Y nên adhitthàna [*] có 7 thứ.
- Tam y (ticìvara).
- Y tắm mưa (vàsikasàtikà).
- Y lót ngồi (nisìdanam).
- Y lót nằm (paccattharanam).
- Y rịt ghẻ (kandupaticchàdi).
- Y lau mặt (muhkamunchana colam).
- Các thứ phụ tùng nhỏ như vải lược nước, áo bát, đảy
(parikkharacolam).
Cả 7 thứ y đều là vật nên
adhitthànatheo tên.
[*] Tam y đã adhitthàna
rồi đi vào
xóm khỏi đem theo năm điều: 1. Tỳ-khưu có bịnh, 2. Trong 4
tháng mưa, 3. Ði qua sông, 4. Chỗ ở cửa có khoá kín, 5. Có
thọ lễ dâng y .
Ðức Phật dạy phải adhitthàna tam
y, không cho gởi adhitthàna y tắm mưa đến 4 tháng, hết 4
tháng mưa rồi phải gởi, adhitthàna vải rịt ghẻ, cho đến
khi hết ghẻ rồi gở, adhitthàna y lau mặt không cho gởi,
adhitthàna các thứ y phụ tùng, không cho gởi.
Tam y là: y 2 lớp để đắp trùm
(sanghàti), y vai trái (uttarasanga), y nội để mặc (antaravàsaka).
Ba y ấy phải cắt, may làm cho đúng phép rồi nhuộm cho có
màu, làm dấu (bindukappa) rồi mới nên nguyện đặt tên
(adhithàna), không cắt không nên mặc, vì đức Phật có dạy "Màbhikkhave
acchinnakàni cìvaràni dhà -- retabbàni". Chẳng nên mặc
y cà-sa không cắt, Tỳ-khưu nào dùng ca-sa không cắt, phạm
Tác ác.
Tam y, dầu cắt cho lớn rộng đến
đâu đến đâu cũng phải nhỏ hơn y của Phật mới nên. Nhỏ
hơn hết là: y 2 lớp và y vai trái, bề dài 4 hắc và 1 bàn
tay, bề ngang dầu 2 hắc cũng được. lớn hoặc nhỏ hơnkiểu
ấy không nên là nguyện là ca-sa.
Khi đã cắt may, nhuộm xong nên:
1) Làm dấu y, nên dùng 1 trong 3
màu
(đem, xanh, sám tro, hoặc bùn) vẽ vòng tròn bằng mắt ngỗng,
đọc "imam bindukappam karomi" rồi adhitthàna.
2) Adhitthàna có 2 cách:
adhitthàna bằng
thân và bằng khẩu.
Nếu y 2 lớp cũ, nên đọc xả
adhitthàna rằng "imam sanghàtim paccuddharàmi: tôi xả
y 2 lớp này" lấy tay cầm y 2 lớp hoặc để trên mình đọc
trong tâm rằng "imam sanghàtim adhitthàna" (tôi
adhitthàna y hai lớp này) như thế gọi là adhitthànabằng
thân.
Adhitthànabằng khẩu thì đọc "imam
sanghàtim adhitthàmi". adhitthàna bằng khẩu có 2 cách:
1. trong hắc
2. Ngoài hắc.
Nếu ở trong hắc, đọc "imam
sanghàtim adhitthàmi". Y ở ngoài hắc để trong phòng,
trong chùa, phải nhớ đến chỗ để y, rồi đọc "etam
sanghatim adhitthàmi".
Các y khác cũng làm như thế, chỉ
nên đổi tên thôi.
Ðọc xả y ở trong hắc:
Imam / Etam [*] uttaràsangam
paccuddharàmi antaravàsakam paccuddharàmi
Ðọc adhitthàna:
Imam / Etam [*] Uttarasangam
adhitthàmi, Antaravàsakam adhitthàmi, Vassika sàtikam
adhitthàmi,
imam paccattharanam adhitthàmi, etam kandupatticchàdi
adhitthàmi,
mukhamunchanacolam adhitthàmi, parikkhàracolam adhitthàmi
nếu adhitthàna tam y làm phụ tùng,
đọc:
Imam / Etam [*] cìvaram
parikkhàracolam adhitthàmi
nếu adhitthàna nhiều y chung cùng
nhau đọc:
Imam / Etam [*] cìvaràni
parikkhàracolam adhitthàmi
nếu adhitthàna patta thì đọc:
Imam pattam adhitthàmi
[*] Y để trong hắc (hathapàsa)
đọc:
"Imam"; Y để ngoài hắc (hathapàsa) đọc:
"Etam".
