Lời chỉ mà đức Chánh Biến Tri
chế định cho Tỳ-khưu là thầy tế độ dạy bảo đệ tử
mới vừa được thọ lễ tu lên bậc trên [1] (upasampadà) sau
khi đã tụng tuyên ngôn lần thứ tư (natti catuttha kamma vàcà)
cho Tỳ-khưu mới ấy được biết lần lần. Gọi là lời dạy
tiếp (anusàsana). Lời dạy tiếp này có 8 điều chia ra làm 2
đoạn: "4 phép nương" (nissaya) [2] và "4 sự không
nên làm" (akaramìyakicca).
[1] là thọ Cụ túc giới,
tu lên
bậc Tỳ-khưu.
[2] "nương" là dựa theo
Vật dụng để cho hàng xuất gia
dùng gọi là phép nương, có 4:.
- Ddi khuất thực
- Mặc y bẩn thỉu
- Ngụ dưới bóng cây
- Dùng thuốc ngâm với nước tiểu (nước tiểu bò đen).
Sự mà
hàng xuất gia không nên làm có 4:
- Hành dâm
- Trộm cắp
- Giết người
- Khoe pháp bậc cao nhơn
Các đức mà hàng xuất gia phải tu
tập gọi là Học (sikkhà) có 3: Giới (sìla), Định (samàdhi),
Tuệ (panna).
Sự thu thúc thân và khẩu cho chơn
chánh gọi là "Giới", sự trau dồi làm cho yên lặng
gọi là "Định", sự biết rõ trong các sắc tướng gọi
là "Tuệ".
Tội phát sanh vì sự dễ duôi điều
học mà đức Chánh Biến Tri đã cấm chế (nghĩa là không
cho làm), gọi là "phạm tội". Phạm tội ấy, gọi
theo tên có 7:
1. Bất cộng trụ (Pàràjika).
2. Tăng tàn (Sanghàdisesa).
3. Trọng tội (Thullaccaya).
4. Ưng đối trị (Pàcittiya).
5. Ưng phát lộ (Pàtidesanìya).
6. Tác ác (Dukkata).
7. Ác ngữ (Dubbhàsita).
Tội Bất cộng trụ mà Tỳ-khưu phạm
rồi, chẳng còn làm Tỳ-khưu được nữa.
Tội Tăng tàn, nếu Tỳ-khưu phạm
rồi, phải chịu hình phạt cấm phòng rồi mới khỏi tội.
Còn 5 tội sau, khi Tỳ-khưu đã phạm
phải cung xưng sám hối giữa Tăng, hoặc 2, 3 vị Tỳ-khưu, hoặc
1 vị Tỳ-khưu, rồi mới hết tội.
Thể thức mà Tỳ-khưu phạm các tội
có 6:
1. Phạm vì không hổ thẹn
(Alajjità).
2. Phạm vì không biết tội (Annànatà) là không biết rằng
làm thế này, thế kia mà 3. phạm.
3. Phạm vì hoài nghi mà vẫn làm (Kukkuccapakatatta).
4. Phạm vì tưởng là nên trong điều không nên (Akappiye
kappiya sannità).
5. Phạm vì tưởng là không nên trong điều nên (Kappiye
akappiya sannità).
6. Phạm vì quên (Sati sammosà).
Chú giải:
Nguyên nhân phạm tội có 6 điều ấy như vầy:
1) Phạm vì không hổ thẹn tội,
là Tỳ-khưu không biết xấu hổ tội, vì lòng riêng tư
thương riêng (chandàgati), giận riêng (dosàgati), lầm riêng
(mohàgati), sợ riêng (bhàyàgati), mà phạm các điều học nhỏ,
lớn, không biết xấu hổ, như thế gọi là phạm tội vì
không biết xấu hổ.
2) Phạm vì không thông luật cấm:
Tỳ-khưu ngu dốt, không biết rằng điều nào không nên làm rồi
lầm lạc, làm điều ấy, điều nào nên làm lại làm sai,
quá pháp luật, cho phát sanh tội, hoặc không biết điều học
của Phật chế cấm rồi làm như thế gọi là phạm tội vì
sự không thông.
3) Phạm vì hoài nghi: Tỳ-khưu có
sự
nghi ngờ, không hỏi luật sư cầu xin quyết định trước rồi
mới nên làm như thế, rồi làm theo ý riêng của mình, vì sự
nghi nan nên phạm tội. Khi đã nghi rồi, dù làm điều nên hoặc
không nên, cũng không khỏi tội; đều đủ mỗi điều học,
điều nào về Tăng tàn, Trọng tội, Ưng đối trị hoặc Tác
ác thì phạm theo điều ấy, như thế gọi là phạm tội vì
hoài nghi.
