Thiên thứ sáu: Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu
Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni
LỜI MỞ ĐẦU
Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới là đại giới trọng yếu trong Phật
giới, vì thế cũng là một thứ Phật giới phong phú nhất. Nhìn từ góc độ
trụ thế của Phật pháp, Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới trọng yếu hơn Bồ
tát giới. Thế nên trong Đại Tạng Kinh Hán dịch có Quảng bản Đại Luật của Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới
đến bốn năm trăm quyển, đó là chưa kể đến phần chú sớ, trứ thuật của
Lịch đại Tổ sư. Hai năm đầu tiên tôi duyệt Luật tạng ở Đài Nam, tôi cũng
đặt trọng tâm chú ý vào trong Quảng Luật của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni; nhưng
trong quyển sách này chỉ giới thiệu sơ lược về Tỳ kheo, Tỳ kheo ni
giới. Nhân vì: Thứ nhất, đây là một quyển sách có tính cách phổ thông,
độc giả phần đông là người tại gia, người tục vị tất tuyệt đối không
được xem luật Tỳ kheo và Tỳ kheo ni; nhưng cũng không cần phải giới
thiệu việc xuất gia một cách kỹ càng cho người thế tục. Thứ hai, nói một
cách nghiêm chỉnh, trong hoàn cảnh Trung Quốc hiện đại, Tỳ kheo và Tỳ
kheo ni đúng như luật đắc giới và đúng như luật trì giới, đó chẳng phải
việc dễ dàng. Thật tâm mà nói, chính tôi cũng chưa thật xứng đáng là một
“Tỳ kheo” của Tỳ kheo giới, thậm chí tôi cũng không phải là một Sa di
đúng như pháp, tôi chỉ là một Ưu bà tắc hiện tướng xuất gia mà thôi, dẫu
cho muốn thực hành đúng như luật cũng khó khăn biết bao! Vì thế, nội
dung của thiên này tôi cũng không cổ động độc giả chưa đầy đủ Tỳ kheo,
Tỳ kheo ni giới đọc. Đương nhiên, tôi cũng không kịch liệt phản đối.
Đối với sự nghiên cứu Luật Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tôi gần như dốc hết
toàn bộ tinh lực trong mấy năm, đó là vì tôi muốn từ trong luật tìm ra
nguyên nhân suy đồi của Phật giáo Trung Quốc và nhờ đó mà tìm ra phương
án chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Vì thế tôi vừa đọc vừa ghi, vừa làm
bút ký, khiến cho mỗi một vấn đề quy nạp thành một trung tâm làm thành
một thiên tâm đắc và thêm vào đó ý kiến của mình. Phân tích ý kiến những
vấn đề ấy cũng chính là làm mới lạ những vấn đề đã “chết” từ nhiều thế
kỷ thành ra vấn đề hiện thực của chúng ta. Tôi thử làm sống lại luật
điển, không vì cố chấp vào cổ xưa mà không biết canh tân. Bằng không,
cũng không cần tôi phải tốn hao giấy mực, vì những trứ tác về Luật xưa
nay đã có nhiều người làm rồi. Tuy tôi có cách nhìn của riêng tôi, nhưng
vẫn không trái với luật điển, và có thể nói mọi điều ghi ra đều có căn
cứ, độc giả có thể tra cứu đối chiếu. Độc giả đọc thiên này rồi có thể
tham duyệt hai quyển “Phật Giáo Chế Độ và Sinh Hoạt” và “Phật Giáo Thật Dụng Pháp “cũng của tôi chuyên giới thiệu về các vấn đề trọng yếu của Luật chế.
Chương 1
KHỞI NGUYÊN CỦA
TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI
I. VÌ SAO GỌI LÀ TỲ KHEO, TỲ KHEO NI?
Tỳ kheo là dịch âm của Phạn văn Bhiksu, ý nghĩa chủ yếu là “Khất sĩ”.