GIẢI VỀ CÁCH GỞI Y DƯ (Vikappa)
Ðức Phật dạy:
"Anujànàmi bhikkhave
atirekacìvaram vikappetum. anu... àyàmenaatthangulamsu gatam
gulena
caturangulavitthatam pacchimam cìvaram vikappetum."
Này các Tỳ-khưu! Như Lai dạy phải
gởi y dư -- Như Lai dạy phải gởi y pacchimacìvara là y nhỏ hơn
hết bề dài 8 ngón tay, bề ngang 4 ngón tay (ngón tay của đức
Phật).
Y tắm mưa, vải rịt ghẻ, khi đã
hết kỳ adhitthàna rồi nên gởi bằng 2 cách: gởi trước mặt,
gởi khuất mặt.
1) gởi y trước mặt 2 cách:
a. Trong hắc đọc:
Imam cìvaram tuyham
vikappemi
Imàni cìvaràni tuyham vikappemi (nhiều y).
b. Ngoài hắc đọc:
Etam cìvaram tuyham
vikappemi
Etàni cìvaràni tuyham vikappemi (nhiều y).
đọc gởi trước mặt 1 vị Tỳ-khưu,
rồi cất y cũng được.
Nếu đem ra mặc, xả hoặc adhitthàna
không nên. Khi người chịu gởi đọc:
Imam cìvaram mayham santakam
Imàni cìvaràni mayham santakam (nhiều y).
Paribhunjavàvisajjehivà
yathàpaccayamvàkarohi
Ngài lấy dùng, hoặc xả hoặc làm theo việc cần dùng của
tôi.
Ðọc xả như thế rồi đem dùng mặc,
đắp cũng nên.
2) Gởi y để khuất mặt
Gần, đọc:
Imam cìvaram tuyham
vikappanatthàyadammi
Imàni cìvaràni tuyham vikappanatthàyadammi (nhiều y).
Tôi gởi y này đến ngài.
Xa, đọc:
Etam cìvaram tuyham
vikappanatthàyadammi
Etàni cìvaràni tuyham vikappanatthàyadammi (nhiều y).
đọc gởi trước mặt 1 vị Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu chịu lãnh gởi nên hỏi chủ y rằng "Người xuất
gia nào thân thiết hay gần gủi với ngài?" Chủ gởi y,
tùy thích nói: "Ngài Tissa (hoặc Sa-di Tissa) là người thân
thiết với tôi". Vị chịu lãnh gởi nói "aham
tissabhikkhudammi" hoặc "aham tissassasàmanerassa dammi"
theo tên mà Tỳ-khưu xin gởi ấy. như thế gọi là khuất mặt,
rồi cất giữ như thế ấy cũng được. Khi Tỳ-khưu dùm chịu
lãnh gởi ấy đọc "tissassabhikkhuno santakam
paribhunjavàvisajjehivà
yathàpaccayam và karohi" như đã có giải trong cách gởi trước
mặt, điều thứ 2 ấy rồi, mới gọi là xả, khi đã xả rồi,
đem y ra mặc đều được cả.
Vấn -- Gởi trước mặt và khuất
mặt, khác nhau như thế nào?
Ðáp -- Trong cách gởi trước mặt
ấy, tự mình nhờ người khác gởi xả. Trong cách gởi khuất
mặt, nhờ người khác gởi cho, nhờ người khác xả cho,
khác nhau như thế ấy. Nếu đã gởi đến người nào, người
ấy không thông hiểu các xả, nên đem y ấy gởi cho Tỳ-khưu
thông hiểu, rồi nhờ vị ấy xả, mới nên. Người chủ đem
y ấy adhitthàna theo tên rồi dùng, dầu quá 10 ngày, cũng không
phạm tội, ấy là adhitthàna và vikappa y dư trước 10 ngày, nếu
để quá 10 ngày, phạm Ưng xả đối trị theo điều học
"lễ dâng y lần thứ nhất" (pathamakathina sikkhàpada).
GIẢI VỀ CÁCH ÐỨT ADHITTHÀNA
y đã adhitthàna theo tên, như đã
có giải, đứt adhitthàna do 9 điều:
- Cho đến người khác
(annassadànena).
- Bị bọn cướp đoạt (acchinditvàgahanena).
- Bạn thiết lấy (vissàsagàhena).
- Trở làm người thấp hèn (phạm Bất cộng trụ theo ngoại
đạo) (hinàyàvattanena).
- Xả giới (sikkhàpaccakkhànena).
- Chết (kàlakiriyàya).
- đổi tướng mạo (trai biến ra gái, giá biến ra trai)
(lingaparivattanena).
- Xả bỏ adhitthàna(paccuddharanena).
