Chương 3: Sa Di NươngTheo Thầy Và Sa Di Xuất Gia
I. NGƯỜI NÀO CÓ THỂ LÀM THẦY CỦA SA DI?
Tại Trung Quốc, Sa di là sản vật của các ngôi chùa tư do con cháu
truyền nhau từ đời này sang đời khác. Sa di, cũng chỉ có đương gia trụ
trì của chùa tư mới đủ tư cách thế độ. Trong đại tòng lâm của thập
phương đạo tràng, thà rằng thâu nhận Tỳ kheo giả mạo chưa đủ 20 tuổi thọ
Tỳ kheo giới, chứ chẳng dung nạp Sa di nhỏ tuổi, để đề phòng nạn phe
đảng đấu tranh.
Trong Tăng đoàn của Phật chế, người làm thầy thế độ Sa di không có
đặc quyền về giai cấp. Sa di trong Tăng đoàn, bất luận nơi nào cũng đều
được vui vẻ tiếp nhận, không có chỗ gọi là chùa tư của con cháu truyền
nhau từ đời này sang đời khác, cũng không phân biệt là của tòng lâm hay
của thập phương đạo tràng. Phàm là đạo tràng của Phật giáo đều là thập
phương thường trụ, người xuất gia đến một đạo tràng bất luận là lớn hay
nhỏ, không có lý nào bị xem như người ngoài. Trụ ở chỗ nào thì có nghĩa
vụ hộ trì đạo tràng chỗ đó. Sa di đi theo thầy thế độ, nhưng khi vào trụ
ở một đạo tràng nào, ngoài việc phục tùng và hầu hạ vị thầy thế độ của
mình còn phải chịu sự sai khiến và phân phối công tác của thầy Tỳ kheo
chấp sự đạo tràng. Vì thế Sa di theo thầy đến một đạo tràng nào trụ,
cũng tức là Sa di của đạo tràng đó. Trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại
thế, chỗ nào cũng đều có sự hiện hữu và hoạt động của Sa di, thậm chí ở
trong Tăng đoàn không thể không có Sa di, nhân vì có những việc Tỳ kheo
không được làm, Sa di có thể thay làm.
Vì tính cách trọng yếu của Sa di trong Tăng đoàn, nên chẳng phải vì họ tuổi nhỏ mà không được vui vẻ tiếp nhận.
Trên phương tiện tu chứng, Sa di cũng có thể tu chứng như Tỳ kheo,
nghĩa là dù tuổi tác nhỏ nhưng cũng có thể chứng Tứ quả Sa môn. Vì thế,
Đức Phật cũng khai thị mọi người chẳng nên khinh thị người xuất gia nhỏ
tuổi là muốn mọi người phải tôn trọng người xuất gia tuổi nhỏ. Vì thế,
cấp bậc của Sa di ở trong chúng xuất gia tuy nhỏ, cũng không bị sự kỳ
thị của người lớn.
Lợi dưỡng trong Tăng đoàn, Sa di dường như được hưởng thụ quyền lợi
ngang với Tỳ kheo, tỷ như trong Thập Tụng Luật quyển 27 nói: “Sa di hoặc
đứng hoặc ngồi, theo thứ tự được đàn việt bố thí nhiều ít, nên thuộc về
Sa di”. Lại nói: “Các đàn việt khi cho không phân biệt, chia làm bốn
phần, phần thứ tư cho Sa di”. Lại nói: “An cư phát y có phần cho Sa di,
vật cần dùng tuỳ thân của Tỳ kheo cũng có phần cho Sa di; Nhân duyên y
có phần cho Sa di, Phi thời y cũng có phần cho Sa di”.
Người độ Sa di xuất gia tuy không có đặc quyền giai cấp, nhưng có sự hạn chế trên tư cách. Kinh Đại Tỳ kheo Tam Thiên Oai Nghi nói: “Tỳ kheo giới đủ 10 năm mới được độ người, nếu chẳng biết ngũ pháp thì suốt đời chẳng được độ người”. Ngũ pháp là:
1. Thông hiểu sự lợi ích rộng của hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh trọng đáng phạm của đệ tử.
3. Đệ tử ở phương xa đủ sức khiến đệ tử quay về.