Trên theo “Như Lai” khất cầu Phật pháp để dưỡng dục huệ mạng của pháp
thân, dưới hướng về người tục khất cầu cơm áo để nuôi sống sinh mạng của
sắc thân, vì thế gọi là Khất sĩ. Ngoài ra còn có các nghĩa: Bố ma, Phá
ác, Tịnh mạng, Tịnh trì giới. Nhân vì xuất gia học Phật làm Tỳ kheo là
muốn liễu thoát sinh tử, không còn bị sự khuấy nhiễu và chi phối của ma
nghiệp cùng ma cảnh; ma vương bớt đi một ma dân để lợi dụng và chi phối;
cho nên ma cảm thấy sợ hãi vì thế gọi là Bố ma. Tỳ kheo trì giới hay
phá được phiền não ác nghiệp, vì thế gọi là Phá ác. Tỳ kheo không làm
các nghề buôn bán, trồng trọt, thợ thuyền để mưu sinh, mà chỉ thanh tịnh
khất thực để tự sống, vì thế gọi là Tịnh mạng. Tỳ kheo đem cả hình
tướng, thọ mạng của suốt cuộc đời mình kiên trì giới luật thanh tịnh, vì
thế gọi là Tịnh trì giới.
Đồng âm dịch khác của Tỳ kheo còn có Tỳ khưu, Bật sô, Bí sô. Trong
chú sớ của Cổ đức Trung Quốc có người cho rằng Bí sô là tên của một lọai
cỏ, căn cứ vào truyền thuyết, loại cỏ này có năm đức tính đăc biệt:
1. Thể tánh mềm mại.
2. Bò ra bên ngoài.
3. Hương thơm bay xa.
4. Trị được đau nhức.
5. Không tránh ánh sáng mặt trời.
Vì thế, lấy làm tên gọi của người xuất gia. Kỳ thật, theo sự nghiên
cứu của các học giả thời gần đây, sự giải thích này chỉ là theo tưởng
tượng, không chính xác. Bí sô là cựu dịch, Tỳ kheo là tân dịch, từ
nguyên văn chữ Phạn dịch ra, chứ không có căn cứ vào tên lọai cỏ nào cả.
Lại có người nói “Đức tỷ Khổng Khưu” nên gọi là “Tỳ khưu”, lại càng
không đúng.
Tỳ kheo ni là dịch âm của Phạn văn Bhiksuni ý nghĩa của nó cùng Tỳ
kheo tương đồng, chỉ dùng âm “ni” biểu thị nữ tánh. Tỳ kheo ni cũng có
nghĩa là nữ Tỳ kheo hoặc nữ khất sĩ. Trên phương diện dịch âm khác còn
có Tỳ khưu ni, Bật sô ni, Bí sô ni.
Trong Phật giáo nói ba đời chư Phật đều có 7 hoặc 9 chúng đệ tử tăng
tục nam nữ. Tỳ kheo đứng đầu 7 chúng. Tỳ kheo ni kế Tỳ kheo, đây là hai
bậc chủ lực cốt cán trong Phật giáo đồ. Thời Đức Phật tại thế, hoạt động
của Phật giáo lấy Đức Phật làm trung tâm. Sau khi Phật diệt độ, hoạt
động của Phật giáo lấy người xuất gia làm trung tâm. Đệ tử tại gia lấy
Tăng đoàn xuất gia làm trung tâm. Nếu như không có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,
sự trụ thế của Phật giáo sẽ mất đi giá trị của tôn giáo, mà chỉ có giá
trị của triết học hoặc học thuyết văn hóa.
II. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI
Trên thế giới, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về sự xuất hiện của
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni là do hơn 2.500 năm về trước, trong nhân loại
xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là Đức Phật Thích Ca Thế Tôn cứu người,
cứu đời và cứu tất cả chúng sinh.
Phật giáo có những danh từ dùng theo ngữ vựng sẵn có của Ấn Độ với
nội dung mới mẻ, như tên gọi của bốn chúng đệ tử, có điều dường như lấy
từ một phương thức giống nhau mà ra. Tỷ như trong Ngũ Phần Luật có 11
thứ Tỳ kheo; trong đó, Khất Tỳ kheo không phải là Tỳ kheo đúng như pháp
của Phật giáo. Nhưng chúng ta có thể khẳng định nghĩa bao hàm của 7
chúng Phật tử hoàn toàn bất đồng với đồ chúng ngoại đạo. Chính ngoại đạo
cũng chưa có thể đem thứ bậc của đồ chúng họ phân ra được kỹ lưỡng và
cẩn thận như thế.