- Lủng lỗ
Y lủng lỗ bằng lưng ngón tay út,
lủng đứt hết chỉ mới đứt adhitthàna.
Y hai lớp, y vai trái rách bề dài
từ
bìa vào 1 gang, rách bề ngang từ bìa vào 8 ngón tay mới đứt
adhitthàna. y nội rách bề dài từ bìa vào 1 gang, bề ngang từ
bìa vào 4 ngón tay mới đứt adhitthàna.
Y đã đứt adhitthàna như thế, phải
may vá lại rồi adhitthàna thêm, đem mặc mới nên. Nên vá y
trong 10 ngày kể từ ngày rách, để quá 10 ngày, phạm Ưng xả
đối trị, như y dư.
-ooOoo-
Bhàsitamitam tena bhagavatà
jànatà
passatà ahetà sammàsambuddhena
Ðức Thế Tôn đã hiểu,
ngài là bậc Chánh đẳng chánh giác có giảng thuyết rằng:
Sampannasìlà bhikkhave
viharatha
sampannappàtimokkhà
Này các thầy Tỳ-khưu! các
thầy hãy là người có giới đầy đủ, có Pàtimokkha [*] ấy
đủ rồi ở yên đi.
[*] Tàu âm là
Ba-la-đề-mộc-xoa,
pháp diễn mà người đã thọ đúng đắn rồi hằng làm cho
người thoát khỏi 4 ác đạo.
Pàtimokkha samvaravuto
viharatha
àcàraga càra sampanno
Hãy là người thu thúc bằng
sự kiềm chế trong pàtimokkha, đầy đủ hạnh kiểm và nơi vãng
lai thích hợp.
Anumattesu vajjesu
bhayadassàvì
samàdàya sikkhàttha sikkhàpadesùti
Hãy là người thường thấy
sự lo sợ tội lỗi dù là nhỏ nhen chút ít, rồi nghiêm trì
các điều học (sikkhàpada).
Tasmàtihamhehi sikkhitabbam
Vì thế, chúng ta là hàng
xuất
gia trong Phật giáo nên học hành rằng:
Sampamasìlà viharissàma
sampannappàtimokkhà
Chúng ta là người có giới
đầy đủ, có Pàtimokkha đầy đủ rồi ở yên.
Pàtimokkhasam varasamvutà
vihàrissàma
àcàra gocàrasampanno
Chúng ta sẽ là người thu
thúc,
kềm chế trong pàtimokkha, có đầy đủ hạnh kiểm và nơi vãng
lai thích hợp rồi ở yên.
Anumattesu vajjesu
bhayadassàvì
samàdàya sikkhissàma sikkhàpadesùti
Chúng ta sẽ là người thấy
sự lo sợ, tự nhiên, trong tội nhỏ nhen chút ít, rồi nghiêm
trì các điều học.
Evanhino sikkhitabbam
Chúng ta phải học hành như
vậy.
Pàtimokkha visodhento
appeva jìvitam
jahe
Bậc xuất gia tín thực khi
đã trau giồi (tín thực: tin
chắc chắn).
Pàtimokkha
Thu thúc Giới, dám hy sinh
sanh mạng mình.
Pannattam lokanathenana
bhinde
silasamvaram
Không phá thu thúc Giới mà
đấng Cứu thế chế ngự để lại đâu.
Kikìva andam camarìva
vàladhim
Chim Cà-cưỡng liều mình cố
giữ trứng nó, thú Camari (bò có lông đuôi dài ở Tây Tạng)
liều thân ráng giữ lông nó, thế nào.
Piyamvà puttam nayanam và
ekakam
Người cố chăm sóc con một.
Taheva silam
anurakkhamànakà
Người chột mắt cố duy trì
mắt sáng thế nào, ta hãy thọ trì Giới của ta cho được,
nhất là như chim cà cưỡng vậy
Supesalà homa sadà sagàravo
Cho được là người có Giới
là nơi thương yêu, có lễ phép đúng đắn và tôn kính mãi
mãi.
Satthà sàvakkànam
sikkhapàdam
pannapeti dasa atthavase paticca
Ðức Thầy chế ngự điều
học đến các thầy Thinh Văn vì 10 điều lợi ích là:
Sanghasutthutàya
1. cho có điều tuyệt hảo
đến Tăng.
Sanghaphàsuttàya
2. cho có sự an lạc đến
Tăng.
Dummankùnam puggalànam
niggahàya
3. để khiển trách kẻ bướng
bỉnh phá giới.
Pesalànam bhikkhùnamphàsuvìhàya
4. cho có sự ở yên đến
chư Tỳ-khưu có giới là nơi thương mến.
Dittha dhammikànam àsavànam
samvaràya
5. để ngăn ngừa các lậu
phiền trong hiện tại.