4) Phạm do tưởng trong điều không
nên cho là nên: Tỳ-khưu tưởng trong thịt không nên dùng là
như thịt gấu, cọp mà tưởng là thịt heo, hoặc bò, là thịt
nên dùng, rồi ăn thì phạm tội, hoặc vật thực không nên
dùng, rồi ăn thì phạm tội, hoặc đã chinh xế rồi tưởng
là còn sớm, rồi thọ thực thì phạm tội, như thế gọi là
phạm tội vì tưởng trong vật thực không nên cho là nên.
5) Phạm vì tưởng trong vật nên
dùng cho là không nên là: Tỳ-khưu tưởng trong thịt nên
dùng, như thịt heo, bò, cho là thịt gấu, cọp không nên
dùng, rồi ăn vào thì phạm tội, hoặc ngày còn sớm tưởng
là xế, rồi thọ thực vào thì phạm tội, như thế gọi là:
phạm tội vì tưởng trong vật thực nên dùng cho là không
nên.
6) Phạm vì quên là: Tỳ-khưu nằm
ngủ trong nơi lợp, che với người chưa tu lên bậc Tỳ-khưu
đến 3 đêm, qua đêm thứ tư, rồi quên đi nằm, ngủ chung
trong nơi lợp, che nữa thì phạm tội hoặc quên, lìa xa 1
trong 3 y nào thì phạm tội; hoặc thọ thuốc (đường, mật,
sữa) rồi cất giữa quá 7 ngày, thì phạm tội; hoặc thọ y
dư để quên không gởi hoặc không cho đến kẻ khác quá 10
ngày thì phạm tội Ưng xã đối trị, như thế gọi là phạm
tội vì quên.
Chỗ sanh tội (samutthàna) trong
điều
học có 6:
1) Thân,
2) Khẩu,
3) Thân và khẩu,
4) Thân và ý,
5) Khẩu và ý,
6) Thân, khẩu và ý.
Tội chỉ sanh nơi thân hoặc chỉ
sanh nơi khẩu là 1 chỗ sanh, như thế gọi có 1 chi (anga). Sanh
nơi thân chung với ý, hoặc sanh nơi khẩu với ý, là 1 chỗ
sanh, như thế gọi là có 2 chi. Sanh nơi thân chung với khẩu
và ý là 1 chỗ sanh, như thế gọi là có 3 chi, 3 chỗ sanh trước,
thân khẩu, thân và khẩu gọi là chỗ sanh "không cố
ý" [*] (acittaka samutthàna), nghĩa là: Chỗ sanh của tội
"không cố ý" không lẫn lộn với ý. Ba chỗ sanh sau
là: thân khẩu ý, thân, khẩu, ý gọi là chỗ sanh cố ý. nghĩa
là "chỗ sanh tội cố ý" lẫn lộc với ý.
[*] không cố ý làm cũng
phạm tội
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu dầu
không cố ý cũng phạm gọi là "vô ý" (acittaka). Nếu
cố ý, gọi là "cố ý" (sacittaka).
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm chỉ vì chỗ sanh thứ tư là thân ý, như trong điều học
"Bất cộng trụ thứ nhất" (dâm dục) (pathama
pàràjika); chỉ phạm vì chỗ sanh thứ 5, là khẩu ý như trong
điều học "thuyết pháp đến phụ nữ" (dhamma desanà
sikkhàpada); chỉ phạm vì chỗ sanh thứ 6, là thân khẩu ý như
trong điều học "chia rẽ Tăng" (sanghabheda sikkhàpada),
ba chỗ sanh này gọi là 1 chỗ sanh.
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì chỗ sanh thứ 1 (thân) hoặc thứ 4 (thân, ý) như
trong điều học "Tỳ-khưu thọ lông cừu" (elakaloma
sikkhàpada); phạm vì tội sanh thứ 2 (khẩu) hoặc thứ 5 (khẩu,
ý) như trong điều học "dạy kệ đến người chưa tu bậc
Tỳ-khưu" (upasampanna) (pada dhamma sikkhàpada); phạm vì chỗ
sanh thứ 3 (thân khẩu) hoặc thứ 6 (thân, khẩu, ý) như trong
điều học "lễ dâng y thứ nhất" [*] (pathama Kathina);
phạm vì chỗ sanh thứ 4 (thân, ý); hoặc thứ 6 (thân, khẩu,
ý) như trong điều học "trốn quan thuế" (theyya sattha
sikkhàpada); phạm vì chỗ sanh thứ 5 (khẩu, ý) hoặc thứ 6
(thân, khẩu, ý), như trong điều học "Tỳ-khưu ni không hỏi
trước mà làm lễ xuất gia cho phụ nữ có tội"
(cirivutthapana sikkhàpada); 5 điều học này gọi là "có 2
chỗ sanh".