Căn cứ trong Ngũ Phần Luật quyển 15 nói: Sau khi Phật thành đạo, đầu
tiên ngài nhận sự cúng dường của hai người lái buôn tên Ly Vị và Ba Ly,
rồi dạy hai người này thọ nhị tự quy y: Quy y Phật, quy y Pháp. Phật lại
cho con gái của Bà la môn Tư Na là nàng Tu Xà Đà thọ nhị tự quy y. Nhân
vì lúc ấy Đức Phật chưa độ 5 thầy Tỳ kheo nên chưa có Tăng bảo để quy
y. Đủ thấy sự xuất hiện của Tỳ kheo sau Ưu bà tắc và Ưu bà di. Nhưng căn
cứ vào sự ghi chép của Tứ Phần Luật Thọ Giới Kiền Độ, 7 chúng đệ tử
Phật lấy Tỳ kheo làm thượng thủ, cũng vì Tỳ kheo xuất hiện rất sớm. Đó
là lần chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Dã. Trong lần đầu tiên
truyền thánh giáo, Phật độ 5 người thị tùng theo Ngài xuất gia ở buổi
đầu. Năm người thị tùng này do vua Tịnh Phạn phái đến vừa làm bạn với
Thái tử vừa phục vụ Thái tử tu hành. Sau vì Thái tử bỏ sự khổ hạnh cực
đoan, làm cho năm người thị tùng hiểu lầm cho rằng Thái tử thoái đạo
tâm, vì thế họ khinh thị và ly khai Thái tử. Sau khi Thái tử thành đạo,
Ngài nhớ lại năm Tỳ kheo này làm việc khổ nhọc, không kể lạnh nóng hầu
hạ cúng dường, nên trước tiên độ năm người này. Đó là những Tỳ kheo được
độ sớm nhất, cũng là năm vị Tỳ kheo có danh tiếng hơn hết.
Tỳ kheo ni trong 7 chúng Phật tử địa vị chỉ dưới Tỳ kheo, nhưng Tỳ
kheo ni lại xuất hiện rất muộn. Ngày Đức Phật thành đạo cũng là ngày đản
sanh của Tôn giả A Nan. Người nữ được xuất gia trong Phật giáo là do sự
đồng tình của Tôn giả A Nan và Ngài đứng ra thỉnh cầu Đức Phật chấp
nhận. Lúc ấy A Nan đã xuất gia thành Tỳ kheo đang làm thị giả theo bên
cạnh Đức Phật. Sau khi thành đạo, Đức Phật thuyết pháp 49 năm, lúc Phật
sắp nhập diệt, trong Căn Bản Tạp Sự quyển 37, A Nan cũng tự nói:“Tôi
theo Phật hơn 20 năm”. Kinh Trường A Hàm quyển 5 cũng nói: “Sau khi
Phật thành đạo 25 năm, Ngài A Nan mới làm thị giả”. Do đây suy ra dưới
tòa của Đức Phật có sự hoạt động của Tỳ kheo ni ít nhất cũng trễ hơn sự
xuất hiện của Tỳ kheo hơn 20 năm. Nhưng trong Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng
Nhất ghi: “Sau khi Như Lai thành đạo 14 năm. Di mẫu Ái Đạo cầu xuất
gia”. Rốt cuộc như thế nào, còn đợi khảo chứng. Nhưng không có gì phải
nghi, là bà Đại Ái Đạo, Di mẫu của Đức Phật là một vị đại Tỳ kheo ni sớm
nhất và cũng nổi tiếng hơn hết. Căn cứ theo kinh nói: “Đương thời theo
bà Đại Ái Đạo xuất gia một lượt có đến 500 người nữ thuộc giai cấp quý
tộc dòng họ Thích”.
II. TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI ĐẦU TIÊN Ở TRUNG QUỐC
Người Trung Quốc biết có Phật giáo, các sử gia tin rằng bắt đầu từ
vua Minh Đế đời Đông Hán niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 8 (65 TL). Trong
200 năm đầu, công tác truyền giáo đã phát triển nhanh chóng và phổ cập
khắp nhân dân, giáo sĩ truyền giới hầu hết là Phạn Tăng từ Tây Vức
sang.Sau khi người Trung Quốc tin Phật rồi, tuy cũng có ghi chép về sự
truyền giới và thọ giới. Nhưng người Trung Quốc thành Tỳ kheo chính thức
đúng như luật là vào đời Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250
TL), do sau khi Ngài Đàm Ma Ca La từ Trung Thiên Trúc đến Lạc Dương của
Trung Quốc kiến lập pháp Yết ma thọ giới.