Samparàyikànam àsavànam
patighàtàya
6. để đẩy lui những lậu
phiền não trong đời vị lai.
Appasannànam pasàdàya
7. để kích thích những
người
bất mãn, được tín ngưỡng.
Pasannànam bhiyyo bhàvàya
8. khiến kẻ thích càng tin
chắc.
Saddhammatthitiyà
9. cho chánh pháp được
thêm
kiên cố.
Vinayà nuggahàya
10. để hổ trợ tạng Luật.
Vinayamhi mahatthesu
Pesalànam sukhàvaho
Niggahànanca papicche
Lajjìnam paggahesuca
Sàsamàdhàrane ceva
Sabbannuji nugocare
Anannavisaye khema
Suppannatte asamsaye
Khi tạng Luật có đại lợi đem sự
vui đến Tăng có giới đáng kính mến, khiển trách nhóm Tỳ-khưu
ham muốn xấu xa, nâng cao nhóm Tỳ-khưu có sự hổ thẹn, có
khí chất duy trì giáo pháp là nơi vãng lai của đấng Chánh
Biến Tri không thuộc quyền hạn của kẻ khác, là nơi yên
tâm; nghĩa là đức Thế Tôn đã chế ngự chân chánh không
còn ngờ được.
Khandhake vinaye ceva
parivàre ca màtike
yathattakàri kusalo patipajjati yoniso
Bậc trí tuệ hay làm điều
lợí ích thích hợp hằng thực hành theo phương pháp trong
thiên Luật trong Parivàra và Màtika (một phần trong Luật)
.
Pamutthami ca suttante
Adhidhame ca tàvade
Vinaya avinatthamhi
Puna titthati sàsanam
Dù là tạng Kinh và tạng Luận đã
phá hủy mà tạng Luật chưa tiêu hoại, thì Phật giáo vẫn tồn
tại.
Ðức Chánh Biến Tri có giảng thuyết
về danh hiệu và cái pháp của Sa-môn rằng "Samanà
samanàti vo bhikkhave jano jano sanjànàti": này các Tỳ-khưu,
đại chúng hằng rõ danh hiệu của các ngươi rằng là
Sa-môn. Về phần các ngươi cũng vậy, khi có ai hỏi rằng,
ông là chi? Các ngươi cũng nhận rằng: Chúng tôi là
Sa-môn".
Như vậy: Nếu các ngươi có danh
hiệu
như thế và nhận mình đúng như vậy rồi biết rằng:
Ye dhammà samanakarànà
brahmana karanà:
Các pháp nào làm cho thành Sa-môn và bà la môn, chúng ta sẽ thọ
trì những pháp đó.
Hành động như thế, mới vừa sự
nhận thức chơn chánh của chúng ta, theo lời họ đã gọi thật.
Lại nữa, chúng ta đã thọ dụng
y, bát, thực phẫm, chỗ ngụ, thuốc mên của những thí chủ
nào thì cái nghiệp lành của họ sẽ sanh phước lớn, có nhiều
quả báo chẳng sai vậy, vì họ nương nhờ nơi chúng ta.
Hơn nữa, sự xuất gia của chúng
ta, chẳng phải là vô hiệu quả dầu pháp để tu hành được
nhiều phước báu thật.
Này các Tỳ-khưu! Các ngươi cần
biết mình như vậy, chẳng nên quên.
Ngài bèn giảng tiếp 2 pháp trọng
yếu nhất là: hổ thẹn (hiri) và ghê sợ (ottappa) tội lỗi.
Rồi giải rằng:
Parisuddhi kàyasamàcàra,
parisuddhi
vacìsamàcàra, parisuddhi manosamàcàra, parisuddha àjìva,
indriyasamvara bhojanamattannù jàgariyànuyoga, satisampajanna:
Sự nương ngụ trong nơi thanh vắng, cách trau dồi cái tâm cho
xa khỏi pháp cái (nìvaranadhamma) rồi tập trung tinh thần cho
trí tuệ thấy rõ "Tứ Diệu đế". Tất cả pháp đó
là pháp pháp của Sa-môn.
1) Hổ thẹn (hiri) về sự xấu hổ
đối với các pháp ác.
2) Ghê sợ (ottappa) là nói về sự
ghê sợ các tội lỗi.
Cả hai pháp trên đây là quan
trọng
đặc biệt của Sa-môn, bằng không cũng chẳng gọi là
Sa-môn được. Có 2 pháp đó rồi, các đức tánh khác mới
có thể phát sanh lên được.
3) Thân trong sạch đầy đủ
(parisuddhi kaỳisamàcàra), chỉ về 3 nghiệp lành của thân.