[*] đại lễ dâng y đến
Tăng
trong 1 năm có 1 kỳ, từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 10.
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì chỗ sanh thứ 1 (thân), thứ 2 (khẩu), thứ 3 (thân,
khẩu) như trong điều học "Tỳ-khưu nói thiệt pháp cao
nhơn" (bhùtàrocana sikkhàpada); phạm tội vì chỗ sanh thứ
4 (thân, ý), thứ 5 (khẩu, ý) hoặc thứ 6 (thân, khẩu, ý) như
trong điều học trộm cắp (adinnàdàna sikkhàpada). Ðiều học
này gọi là có "3 chỗ sanh".
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì chỗ sanh thứ 1 (thân), thứ 3 (thân, khẩu), thứ 4
(thân, ý), thứ 6 (thân, khẩu, ý) như trong điều học "Tỳ-khưu
đi chung đường xa cùng Tỳ-khưu ni" (addhànasikkhàpada); phạm
vì chỗ sanh thứ 2 (khẩu), thứ 3 (thân, khẩu), thứ 5 (khẩu,
ý), thứ 6 (thân, khẩu, ý) như trong điều học "Tỳ-khưu
ni làm lễ xuất gia cho phụ nữ mà cha, mẹ chưa cho phép"
(ananaunnàta sikkhàpada); 2 điều học này gọi là "có 4 chỗ
sanh".
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì chỗ sanh thứ 1 (thân), thứ 2 (khẩu), thứ 3 (thân,
khẩu), thứ 4 (thân, ý), thứ 5 (khẩu, ý), thứ 6 (thân, khẩu,
ý) như trong điều học "làm mai dong" (sancarita
sikkhàpada); điều học này gọi là "có 6 chỗ sanh".
Tất cả điều học, nói về Chỗ
sanh tội (samutthàna) có 13, cả 13 tội ấy có 13 tên, do chỗ
sanh theo điều học chế ra lần đầu tiên như vầy "chổ
sanh điều học Bất cộng trụ thứ nhất" (pathama pàràjika
samutthàna), "chỗ sanh điều học trộm cắp" (adinnàdàna
samutthàna), "chỗ sanh điều học làm mai dong"
(sancarita samutthàna), "chỗ sanh điều học tụng lời khuyên
răn" (samanubhàsana samutthàna), "chỗ sanh điều học lễ
dâng y lần thứ nhất" (pathama Kathina samutthàna), "chỗ
sanh điều học Tỳ-khưu thọ lông cừu" (elakaloma
samutthàna), "chỗ sanh điều học Tỳ-khưu đi đường xa
chung cùng Tỳ-khưu ni" (addhàna samutthàna), "chỗ sanh
điều học trốn quan thuế" (theyyasattha samutthàna),
"chỗ sanh điều học thuyết pháp đến phụ nữ
"(dhammadesanà samutthàna), "chỗ sanh điều học Tỳ-khưu
nói thiệt pháp bậc cao nhơn" (bhùtàrocana samutthàna),
"chỗ sanh điều học Tỳ-khưu ni làm lễ xuất gia cho phụ
nữ mà cha mẹ chưa cho phép" (ananunnàtasamutthàna).
Phạm tội phát sanh trong điều học
do thân và ý, điều học ấy gọi là "chỗ sanh điều học
Bất cộng trụ thứ nhất" (pathama pàràjika samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh vì cố ý (3 chỗ sanh phía trước), điều học ấy gọi là
"chỗ sanh điều học trộm cắp" (adinnàdàna
samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do cả 6 chỗ sanh, điều học ấy gọi là chỗ sanh điều
học "chỗ sanh điều học làm mai dong" (sancarita
samutthàna).
Phạm tội trong điều học chỉ phát
sanh do 1 chỗ sanh thứ 6, điều học ấy gọi là "chỗ
sanh điều học tụng lời khuyên răn" (samanubhàsana
samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do chỗ sanh thứ 3 và thứ 6, điều học ấy gọi là
"chỗ sanh điều học lễ dâng y lần thứ nhất"
(pathama Kathina samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do chỗ sanh thứ 1 và thứ 4, điều học ấy gọi là
"chỗ sanh điều học Tỳ-khưu thọ lông cừu"
(elakaloma samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do chỗ sanh thứ 2 và thứ 5, điều học ấy gọi là
"chỗ sanh điều học dạy kệ đến người chưa tu lên bậc
Tỳ-khưu" (padaso dhamma samutthàna).