4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác.
5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc được như cha nuôi con.
Lại nói: “Nếu người chẳng biết năm việc ấy thì suốt đời không được độ
người. Nếu độ người đắc tội Đột kiết la”. Lại nói: “Tỳ kheo muốn độ Sa
di phải có đủ năm việc:
1. Phải biết 4 bộ A Hàm.
2. Phải biết giới.
3. Phải biết kinh.
4. Phải có huệ.
5. Phải có đức”.
Lại nói: “Có năm điều:
1. Phải trì giới.
2. Phải không phạm giới.
3. Phải nhẫn nhục.
4. Phải hiểu được kinh.
5. Phải tự giữ tất cả”.
Nhân vì Hòa thượng thập giới của Sa di là thầy thế độ. Nếu như thầy
thế độ chưa hoàn tục, chưa tử vong, cũng chưa đi phương xa, Hòa thượng
truyền Cụ túc giới của Tỳ kheo cũng là thầy thế độ, vì tư cách thế độ Sa
di cũng phải đồng với tư cách của vị vì người làm Hòa thượng Tỳ kheo
giới. Trong Tăng Kỳ Luật quyển 28, có quy định 10 việc độ người giữa
thầy trò: “Phật nói, từ nay có 10 pháp thành tựu mới cho độ người xuất
gia thọ Cụ túc giới:
1. Trì giới
2. Học rộng A tỳ đàm (Luận)
3. Học rộng Tỳ ni (Luật)
4. Học giới
5. Học định
6. Học huệ
7. Có thể xuất tội và khiến cho người xuất tội
8. Có thể săn sóc bệnh và sai người săn sóc bệnh.
9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi.
10. Đủ 10 tuổi hạ”
Lại nói: “Ít nhất phải đủ 10 năm Tỳ kheo giới, và biết hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni mới được độ người xuất gia”.
Thiện Kiến Luật nói: “Nếu chẳng biết Luật, chỉ biết Tu đa la (Kinh), A tỳ đàm (Luận) thì chẳng được độ Sa di”
Tổng hợp 3 bản luật đã nêu ở trên về những điều kiện cần phải có của
thầy độ trò, có thể đưa đến kết luận: Vì người làm thầy độ Sa di, tốt
hơn hết là đủ 10 đức như trong Tăng Kỳ Luật nói. Nếu không được như vậy,
ít nhất cũng phải đủ hai điều kiện:
1. Tỳ kheo giới lạp phải đủ 10 năm.
2. Thông hiểu hai bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không đủ tư cách thế độ Sa di,
nguyên nhân là chính mình chưa đủ 10 hạ rất khó thông suốt luật nghi.
Nếu không thông hiểu hành trì tác pháp của luật nghi trong cuộc sống
hằng ngày qua trì phạm khai giá, cấp bậc khinh trọng, thì lấy gì để răn
dạy đệ tử? Điều này ở trong luật có tỷ dụ chính mình chưa rời vú mẹ làm
sao có thể cho người khác bú?
Tỳ kheo cũng chỉ có thể thế độ Sa di, không được thế độ Sa di ni, vì
chính Đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Phật từng
đích thân độ nhiều Tỳ kheo, và cũng độ hai người Sa di là Nan Đề và Da
Xá nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng (Luận Tát Bà Đa, quyển 2);
điều này trong luật có ghi. Ni chúng đầu tiên là do Bát Kính pháp mà
xuất gia, về sau do ni chúng thế độ ni chúng. Vì thế trong văn Sa di ni
giới có nói: “Tự chẳng phải Thánh Bồ tát, A la hán chẳng nên độ ni”.
Người nữ có thể ở trong Phật pháp xuất gia, song vì phòng ngừa sự dần
dần ái nhiễm, ngăn dứt tiếng chê bai, nên chẳng cho Tỳ kheo thế độ người
nữ xuất gia. Tỳ kheo cũng chẳng được làm Hòa thượng của Tỳ kheo ni, chỉ
có thể làm Yết ma A xà lê, Giáo thọ A xà lê của Ni chúng.
