Phần
02
LỜI DẠY TIẾP (ANUSÀSANA).
TAM HỌC (TRISIKKHÀ).
PHẠM TỘI (ÀPATTI).
ÐIỀU HỌC (SIKKHÀPADA).
BIỆT BIỆT GIẢI THOÁT THU THÚC GIỚI (PÀTIMOKKHA
SAMVARASÌLA).
I. BỐN ÐIỀU BẤT CỘNG
TRỤ (PÀRÀJIKA).
Phần
03
II. MƯỜI BA (13) ÐIỀU HỌC
TĂNG TÀN (SANGHA DISESA).
III. ÐIỀU HỌC BẤT ÐỊNH (ANIYATTA).
Phần
04
IV. 30 ÐIỀU HỌC ƯNG XẢ ÐỐI
TRỊ (NISSAGGIYA PÀCITTIYA).
Phần
05 - 06
- 07
V. ƯNG ÐỐI TRỊ (PÀCITTIYA)
Phần
08
VI. BỐN ÐIỀU HỌC ƯNG PHÁT
LỘ (PATIDESANIYA).
VII. BẢY MƯƠI LĂM (75) ÐIỀU HỌC ƯNG HỌC PHÁP
(SEKKHIYAVATTA).
VIII. DIỆT TRANH (ADHIKARANA SAMATHA).
Phần
09
NHỮNG ÐIỀU HỌC NGOÀI
GIỚI BỔN
CHÚ GIẢI 10 ÐIỀU LẦM LẠC
14 PHÁP HÀNH (VATTA 14).
Phần
10
UPOSATHA - BỐ-TÁT
VASSÀ - AN CƯ
PAVÀRANÀ - TỰ TỨ
Phần
11
GIẢI VỀ CÁCH THỨC
ADHITTHÀNA
TỔNG KẾT
TRÍCH DỊCH Ở TẠNG LUẬT
PHÁP LÀM CHO TRỞ NÊN SA-MÔN.
PHƯƠNG TIỆN CHO PHÁP SANH PHÁP CỦA BẬC XUẤT GIA HOẶC
SA-MÔN.
TỘI CỦA BẬC XUẤT GIA TU HÀNH KHÔNG CHƠN CHÁNH.
MƯỜI PHÁP MÀ BẬC XUẤT GIA PHẢI QUÁN TƯỞNG THƯỜNG
XUYÊN.
PHẬT NGÔN
-ooOoo-
TIỂU TỰA
Khi Phật sắp nhập Niết-bàn ông
ANANDA và ông UPÀLI, có đến hỏi Phật: Bạch Ðức Thế-tôn
sau khi Phật diệt độ, chúng tôi phải tôn ai làm thầy?
Phật dạy: "Phải tôn giới
Ba-la-đề mọc-xa làm thầy.".
"Ba-la-đề mọc-xa" (Pàtimokkha)
Tàu dịch là: "Biệt-biệt giải-thoát", nghĩa là giữ
được một giới luật thì thoát khỏi được một tội.
Phật lại nói: Như-lai chế ra
điều-học
có mười điều lợi ích là:
1)- Cho có tuyệt hảo đến Tăng.
2)- Cho có sự an-lạc đến Tăng.
3)- Ðể khiển trách những người bướng bỉnh phá giới.
4)- Cho có sự ở an đến tỳ-khưu trì-giới trong sạch, đáng
kính mến.
5)- Ðể ngăn ngừa các lậu-phiền-não trong đời hiện
tại.
6)- Ðể đẩy lui các lậu-phiền-não trong đời vị lai.
7)- Cho những người chưa tin, phát tâm tín-ngưỡng.
8)- Cho những người đã tin, càng thêm tin.
9)- Cho Phật-pháp được kiên cố lâu dài.
10)- Ðể hộ trì Tạng Luật.
