất cả Kinh luật, và mong muốn cúng dường đó là tự
dối mình cũng là gạt người khác, cố truyền giới cho người, phạm khinh
cấu tội”.
4. Điều giới khinh thứ 46: “Pháp sư Tỳ kheo không được đứng thuyết
pháp cho tứ chúng nghe. Lúc thuyết pháp, Pháp sư phải ngồi tòa cao,
hương hoa cúng dường, tứ chúng nghe pháp phải ngồi dưới thấp.
Trong Kinh Địa Trì và Kinh Anh Lạc đều nói chỉ có một vị Giới sư.
Trong điều giới khinh thứ 41 của Phạm Võng lại nói: “Thấy người muốn thọ
giới phải thỉnh hai sư; Hòa thượng, A xà lê. Hai sư phải hỏi…” đủ thấy
phải có hai vị pháp sư, nhưng trong pháp thọ giới của Phạm Võng cũng chỉ
có một sư. Trong Tỳ Ni Hậu Tập Vấn Biện của Đại sư Ngẫu Ích có nói như
vầy: “Nếu theo kinh văn dường như cần phải hai sư. Nhưng Anh lạc, Địa
Trì đều chỉ một sư. Lại, pháp thọ giới của Phạm võng truyền từ Ngài La
Thập ghi trong Nghĩa Sớ cũng chỉ có một sư. Chỗ nói thỉnh hai sư, là
thỉnh Phật, Bồ tát. Chỗ nói: phải cúng dường hai sư đúng như pháp và
giết hai sư hành tội nghịch cũng có thể là chỉ hai sư của giới Tỳ kheo”.
Ý kiến này của Đại sự Ngẫu Ích là căn cứ vào Giới Sớ của Đại sư Trí
Giả. Nhưng Đại sư Trí Giả đối với hai vấn đề này còn có nghi vấn, Ngài
nói: “Văn lại nói: hai sư phải nói: Ông có phạm thất giá không? Dường
như không phải chỉ Phật”. Điều này Đại sư Ngẫu Ích chưa có giải nói và
cho đến ngày nay cũng chưa được giải rõ!
Xét theo nội dung của pháp thọ giới Bồ tát, vị Hòa thượng của Bồ tát
giới là Phật Bổn Sư trên địa cầu này, sau Phật Thích Ca, trước Phật Di
Lặc thì Thích Ca là Phật Bổn sư của chúng Tỳ kheo, vì thế Thích Ca là
đắc giới Hòa thượng của Bồ tát giới. Bồ tát Văn Thù là Yết ma sư, Bồ tát
Di Lặc là giáo thọ sư, tất cả Như lai làm tôn chứng, tất cả Bồ tát Ma
ha tát là đồng học. Vị Bồ tát pháp sư chỉ phụ trách giáo giới, khải phát
và ở bên cạnh làm chứng, vì thế trong điều khinh thứ 41 của Phạm Võng
gọi Bồ tát pháp sư là “ Trí giả”. Ngài Đàm Vô Sấm truyền Bồ tát giới cho
Đạo Tấn, cũng chỉ là “làm chứng” mà thội.
Còn “hai sư” của “hai sư phải hỏi” làm sao giải thích? Tôi nghĩ chỉ
có một cách giải thích là do sự lầm lẫn trong quá trình sao chép truyền
bá tạo thành, hoặc có thể vì chép Kinh đem hai chữ “Pháp sư” viết lầm ra
hai sư. Trừ cách giải thích này ra, không có cách giải thích hợp lý về ý
nghĩa của hai chữ “Hai sư” này muốn chỉ.
Nhưng đối với hai chữ hai sư này, các nhà chú giải cũng có nhiều ý kiến khác nhau:
1. Đại sư Pháp Tạng nói: “Ở đây có 2 nghĩa: Một là thỉnh hai sư thọ
Bồ tát giới như thọ Sa di thập giới. Hai là thỉnh Bổn Sư Thích Ca Phật
làm Hòa thượng, Sư đích thân truyền giới làm A xà lê”. Ngài Pháp Tạng
tiếp theo nêu luận chứng: “Thiện Giới Kinh nói: Sư có 2 loại: một là
không thể thấy được, tức là Phật, Bồ tát tăng; hai là có thể thấy được,
đó là Giới sư; từ hai sư này đắc Bồ tát giới”. Phổ Hiền Quán Kinh thỉnh
ba sư là ở trong Sư không thể thấy mà thỉnh, trong Du già thỉnh một sư
là chỉ cho sư có thể thấy.
2. Pháp sư Nghĩa Tịch nói: Làm Thọ giới sư cho người phải chánh chế
Hòa thượng, vì trước sau thân giáo là Hòa thượng… Lại phải có một người
làm Yết ma sư, còn dạy thỉnh thêm một người là A xà lê … nghĩa là đồng
giới pháp thọ Sa di của Thanh Văn.
3. Trong Thái Hiền Cổ Tích Ký nói: Phải dạy thỉnh hai sư, Hòa thượng
là gốc của đắc giới, A xà lê là nhân duyên của đắc giới. Phổ Hiền Quán
Kinh nói: thỉnh ba sư là vì cần kính trọng. Du già chỉ thỉnh có một sư,
vì một người có khả năng làm được nhiều việc.
Trên thực tế, ý kiến của các vị Cổ Đức đều có chỗ đáng quý. Nhưng đối
với câu: “Hai sư phải hỏi” đều được giải thích được ổn thỏa. Bất luận
là giới sư có thể thấy hay không thể thấy, thọ giới quyết không thể chỉ
cho Phật, Bồ tát không thế thấy, cũng không thể liên tưởng đến Thân giáo
Hòa thượng và Yết ma A xà lê. Riêng nói với Bồ tát, trừ Giáo giới sư là
người hiện tiền lúc thọ giới, Hòa thượng Phật và Bồ tát A xà lê không
thể thấy, nhưng cũng không cần Tỳ kheo Pháp sư thay thế Phật và Bồ tát
làm Hòa thượng và A xà lê, và cũng không thay thế được.