Sa di ni phải do Tỳ kheo ni thế độ, tư cách phải có của Tỳ kheo ni ấy
đại khái cũng đồng như Tỳ kheo độ Sa di. Chỗ bất đồng là Tỳ kheo ni
phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới cho độ người xuất gia.
II. QUY CỦ THẾ ĐỘ SA DI
Không luận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, trừ những tư cách nói trên cần phải
đầy đủ, còn phải cầu được sự đồng ý của đại chúng trong Tăng đoàn, vì
thế trong luật có một thứ Yết ma xin độ Sa di (Sa di ni). Nếu muốn độ
người xuất gia, trước tiên phải cầu xin trong Tăng đoàn, nếu như đại
chúng trong Tăng đoàn thấy rằng người này đã có đủ 10 hạ, đã có năng lực
răn dạy đệ tử, đã có đủ sức lo những nhu cầu cơm áo cho đệ tử, bèn chấp
nhận. Bằng không thì không chấp nhận, không cho được độ người xuất gia.
Nếu như đại chúng trong tăng đoàn chưa có thể tập họp lại một chỗ, Tỳ
kheo (hoặc Tỳ kheo ni) độ người phải đi từng phòng bạch cho đại chúng
đều biết, được sự đồng ý của đại chúng rồi, sau đó mới được thế độ cho
người.
Ở đây có 2 lý do:
1. Đã từng có Tỳ kheo tự mình không đủ tư cách làm thầy độ người mà
làm thầy độ người, sau khi độ người chẳng thể răn dạy đúng như pháp,
không đủ sức cung cấp nhu cầu cơm áo đúng như pháp, khiến cho người
ngoài chê bai, vì thế cần phải được sự đồng ý của đại chúng và do đại
chúng đánh giá tư cách của ông thầy độ người.
2. Đã từng có Tỳ kheo độ một đứa bé xuất gia mà chưa được sự đồng ý
của cha mẹ đứa bé, cũng chưa được sự chấp nhận của đại chúng trong Tăng
đoàn, cha mẹ của đứa bé vào tự viện hỏi, các Tỳ kheo khác đều không biết
sự việc nên nói chưa thấy đứa bé này. Thật ra, cha mẹ đứa bé đã phát
giác ra con mình cạo tóc xuất gia rồi, do đó chê trách các thầy Tỳ kheo
là người có đạo mà lại vọng ngữ. Vì thế Đức Phật quy định muốn độ người
xuất gia, trước tiên cần phải được Tăng đoàn chấp nhận.
Số người được độ xuất gia cũng có hạn chế. Trong Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 có quy định như vầy: “Đệ tử thọ
Tỳ kheo Cụ túc giới rồi, trong 12 tháng phải dạy cho người đệ tử ấy tất
cả pháp của một Tỳ kheo, rồi sau đó mới được cho một đệ tử khác thọ Cụ
túc giới, nếu chưa đủ 12 tháng chẳng được cho thọ giới. Sa di thọ đại
giới rồi, sau đó mới được nhận một Sa di khác”. Đây là nói khi đệ tử thứ
nhất thọ Tỳ kheo giới, trong 12 tháng không được độ Sa di xuất gia,
phải sau 12 tháng của người Sa di thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, mới được độ
người Sa di thứ hai. Cũng trong quyển 8 của Kinh này nói: “Sa di ni thọ
giới Thức xoa ma na ni, trong 2 năm, không được độ một Sa di ni khác.
Sau khi Thức xoa ma ni thọ Cụ túc (Tỳ kheo ni) giới rồi mới được độ Sa
di ni khác. Tỳ kheo ni cũng phải như Đại Tăng (Tỳ kheo), trong 12 tháng
phải dạy đệ tử tất cả những pháp phải làm, sau đó nếu Thức xoa ma ni
muốn thọ Cụ túc giới, nên cho phép thọ Cụ túc giới”. Theo đây, điểm
tương đồng với Tỳ kheo là trong một năm chỉ có thể cho một người đệ tử
thọ Cụ túc giới, nhưng có chỗ không tương đồng là trong 2 năm chỉ có thể
độ một đệ tử Thức xoa ma na ni, một đệ tử Sa di ni.
Trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ, của Luật sư Đạo Tuyên nói: “Tứ Phần
Luật không cho đồng thời nuôi hai Sa di”. Lại nói: “Trong Tăng Kỳ Luật
không cho nuôi nhiều Sa di, chỉ cho nuôi từ một đến ba người là nhiều
nhất”.
Quy định không cho đồng thời thế độ hai người Sa di xuất gia, có hai lý do:
1. Đã từng có một Tỳ kheo đồng thời nuôi hai Sa di, hai Sa di ấy do
không hiểu biết, lại sinh tham dục đến đỗi hai người hành dâm với nhau.
Vì phòng ngừa sự kiện tương tự như thế phát sinh, nên chỉ cho có một Sa
di.
2. Đệ tử Sa di nhiều, sức dạy dỗ và cung cấp của thầy thế độ thường
thường không thể lo tròn. Các đệ tử Sa di không được giáo dục và cung
cấp đầy đủ chỉ làm lụy đến con em người và làm hại Phật giáo, vì thế
chẳng được đồng thời nuôi nhiều Sa di. Song trong luật cũng có khai lệ:
Nếu như vị thầy trí huệ cao sâu, phước lực thù thắng có đủ khả năng dạy
dỗ dưỡng nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa di trở lên.
Trong luật có nói: “Bậc thầy phân làm 4 hạng:
1. Có pháp lại có cơm áo.
2. Có pháp mà không có cơm áo.
3. Có cơm áo mà không có pháp.
4. Không có pháp cũng không có cơm áo.
Vị thầy lý tưởng của đệ tử dĩ nhiên là vị Đại đức Tỳ kheo đã có pháp
để học, lại có cơm áo để dùng. Đệ tử theo hầu dưới tòa của vị Tỳ kheo ấy
chẳng nên ly khai. Nếu như Tỳ kheo có Phật pháp để học mà không có cơm
áo để dùng cũng không nên ly khai, vì Phật pháp khó được, cơm áo dễ
được. Nếu như Tỳ kheo chỉ có cơm áo nhưng không có Phật pháp thì chẳng
đủ tư cách làm thầy. Đến như Tỳ kheo không có Phật pháp cũng không có
cơm áo, quyết không nên theo thờ người ấy làm thầy.
Thật ra, người chỉ biết thâu nhiều đồ chúng xuất gia mà tự mình lại
không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là có tội. Như trong
Kinh Bồ tát Thiện Giới quyển 4 nói: “Chiên đà la (người hạ tiện làm
nghiệp ác) và kẻ đồ tể tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh
pháp Như Lai thì không nhất định phải đọa trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh). Làm thầy mà không dạy răn đệ tử là phá hoại Phật pháp,
nhất định sẽ bị đọa trong địa ngục. Vì danh dự mà chứa nuôi đồ chúng gọi
là tà kiến, là đệ tử ma”.
Vậy mà người xuất gia ngày nay có được bao nhiêu vị thông hiểu hai bộ
luật? Như muốn hợp với quy định, cơ hồ không ai dám độ người thế tục
xuất gia. Nếu tự mình không thể giáo dục đệ tử, thì ít nhất cũng phải
nhờ người khác thay mình giáo dục. Do đó, sự xuất hiện của Phật học viện
là rất hợp thời.
III. NGHI THỨC CỦA SA DI XUẤT GIA
Sa di cần phải xuất gia, sau khi xuất gia và thọ thập giới, nếu chưa
phải là một Pháp đồng Sa di, thì được gọi là Hình đồng Sa di.
Xuất gia có nghi thức xuất gia, các chùa tư ở Trung Quốc thâu nhận
người xuất gia nhưng rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia, vì họ không
biết phải cử hành nghi thức xuất gia như thế nào, cũng không hiểu được
nghi thức xuất gia là đáng quý, đây là điều rất đáng tiếc!