Chư tỳ-khưu vui thích trong sự
xuất gia, nên ghi nhớ cho rõ các quả vui đều phát sanh do
sự thông hiểu Giới luật trước cho có đức tin bền chắc
trong giới-luật và cần phải thực hành theo cho thuần thục
Người thông hiểu giới luật ví
như cha mẹ như nơi nương nhờ của tất cả hạng người tín-ngưỡng
Phật-pháp. Những người đã thọ Sa-di¸ hoặc Tỳ-khưu giới
thực hành theo điều trọng và điều khinh và biết rõ nơi nào
nên tới lui, hoặc không nên tới lui [1], cũng đều nương
theo người thông hiểu "giới-luật "ấy.
Người mà giữ giới trong sạch đáng
làm nơi nương nhờ cho hàng Phật-tử mong tìm sự an vui, thì
hằng đượïc tươi tĩnh, nói năng trong khi hội họp, không
chút chi e ngại. Người trì-giới có thể cảm hóa kẻ
nghịch trở thuận làm cho Phật-pháp được hưng thạnh lâu dài.
Lại nữa Giới-Luật có lợi-ích
phát sanh "sự thu thúc" (Samvara).
Thu thúc có lợi ích phát sanh sự
"không bất bình "(Vipatisàra).
Không bất-bình có lợi ích phát
sanh "sự thỏa thích" (Pàmojja).
Thỏa-thích có lợi ích phát sanh
"sự no-lòng" (Pìti). [2]
No lòng có lợi ích phát sanh "tâm
yên lặng" (Passaddhi).
Yên-lặng có lợi ích phát sanh
"điều an-lạc" (Sukha).
An-lạc có lợi ích phát sanh
"thiền định" (Samàdhi).
Thiền định có lợi ích phát sanh
"sự hiểu biết rõ cả pháp theo chơn lý" (Yathàbhùtannànadassana).
Hiểu biết rõ các pháp theo chơn-lý
có lợi-ích phát sanh "sự chán nản đối với chúng sanh
và vật" (Nibbidà).
Chán-nản trong chúng sanh và vật
có
lợi ích phát sanh "sự xa lìa tình-dục" (Viraga).
Xa lìa tình-dục có lợi-ích phát
sanh "sự giải thoát khỏi phiền não" (Vimutti).
Giải thoát khỏi phiền não có
lợi-ích phát sanh "sự hiểu biết rõ rằng được
giải-thoát" (Vimuttinànadassana).
Hiểu biết rõ rằng được
giải-thoát có lợi ích phát sanh "sự dứt khổ vì hết
cố chấp" (Anupàdàparinibbàna).
Quả báo mà phải được theo thứ
tự ấy, đều do sự trì giới-luật cả.
Cớ ấy, hành giả muốn được
an-vui tuyệt đối ở cảnh Niết-bàn, chỉ nên tinh tấn vâng
giữ giới luật và hết lòng thực hành theo cho chín chắn
ắt được như nguyện chẳng sai.
Mong sao cho tất cả thân quyến
chúng
ta trong vũ-trụ được an vui lâu dài, sớm mau hồi đầu hướng-thiện
qui y Tam-bảo, thọ-trì giới luật, một lòng bất-thối, để
tiến bộ trên đường giải thoát, đạt đến Niết bàn ngỏ
hưởng điều an-vui bất-diệt.
Mong thay
Bhikkhu Vansarakkhita (Tỳ-khưu Hộ-Tông).
PL 2510 - TL 1966
[l] Không nên đi đến nhà
điếm,
nhà đàn bà góa, nhà gái lỗi thời, bộ-nấp, chỗ tỳ khưu-ni,
chỗ bán rượu
[2] Thỏa thích rồi không biết đói gọi là "no lòng".
-ooOoo-
DẪN-TÍCH
Giải về: Nhân quả của sự
Trì
giới
Từ xưa đến nay, các bậc trí-tuệ
hằng thỏa-thích trong sự tiếp dẫn người đời, lánh dữ làm
lành, hầu thọ hưởng những hạnh phúc lớn lao và làm cho
sự sống của mình đạt điều lợi ích. Hạng người như
thế, đều là bậc cao đẳng, thường dứt bỏ gia-tài,
danh-vọng và sự vui sướng trong ngủ-trần, xuất gia tu-hành
để dạy bảo người đời noi theo chánh pháp mà tự mình đã
giác ngộ. Ðến khi có nhiều người sùng bái qui-y, thì được
tôn làm "Giáo chủ", lời dạy bảo của bậc "Giáo-chủ",
ấy mà thiên hạ tôn ngưỡng thực hành theo, gọi là "tôn-giáo".