4) Khẩu trong sạch đầy đủ
(parisuddhi vacì samàcàra), chỉ về 4 nghiệp lành của miệng.
5) Tâm trong sạch đầy đủ
(parisuddhimano samàcàra), chỉ về 3 nghiệp lành của ý.
6) Sự nuôi mạng trong sạch
(parisuddha àjìva) tức là sự nuôi sống cho thanh cao (xem trong
Chánh mạng Thanh tịnh giới).
7) Lục căn thu thúc
(indriyasamàcàra) (xem trong Lục căn Thanh tịnh giới).
8) Biết tiết chế trong thực phẩm
(bhojanama tannù) chỉ biết về tiết độ trong sự thọ thực
(xem trong phép Quán tưởng thọ vật dụng Thanh tịnh giới).
9) Tỉnh thức thường thường
(jàgariyànuyoga)
là dạy phải thức nhiều ngủ ít.
10) Trí nhớ biết mình
(satisampajanna).
11) Sự nương ngụ trong nơi thanh
vắng.
Nghĩa là sự trú ẩn trong rừng hoặc dưới bóng cây hay là nơi
tịnh thất vắng vẻ.
12) Sự trau dồi cái tâm cho xa
khỏi
pháp triền cái, rồi chú tâm tham thiền.
13) Làm cho trí tuệ thấy rõ pháp
"Tứ điệu đế": là làm cho phát sanh sự thấy biết
rõ rệt cái khổ, nhân sanh khổ, sự diệt khổ, đạo diệt
khổ (xem trong Tứ diệu đế).
Tất cả các pháp đó là pháp của
Sa-môn cần phải có, bằng không, ắt sẽ sa vào trong 4 ác đạo
chẳng sai.
Ðức Thế Tôn giảng thuyết về
hàng Sa-môn và cái pháp của hàng Sa-môn như thế.
Người đã tự nguyện xuất gia hoặc
Sa-môn phải chú tâm rằng "Ta là bậc xuất gia hoặc
Sa-môn rồi, cần gìn giữ đức tín thanh cao vừa theo cái tướng
mạo của người xuất gia hoặc Sa-môn mới được". Hay
quán tưởng theo Phật ngôn rằng: "Bây giờ đây ta có tướng
mạo khác hơn kẻ thế, nhất là cách thức hành động của
Sa-môn thế nào, ta cần phải làm theo, không nên sai suyển".
Bậc xuất gia ví như người thương mãi, buôn bán muốn được
lợi, nếu hành đúng cách, mới được lời nhiều, bằng làm
sái ắt phải lỗ vốn. Vì thế đức Phật có giảng về
pháp đè nén cái tâm của người xuất gia như vầy:
Kusoyathà duggahito
hatthamevà nukantati
sàmannam dupparamattham niràyàyùpakadhati yamkinci sithilam kammam
samkilitthanca yamvattam sankassaram brhmacariyam natamhoti
mahapphalam
kayirà ce kayiràthenam dalhamenam parakkame sithilo hi paribhajo
bhiyyo
akirate rajam
Lẽ thường, cỏ tranh mà người không
khéo lắm, kéo ngược trở lại ắt phải đứt tay, thế nào,
sự xuất gia của hành giả, tu không chơn chánh, sái pháp luật,
hằng lôi kéo họ sa trong địa ngục, cũng như thế ấy.
Người mặc y vàng, song không thu
thúc theo pháp của Sa-môn, cũng không khỏi sa địa ngục, như
Phật ngôn rằng:
Kàvàvakanthà bahavo pàpadhammà
asannatà pàpà papehi kammehi nirayam te upapajjare.
Phần đông người có áo cà sa
dính cổ, tức là mặc y vàng, song là kẻ có pháp xấu xa,
không thu thúc theo pháp của Sa-môn, thường phải bị đọa
trong cảnh địa ngục, do các nghiệp xấu của họ đã tạo.
Lại nữa, người xuất gia đã phá giới, rồi thọ thực của
thí chủ dâng cúng bằng đức tin không nên đâu, ráng dùng cục
sắt đương nóng còn hơn, hiệp theo Phật ngôn rằng:
Seyyo ayogulo bhutto tatto
aggisikhù pamo
yance bhunjeyya dussìlo rattha pindam asannato.
Người xuất gia phá giới, là người
không thu thúc mà cũng dùng vắt cơm của kẻ thế chẳng dễ
đâu, ráng ăn cục sắt đương nóng còn hơn.
Ðức Phật đã giảng thuyết chỉ
rõ tội khổ của bậc xuất gia và Sa-môn không trú trong pháp
của họ, như những qui tắc đã giải.
1) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường rằng: Bây giờ ta đã có tướng mạo khác hơn kẻ thế,
nghĩa vụ nào của Sa-môn ta phải làm cho tròn.
2) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: Sự nuôi sanh mạng của ta nương nơi kẻ
khác, ta cần phải làm cho người cấp dưỡng dễ dàng.
3) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: sự làm cho thân khẩu thêm chơn chánh,
vẫn còn nữa chẳng phải chỉ có bấy nhiêu.
4) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: tâm ta không tự chê bai ta vì Giới
không đầy đủ chăng?
5) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: hàng trí tuệ đã xem xét rồi, họ
không khiển trách ta vì Giới không đầy đủ chăng?
6) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: ta phải chia lìa sự vật mà ta thương
yêu vừa lòng, không sao tránh khỏi được.
7) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: ta có cái nghiệp của ta, ta làm lành
thì được vui, gây dữ thì chịu khổ.
8) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: ngày và đêm hằng qua mau lẹ, bây giờ
đây ta làm được cái chi chăng?
9) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: ta có ưa thích trong nơi thanh vắng
chăng?
10) Bậc xuất gia nên quán tưởng
thường thường rằng: ta có các đức cao quí chăng? Khi có bậc
phạm hạnh để hỏi ta trong giờ cuối cùng, ta sẽ không hổ
thẹn chăng?
Mười pháp mà các bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường đó gọi là Thập pháp
(dasadhamma), song dịch như trên đó, mới thật đúng lý. Người
tu học cần phải hiểu rằng Thập pháp là pháp dành cho hàng
xuất gia, tuy nhiên như đã có giải, điều nào thuộc về
hàng xuất gia, điều ấy người cư sĩ hành theo cũng được.
Trong 10 pháp đó nên hiểu như vầy:
1- Dạy phải quán tưởng về tướng
mạo.
2- Dạy phải quán tưởng về chánh mạng.
3- Dạy phải quán tưởng về hành động.
4 & 5 - Dạy phải quán tưởng về qui tắc.
6 & 7 - Dạy phải quán tưởng về luật tự nhiên
8- Dạy phải quán tưởng về thời gian.
9- Dạy phải quán tưởng về chỗ ngụ.
10- Dạy phải quán tưởng về đức hạnh cao quí.
Về phước báu trong quán tưởng có
chia ra làm 2 là: Phần riêng và chung.
Giải về phần riêng của mỗi phần
trước.
1) Giải về phương tiện phát sanh
sự hổ thẹn (hiri) và ghê sợ (ottappa) tội lỗi, để thực
hành cho vừa với bổn phận của người xuất gia, nghĩa là
điều nào không đúng quy tắc của bậc xuất gia thì phải chừa
bỏ, nhất là phải hành những pháp chơn chánh, như là trì Giới,
cho thân khẩu trong sạch, tu Định cho tâm yên lặng, hành Tuệ
cho thấy rõ chánh tà. Phải cần kíp làm cho tròn nghĩa vụ.
2) Khi đã quán tưởng như vậy thì
sẽ được 2 điều lợi ích:
- được làm tròn phận sự đối
với người cấp dưỡng.
- sẽ có sự hành động cho họ dễ nuôi, nghĩa là làm cho
mình thành người biết đủ (sandona), thọ 4 vật dụng tùy
có tùy được. Họ cho vật chi thì vừa lòng với vật ấy
không được chọn tốt, xấu, ngon, dỡ.
3) Bậc xuất gia chưa chứng đạo
quả, là đức hạnh cuối cùng trong Phật giáo gọi là còn phận
sự phải hành, nghĩa là phải tu tập cho thanh cao hơn nữa, cần
phải học những điều chưa biết, thực hành những điều đã
biết. Khi đã trì giới được trong sạch thì cần tu Thiền
thêm lên, cho trí tuệ phát sanh để đắc đạo quả Niết Bàn
là mục đích tối cao của Phật Giáo. Nếu bậc xuất gia được
biết mình như vậy, thì hằng có sự lợi ích, để tự hóa
trở thành nên bậc cao nhân. Nếu lầm tưởng rằng: Mình là
đủ, không cần tu tập nữa, vừa lòng với bấy nhiêu thì
không cần mẫn hành bậc cao mà mình chưa chưa đắc. Như thế,
bậc xuất gia vẫn còn mắc trong vòng phàm tục và phải bị
luật vô thường chi phối, sa vào 4 ác đạo chẳng sai. Nếu hành
giả hằng quán tưởng biết mình như thế ắt sẽ tinh tấn
tu hành thêm lên.