Nghi thức tuy là sự biểu hiện hình thức, nhưng lại ảnh hưởng đến sự
chuyển biến của tâm lý. Vì thế, không luận là một tôn giáo nào cũng đều
có nghi thức của tôn giáo đó, cho đến tôn giáo tín ngưỡng của thời cổ
sơ, tuy không có luân lý của tôn giáo, song họ lại lấy nghi thức tôn
giáo làm trung tâm của tín ngưỡng. Nếu như chuyện phụng sự cho sự cử
hành nghi thức mà không có giá trị luân lý của tôn giáo tín ngưỡng như
là tôn giáo thời cổ sơ, đây là điều mà Phật giáo phản đối, như tăng lữ
Bà la môn ở thời Đức Phật, chỉ biết nghi thức tôn giáo phiền phức mà
không biết giá trị lý tánh của tôn giáo. Thậm chí Phật giáo của thời kỳ
đầu vốn không có một nghi thức tôn giáo nào cả, nhưng về sau Tăng chúng
đông nên cần phải có nghi thức. Nghi thức thế độ Sa di xuất gia hình
thành sớm nhất cũng là từ việc La Hầu La xuất gia, cho đến toàn bộ giới
luật đều do nơi sự cần thiết mà thành lập. Mỗi khi Đức Phật phát hiện ra
một vấn đề liền làm một quy định cho đại chúng trong Tăng đoàn, thậm
chí tùy theo sự phát triển của hiện thực mà phải đem quy định này tu
chỉnh năm sáu lần, sau cùng mới thành một điều giới luật.
Nghi thức của Sa di xuất gia trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ có quy
định rõ ràng, đó là do Luật sư Đạo Tuyên căn cứ vào tư liệu của Tứ Phần
Luật Độ Nhân Kinh, Luận Thiện Kiến biên tập thành. Đầu tiên, nghi thức
này là do các thầy Tỳ kheo tùy tiện tiếp thọ Sa di xuất gia mà không
thể dạy bảo đúng như pháp. Người được độ cũng không thể sinh hoạt ở
trong Tăng đoàn đúng như pháp, vì thế mới quy định: Phải do đại chúng
trong Tăng đoàn họp lại một chỗ vì người được độ bạch nhị yết ma, nghĩa
là vị Tỳ kheo độ người ở trước đại chúng của Tăng đoàn đủ oai nghi ba
lần xin, người Yết ma của đại chúng trong Tăng đoàn đem ý của Tỳ kheo
xin độ người này tuyên bố một lần trước đại chúng, rồi lại nói hai phen
trưng cầu đồng ý (đây gọi là bạch nhị yết ma). Nếu như trong đại chúng
không có sự dị nghị, thì kể như im lặng nhận là đồng ý, Tỳ kheo độ người
mới được thế độ Sa di.
Nhưng, Sa di xuất gia phải có hai thầy: Một vị là thầy thế độ cũng là
Hòa thượng truyền giới, còn một vị nữa là Giáo thọ A xà lê. Vì thế,
người xuất gia phải trước lễ thỉnh Hòa thượng, rồi Hòa thượng thay thế
cho Sa di thỉnh A xà lê.
Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải
thiết lập sẵn hai tòa chuẩn bị cho hai thầy ngồi. Sau đó dùng nước thơm
tắm gội, xong vẫn mặc y phục thế tục hướng về cha mẹ tôn trưởng của tục
gia lạy từ biệt mỗi người, rồi quỳ xuống nói kệ:
“Lưu chuyển tam giới trung
Ân ái bất năng thoát
Khí ân nhập vô vi
Chân thật báo ân giả”
(Trôi lăn trong ba cõi
Ân ái không thể thoát
Bỏ ân nhập vô vi
Là chân thật báo ân).