Tôn-giáo của Ðức Chánh-biến-tri
mà được thạnh-hành đến ngày nay là vì ngài giáng sanh nơi
nhà vua, dòng Thích-ca tại xứ Trung-Ấn Ðộ, tên ngài là
"Sĩ-đạt-ta" (Silddhattha), phụ vương ngài là vua
"Tịnh-phạn-vương" (Suddhodana) trị vì trong xứ
"Ca-tỳ-la-vệ "(Kapilavatthu), mẫu hậu ngài là bà
"Mada hoàng-hậu" (Mahàmayàdevi). Khi mới sanh ngài ra, có
thầy xem tướng tiên đoán rằng: "Nếu ngài ở thế thì
sẽ được làm Chuyển-luân-vương, bằng đi tu ắt làm một
giáo-chủ trong thế gian". Khi ngài được 16 tuổi, phụ-vương
ngài truyền ngôi cho làm chúa trong nước, hoàng-hậu của ngài
là bà Bambà.
Làm vua 13 năm, được 29 tuổi ngài
bỏ ngôi, xuất-gia đi ẩn tu nơi rừng núi, nhằm ngày mà thái-tử
(Rahulà) là con ngài mới ra đời. Xuất-gia rồi, Ngài hằng
tinh-tấn tu khổ-hạnh, tìm được vô-thượng chánh-đẳng chánh
giác, hết 6 năm mới được giác-ngộ, rồi ngài ngự đến các
nơi để tùy duyên hóa-độ chúng-sanh thoát khỏi vòng khổ
ải đến 80 tuổi rồi nhập Niết-bàn.
Pháp và Luật mà ngài đã giảng
giải gọi là "Phật-giáo", những người tu theo
"Phật giáo" gọi là "Phật-tử ".
Các Phật-tử ấy chia ra làm 4
hạng người là: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, thiện-nam, tín- nữ.
Trong 4 hạng người ấy, các vị tỳ-khưu mà được thọ
cụ-túc giới đầu tiên hết là nhóm 5 tỳ-khưu "A-nhã
Kiều Trần Như" (Annakondanna).
Ðầu tiên, Phật-pháp còn mới, có
ít tỳ-khưu, giới-luật là điều nâng-đỡ Chư-tăng không
cần phải có nhiều. Các vị Thinh-văn ấy đều là bậc A-la
hán tâm-tánh trong sạch, các ngài thấu rõ Phật-pháp đều đủ
và tôn-ngưỡng thật hành theo lý Trung đạo mà Ðức Giáo-chủ
đã giải bày.
Ðến khi Phật-giáo ngày càng
thạnh-hành dần dần, số tỳ-khưu càng tăng trưởng rồi ở
riêng theo phe, theo đảng. Có hạng tỳ-khưu không được trong
sạch, tu hành không đúng đắn, cho nên đức Phật mới chế
ra điều học.
-ooOoo-
LỢI ÍCH CỦA SỰ TRÌ LUẬT
Lẽ thường, loài người trong
thế-gian, ở theo phe, theo đảng, không sao ở cho vừa ý nhau
được, nhơn tâm mỗi người mỗi khác, sức không đồng
nhau: người có sức lực, cộc-cằn thì hà-hiếp, kẻ yếu-đuối
nhu nhược phải chịu khổ không được an-vui.
Các đức vua trong nước hằng ngự
chế hình-luật để ngăn-cấm quốc-dân không cho làm điều
hung dữ. Nếu có kẻ phạm nhằm quốc-cấm, sẽ bị nhà vua
trừng phạt. Ðức vua cũng có ra lịnh khuyên làm những việc
lành cho chúng dân được an cư lạc-nghiệp. Cho đến quân-lính
cũng có pháp-luật dạy răn mới có trật-tự nghiêm trang được.