Trung Quốc có Tỳ kheo ni là vào đời Lưu Tống niên hiệu Gia Nguyên năm
thứ 7 (430 TL), có Sa môn của nước Kế Tân tên Cầu Na Bạt Ma đến Dương
Châu. Lại, vào niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 10 có Tăng Già Bạt Ma đến
Dương Châu, đương thời có hai Tỳ kheo ni người nước Sư Tử ( Tích Lan)
trước sau đến, từ đó bắt đầu kiến lập luật thống của Ni giới Trung Quốc.
Đủ thấy Tỳ kheo ni của Trung Quốc xuất hiện trễ hơn Tỳ kheo 180 năm của
lịch sử. Lúc ấy có hai bộ Tăng để truyền thọ Tỳ kheo ni giới hay không
cũng rất khó suy định.
Những tư liệu kể trên rút ra từ Hành Sự Sao của Luật sư Đạo Tuyên.
Căn cứ vào sự nghiên cứu gần đây của Pháp sư Trúc Ma nói: “Tại Trung
Quốc, người nữ học Phật xuất gia rất sớm, chiếu theo bốn quyển Tỳ kheo
ni Truyện của Pháp sư Bảo Sướng đời Lương, trong ấy biên chép từ đời Tấn
đến đời Lương có 74 ni được đưa vào truyện mà Thích Tịnh Kiểm là một Tỳ
kheo ni đầu tiên ở Trung Quốc”. (Hải Triều Âm quyển 43, tháng 10).
Chúng ta xem trong Tỳ kheo ni Truyện thấy Tỳ kheo ni Tịnh Kiểm vào niên hiệu Kiến
Hưng đời Tấn Mẫn Đế (313-316), nhân vào trong một ngôi chùa ở cửa Tây
cung thành nghe Sa môn Phát Thỉ giảng kinh rồi phát tâm xuất gia.
Nhưng không lý tưởng cho lắm, vì vị Tỳ kheo ni đầu tiên của Trung
Quốc trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ Tỳ kheo ni giới. Tịnh Kiểm trước
thọ thập giới nơi Sa môn Trí Sơn ở Tây thành; sau đó, vào niên hiệu
Thăng Bình nguyên niên đời Đông Tấn Mục Đế (357 TL): “Đi thuyền đến đất
Tứ, bốn người là Tịnh Kiểm…đồng đăng đàn theo Đại Tăng để thọ Cụ túc
giới”. Thời đại này so với Hành Sự Sao ghi chép sớm hơn 76 năm. Tịnh Kiểm phát tâm xuất gia, 40 năm sau mới thọ Cụ túc giới, đủ thấy sự khó khăn của việc cầu giới.
Nếu từ trong Cao Tăng Truyện tìm căn cứ lịch sử Cao Tăng Trung Quốc lại sớm hơn 70 năm. Vì trong Lương Cao Tăng Truyện ghi vị Sa môn đầu tiên của Trung Quốc là
Nghiêm Phật Điều. Trong Lương Cao Tăng Truyện quyển 1 nói: “Lúc ấy lại
có Ưu bà tắc An Huyền, người nước An Tức”, “Cũng vào cuối đời Hán Linh
Đế du lịch Lạc Dương”, “An Huyền và Sa môn Nghiêm Phật Điều cùng dịch
Kinh Pháp Cảnh. An Huyền miệng dịch Phạn văn, Phật Điều bút thọ”, “Phật
Điều vốn là người quê ở Lâm Hoài”.
Theo đoạn sử này chúng ta thấy Nghiêm Phật Điều là người Trung Quốc
quê ở Lâm Hoài, nay thuộc Tây Bắc huyện Hu Di thuộc tỉnh An Huy. Vào
cuối niên hiệu Hán Linh Đế, Phật Điều cùng với một cư sĩ tên An Huyền
của nước An Tức cùng dịch Kinh Pháp Cảnh, thân phận của Nghiêm Phật Điều
lúc ấy là Sa môn. Cuối niên hiệu Hán Linh Đế là năm 189 TL, vì thế so
với Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL) sớm hơn 70 năm.
Nghiêm Phật Điều dù có sử khảo chứng là một vị Cao tăng đầu tiên của
Trung Quốc, nhưng Phật Điều có phải là vị Tỳ kheo đầu tiên của Trung
Quốc hay không, điều đó không được biết. Nhân vì Lương Cao Tăng Truyện
khi đề cập đến Nghiêm Phật Điều vài câu trong truyện Chi Lâu Ca Sấm, chỉ
nói Phật Điều là Sa môn, chưa nói có phải là Tỳ kheo hay không.