Nói kệ xong, cởi bỏ y phục thế tục, mặc tăng phục, vào đạo tràng đến
trước Hòa thượng chắp tay. Hòa thượng nói về các tướng bất tịnh của thân
người như lông, tóc, móng, răng, da …, để cho người xuất gia ấy quán
thân bất tịnh, như huyễn không thật, chán bỏ sinh tử mà quyết chí xuất
gia. Kế đó, người xuất gia đến trước A xà lê, được Ngài dùng nước thơm
rải lên đảnh và đọc kệ tán thán:
“Thiện tai đại trượng phu
Năng liễu thế vô thường
Xả tục thú nê hoàn
Hy hữu nan tư nghì”
(Hay thay đại trượng phu
Hiểu thế gian vô thường
Bỏ tục hướng Niết bàn
Hy hữu khó nghĩ bàn).
Người xuất gia lễ thập phương chư Phật và tự nói kệ:
“Quy y Đại Thế Tôn
Năng độ tam hữu khổ
Diệc nguyện chư chúng sinh
Phổ nhập vô vi lạc”.
(Quy y Đại Thế Tôn
Hay độ ba cõi khổ
Cũng nguyện các chúng sinh
Đều nhập vô vi lạc).
Tiếp theo, A xà lê liền cạo tóc cho người xuất gia ấy. Nếu có Điển lễ, thì đồng tụng bài kệ xuất gia:
“Hủy hình thủ chí tiết
Cát ái từ sở thân
Khí gia, hoằng Thánh đạo
Nguyện độ nhất thiết nhân”
(Hủy hình giữ chí tiết
Cắt ái từ mẹ cha
Bỏ nhà, hoằng Thánh đạo
Nguyện độ hết mọi người).
A xà lê phải để lại vài cọng tóc ở trên đảnh người xuất gia, sau đó
người ấy đến quỳ trước Hòa thượng. Hòa thượng cầm dao cạo tóc hỏi: “Hiện
tại vì ông cạo tóc trên đảnh được không?”. Sau khi người xuất gia đáp:
“Vâng ạ!”, Hòa thượng bèn cạo tóc trên đảnh, tiếp theo truyền trao ca
sa. Người xuất gia phải đội trên đảnh để thọ, thọ rồi giao lại cho Hòa
thượng. Qua lại ba lần truyền trao ca sa, Hòa thượng bèn mặc cà-sa (y
không có tướng điều) cho người xuất gia và nói kệ:
“Đại tai! Giải thoát phục
Vô tướng phước điền y
Phi phụng trì giới hạnh
Quảng độ chư chúng sinh”.
(Lớn thay! Áo giải thoát
Y vô tướng phước điền
Mặc vâng làm giới hạnh
Rộng độ các chúng sinh).
Người xuất gia mặc cà-sa đi lễ Phật và đi quanh giới đàn ba vòng, tự nói kệ mừng:
“Ngộ tai trị Phật giả
Hà nhân thùy bất hỷ?
Phước nguyện dữ thời hội
Ngã kim hoạch pháp lợi”.
(Nếu được gặp Đức Phật
Người nào không vui mừng?
Phước nguyện gặp đúng lúc
Con nay được pháp lợi).
Tiếp theo, người xuất gia lễ tạ hai thầy, rồi ngồi ở dưới tiếp thọ bà con ở trong gia đình thế tục đến chúc mừng.
Đây là nghi thức rất đơn giản, nếu như tỉnh lược chẳng làm, thật không biết nói sao! Nhưng trong Ký Quy Truyện quyển ba của Tam Tạng Nghĩa Tịnh lại càng
giản đơn hơn, Ngài nói: “Tăng chúng chấp nhận rồi, Hòa thượng vì người
xuất gia thỉnh A giá ly da (tức A xà lê) có thể ở chỗ vắng bảo người cạo
tóc cạo râu cho người xuất gia, và bảo người ấy tắm rửa, rồi Thầy đích
thân mặc áo quần để cho kiểm soát chẳng phải huỳnh môn. Kế đưa cho cái y
bảo đội lên đầu mà thọ. Mặc pháp y xong liền trao bát cho. Đây gọi là
xuất gia”. Ở đây có một điều là Hòa thượng mặc quần áo cho người xuất
gia sau khi tắm gội xong là để kiểm tra người nam hoặc nữ, sinh lý có
bình thường không? Nếu không bình thường, không được thế độ.