4 và 5) Bậc xuất gia quán tưởng
hiểu rõ trong điều thứ tư và điều thư năm như vậy rồi,
sẽ thấy mình chưa toàn thiện thì phát tâm cố gắng tu trì,
không để, không để mình tự chê trách mình được. Nhưng lẽ
thường phàm nhơn hiếm có người đọc biết chân chánh như
thế .Vì vậy, có lúc làm sai mà họ cho là phải, có khi hành
chánh mà họ cho là tà.
Cho nên có Phật ngôn rằng: "Tội
mình khó biết, lỗi người dễ xem!" Nhân đó, đức Phật
dạy phải luôn luôn quán tưởng những điều trên đây, cho
phát sanh trí nhớ.
6) Đã thường quán tưởng điều này,
thì sẽ rõ sự chia lìa do 2 lẽ là:
- Các sự vật mà ta thương yêu
vừa
lòng, nó sẽ lìa ta khi ta còn sanh tiền cũng có.
- Trong giờ mạng chung, ta phải bỏ nó cũng có, đó là lẽ
tự nhiên không sao tránh được.
Khi thấy rõ 2 pháp trên rồi, mình
được 3 điều lợi ích:
- Dứt tâm bất bình nóng giận,
khi gặp sự vật đáng ghét bỏ
- Ngăn tâm không cho buồn rầu thương tiếc, lúc ly biệt sự
vật thương yêu.
- Kiềm chế tâm ham muốn, sự vật của mình để tránh tà
mạng gây ra các nghiệp ác.
Ðó là 3 điều lợi ích mà bậc xuất
gia nhờ sự quán tưởng thường thường mới thấy rõ được.
7) Trong điều này nên hiểu câu
"Ta có cái nghiệp của ta" rằng: Mọi người trong mỗi
kiếp đều có tạo nghiệp, không dữ thì lành, chẳng tốt
thì xấu, không có ai tránh khỏi, cho nên gọi là "Ta có
cái nghiệp của ta". Lại nữa, nếu làm lành thì được
vui, làm dữ thì chịu khổ. Cớ ấy sự quán tưởng trong điều
thứ 7 mới có lợi ích, không cho làm ác, chỉ tạo việc
lành, vì hiểu rõ quả báo của nghiệp.
8) Đức Phật có khuyên các Tỳ-khưu
cần phải biết thời gian qua rồi, chẳng khi nào trở lại.
Nên hiểu rõ chơn chánh rằnh: Nó chỉ thoáng qua mau lẹ, nếu
không thì hằng để cho ngày giờ trãi qua vô ích, sẽ có điều
hối hận ăn năn. Có Phật ngôn rằng "Những
người còn trai tráng, có tánh thông minh mà lười biếng không
chuyên cần làm các công việc thì khó gặp được xuất thế
bằng "Trí tuệ".
Lời Phật dạy đây để tỉnh thức
họ cho tinh tấn trong niên cấp còn khỏe mạnh, cho sự tu
hành mau được tấn hoá trong 2 phương diện đời và đạo, sự
quán tưởng thường thường trong điều này, hằng đem lại hạnh
phúc yên vui cho mình chẳng sai.
9) khi đã quán tưởng thường thường
thì có sự tĩnh tâm vừa lòng trong nơi thanh vắng, lìa xa bè
đảng bàu bạn, ưa thích trong nơi yên lặng, để tham thiền
cho tâm an trụ, rồi suy xét điều chi cũng được chân chánh
rõ rệt, không có trở ngại và bậc tu thượng được dễ dàng.
10) giải rằng: - "Các đức tính
cao quí chỉ về tâm thiền định hoặc giải thoát". Nếu
đã quán tưởng thường như thế thì được tĩnh tâm, không
hề vừa lòng với các hạnh phúc nhỏ nhen bực hạ, tinh tấn
trong đức tánh cao thượng theo thứ tự.
Về phước báu trong cách quán tưởng
10 điều đó, hằng đem lại sự yên tĩnh cho tâm, để tiến
bộ trong chánh pháp, tu giới, định, tuệ cho càng tăng trưởng
thanh cao. Nói tóm lại, sẽ được mãn nguyện trong 2 đường:
đời và đạo xuất thế, chứng quả Niết bàn là mục đích
cứu cánh của Phật giáo.
-ooOoo-
1) Tỳ-khưu có 5 chi hằng sa địa
ngục (chi: cái duyên ở một thể chia ra):
Tỳ-khưu tư vị vì thương .
Tỳ-khưu tư vị vì ghét.
Tỳ-khưu tư vị vì dốt nát.
Tỳ-khưu tư vị vì sợ.
Tỳ-khưu dùng của Tăng như của mình.