Dầu trong mỗi gia tộc, cũng có
phương
pháp riêng để cho thân quyến hành theo mới có thể ở yên
dễ dàng được
Về phần người xuất-gia trong
Phật-pháp cũng phải có phép để ngăn ngừa thân khẩu không
cho làm dữ, cho tâm được trong sạch. Ðức Thích-ca-mâu-ni là
giáo-chủ của chúng ta, Ngài là bậc pháp-vương tiếp độ các
hàng Phật-tử và là cha lành của Chư-Tăng, Ngài hằng giáo-dục
và chăm-nom sự quấy phải của Giáo hội.
Ngài làm hướng đạo cho 2 điều:
l) Ngài chế điều-học để ngăn-ngừa,
không cho hàng "Phật tử "làm quấy. Nếu tỳ-khưu làm
sái phép, Ngài ra lịnh rằng: "phạm tội nặng, hoặc
tội nhẹ để răn mình chừa cải, luôn đến Chư-tăng cũng
vậy".
2) Ngài dạy làm sự phải, cho chư
tỳ-khưu trau dồi thân khẩu được trang nghiêm, theo các bậc
hiền-triết, như các vị đế-vương trong nước, ngự chế răn
cấm quốc-dân không cho làm dữ, dạy phải làm lành, hoặc như
cha lành làm chủ trong gia-tộc, chỉ dẫn con cháu ăn ngay ở
thật, theo thứ tự trong họ-hàng.
Pháp mà đức Phật cấm-chế và
cho phép, dạy hàng Phật-tử lánh dữ làm lành hiệp lại
gọi là "Luật" nghĩa là pháp-tắc để trao dồi thân
khẩu cho trang-nghiêm.
Pháp-luật ví như soi chỉ xỏ bông
làm tràng-hoa, người mà đã xuất-gia theo Phật-pháp như hoa có
màu sắc khác nhau, sợi chỉ có thể làm cho hoa đều đặn,
cho có màu tươi tốt, liền-lạc, không cho bời-rời, cũng như
"Tạng-Luật" có thể làm cho tỳ-khưu "Tăng"
có cách-thức đẹp đẽ, không vụng-về.
Trong những hạng người tu theo
Phật-pháp làm Tỳ-khưu hoặc Sa-di chẳng phải do một nhà
hoặc một họ mà đến, đều là người người khác dòng khác
giống, không đồng bậc (bực cao, bực trung hoặc bực
thấp). Có người khác nước, khác tiếng nói, khác xứ sở
cho nên có thói quen khác nhau. Nếu không có Tạng-luật làm
mực thước hoặc có mà Tỳ-khưu, Sa-di không học cho hiểu
biết, hoặc đã hiểu biết mà không hành theo, ắt thân khẩu
và tư cách hành-vi không sao tề-chỉnh, không đáng là ruộng
phước của người đời, không làm cho người chưa tin, được
tin, người đã tin càng thêm tin.
Nếu các Tỳ-khưu Sa-di hòa-hảo
nhau, thỏa-thích nhau, không cố chấp theo phe, theo đảng, không
cãi lẽ nhau, hiệp nhứt nhau như nước lộn với sữa, liếc
xem nhau bằng cặp mắt từ-bi, khuyên nhau tôn-trọng, thực hành
theo giới luật đều đủ, không dư thiếu, mới làm cho phần
đông người phát lòng tín-ngưỡng, như các thứ hoa trong vườn
có sắc tốt và mùi thơm khác nhau mà người bẻ đem để
chung trong bình bông, không thứ lớp, không có mẹo-mực thành
ra vật không đáng thỏa thích. Nếu người bó hoa có trí, lành
nghề, họ lấy các thứ hoa như thế đơm cho đều-dặn theo cách
thức rồi để trong bình, hoa ấy sẽ thành vật đẹp xem không
mỏi mắt. Không cần nói đến hoa đẹp, dầu hoa không đẹp
cũng dễ coi, nhờ có mẹo mực làm cho ra vật đẹp được
Ðức Thiên-nhân-Sư là Ðấng giáo
chủ của chúng ta, Ngài thấy điều lợi-ích như thế, cho nên
chế ra "Tạng Luật" cho chư Phật-tử hành theo hầu
được sự an vui sự tiến-hóa trong đời này và đời sau.
-ooOoo-