2) Tỳ-khưu có đủ 4 chi mới đáng
gọi là Tỳ-khưu:
Phải hằng niệm tưởng đức của
Phật.
phải hằng có tâm bác ái (mettà).
phải hằng tham thiền đối tưởng tử thi (asubha).
phải hằng niện tưởng sự chết (maranasati).
3) Sa-môn có đủ 4 chi mới gọi là
Sa-môn:
phải có tâm nhẫn nại.
Phải thận trọng trong việc phước đức.
Phải dứt bỏ lợi danh và phiền não.
Không bận lòng về thế sự.
4) Người sớm tới đi vào địa ngục
có 3 hạng:
người không phải hành đạo cao
thượng mà tư xưng là hành đạo cao thượng.
Người cáo gian bậc phạm hạnh.
Người nói ngũ dục không có tội, rồi thọ dụng ngũ dục.
5) Lời nói cao thượng có 4:
Không thấy, nói không thấy.
Không nghe, nói không nghe.
Nói không trúng, nói rằng Nói không trúng
Không biết rõ rệt, nói rằng Không biết rõ rệt
6) Tỳ-khưu có giới đáng tôn kính
có 4 chi:
không tư vị vì thương.
không tư vị vì ghét.
không tư vị vì si mê.
không tư vị vì sợ.
7) đệ tử đối với thầy có 5
pháp:
Phải hết lòng thương yêu thầy.
Phải hết lòng tinh tấn thực thà.
Phải hết lòng hỗ thẹn tội lỗi.
Phải hết lòng tôn trọng thầy.
Phải hết lòng nhớ tưởng thầy.
8) Thầy đáng cho đệ tử nương tựa
có 7 pháp:
Phải có tâm bác ái bình đẳng.
Phải có giới tinh nghiêm.
Ðáng cho trò tôn trọng.
Phải nhẫn nại, khi trò bất bình, biết tùy cơ cảm hoá
trò.
Phải biết đạo lý cao siêu và biết giảng giải theo sức
trò.
Phải ngăn trò không cho làm điều vô ích tội lỗi.
Phải tìm phương pháp để chỉ dẫn trò cho mau tiến hoá.
9) Bậc minh tuệ có 4 chi (pandità)
là bậc đáng nương tựa:
Biết ơn người đã làm đến mình
(katannù).
Biết làm cho mình được trong sạch (attasuddhi).
Biết làm cho người được trong sạch (para suddhi).
Tế độ người tế độ (sangaho).
10) Bậc tịnh giả (thiện trí thức)
có 7 chi:
Biết nhân.
Biết quả.
Biết mình.
Biết tiết độ.
Biết thì giờ.
Biết nơi hội hợp.
Biết người.
Ba bậc trên đây (8, 9,.10) là hạng
người đáng nương tựa, thân cận thì sẽ được hưởng thụ
4 quả báu:
Hằng làm cho giới được tăng tiến
cao thượng.
Hằng làm cho định được tăng tiến cao thượng.
Hằng làm cho tuệ được tăng tiến cao thượng.
Hằng làm cho sự giải thoát được tăng tiến cao thượng.
TỲ-KHƯU CÓ 7 PHÁP HÀNG PHẠM
HẠNH
THƯƠNG MẾN
Không mong được lợi.
Không mong được danh giá .
Không ngã chấp.
Hỗ thẹn tội lỗi.
Ghê sợ tội lỗi.
Không ganh tỵ.
Không bỏn xẻn (đáng thân cận).
TỲ-KHƯU CÓ 7 PHÁP KHÔNG
ÐÁNG CHO
HÀNG PHẠM HẠNH THƯƠNG MẾN.
mong được lợi.
mong được danh giá .
ngã chấp.
không thẹn tội lỗi.
không ghê sợ tội lỗi.
ganh tỵ.
bón rít (không nên gần gũi).
SÁU ÐẶC TÍNH CỦA KẺ SI MÊ
Mong được người ca tụng.
Mong được đứng đầu trong hàng Tỳ-khưu .
Mong được làm cả trong chùa .
Mong được thiện tín cúng dường .
Mong được ưa thích, việc của kẻ khác làm mà nói là của
mình .
Mong được kẻ khác dưới quyền mình trong tất cả mọi việc.
Những kẻ có đặc tính như thế là
người hèn hạ không nên thân cận
SÁU HẠNG XUẤT GIA
xuất gia của người dốt nát.
Xuất gia của người hay giận.
xuất gia của người chơi giỡn.
xuất gia của người thu góp của cải.
xuất gia của người để nuôi sống.
xuất gia của người muốn được thoát khổ.
(chỉ có hạng người xuất gia thứ
6 mới gọi là chơn chánh.).
-ooOoo-