Phạm tội trong điều học chỉ phát
sanh do 1 chỗ sanh thứ 5, điều học ấy gọi là "chỗ
sanh điều học thuyết pháp đến phụ nữ "(dhamma desanà
samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do 3 chỗ sanh vô ý phía trước, "chỗ sanh điều học
nói thiệt pháp bậc cao nhơn" (bhùtàrocana samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do chỗ sanh thứ 5 và thứ, điều học ấy gọi là
"chỗ sanh điều học Tỳ-khưu ni làm lễ xuất gia cho phụ
nữ có tội" (cirivutthàpana samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do chỗ sanh thứ 2, thứ 3, thứ 5 và thứ 6, điều học
ấy gọi là "chỗ sanh điều học Tỳ-khưu ni làm lễ xuất
gia cho phụ nữ mà cha mẹ chưa cho phép"
(ananunnàtasamutthàna).
Về tiếng gọi là "vì thể thức
có chỗ sanh" ấy là nói về: làm (kiriyà), tưởng (sannà),
ý (citta), tội (vajja), nghiệp (kamma), tít cá (tikka), dạy người
làm (anatti), theo thứ tự như vầy:
Phạm tội trong các điều học vì
làm (kiriyà) có 5:
1) Phạm vì làm (kiriyà).
2) Phạm vì không làm (akiriyà).
3) Phạm vì làm và không làm(kiriyà akiriyà).
4) Phạm vì làm cũng có không làm cũng có (siyàakiriyà -
siyàakiriyà).
5) Phạm vì làm cũng có và không làm cũng có (siyàkiriyà
yàkiriyà kiriyà).
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm do thân hoặc khẩu, như trong điều học "Tỳ-khưu
đào đất" (pathavikhana sikkhàpada), điều học ấy gọi là
phạm vì làm (kiriyà).
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì không làm, nghĩa là: tự mình phải làm hoặc phải
nói mà không làm không nói, như trong điều học "lễ dâng
y lần thứ nhất" (pathama Kathina sikkhàpada) không làm dấu
và đặt tên, cất giữ y quá 10 ngày, như thế điều học ấy,
gọi là phạm vì không làm (akiriyà).
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì làm và không làm như trong điều học "thọ y
nơi tay Tỳ-khưu ni không phải bà con" (cìvara patiggahana
sikkhàpada) không đổi trước [*] mới phạm tội, điều học
này gọi là "phạm vì làm và không làm" (kiriyà
akiriyà).
[*] thọ là làm, không đổi
là
không làm
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì làm cũng có và không làm cũng có, như trong điều học
"thọ bạc vàng châu báu..."(rùpiya patiggahana
sikkhàpada), có Tỳ-khưu phạm vì làm cũng có là thọ bạc
vàng châu báu..., có Tỳ-khưu phạm vì không làm cũng có, là
không ra dấu ngăn cản bạc vàng, châu báu... mà người đem
đến dâng cho, điều học này gọi là "phạm vì làm cũng
có và không làm cũng có" (siyàkiriyà siyàakiriyà).
Tội trong điều học mà Tỳ-khưu
phạm vì làm cũng có, vì làm và không làm cũng có như trong
điều học "Tỳ-khưu cất thất tô bằng vôi, hoặc bằng
đất sét" (kutikàra sikkhàpada), có khi phạm tội vì vì do
Tăng chỉ chỗ, rồi làm thất lớn quá hạn định, điều học
này gọi là "phạm vì làm cũng có, vì làm và không làm cũng
có" (siyàkiriyà siyàkiriyà kiriyà).
Lại nữa, các điều học nói về
ý tưởng (sannà) có 2 là:.
1) Khỏi phạm vì tưởng
(sannàvimokkha).
2) Không khỏi phạm vì tưởng (no sannàvimokkha).
Trong điều học khỏi phạm vì tưởng,
là không phạm vì tưởng, là không phạm tội, như nước có
côn trùng mà tưởng rằng không có, rồi uống không phạm tội.
điều học này gọi là Khỏi phạm vì tưởng (sannàvimokkha).
Trong điều học không khỏi tội
vì tưởng, như mặt trời đã chinh xế mà tưởng rằng chưa
mà dùng vật thực thì phạm tội. điều học này gọi là
Không khỏi phạm vì tưởng (no sannàvimokkha).
Lại nữa, các điều học nói về
ý có 2: cố ý (sacittaka) và vô ý (acittaka).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do 3 "chỗ sanh cố ý" (sacittaka samutthàna),
"thân ý, khẩu ý, thân khẩu ý", không lầm lộn với
"chỗ sanh vô ý" (acittaka samutthàna). Ðiều học như
thế gọi là "chõ sanh cố ý" (sacittaka samutthàna).
Phạm tội trong điều học phát
sanh do 3 "chỗ sanh vô ý" (acittaka samutthàna) là thân,
khẩu, thân và khẩu. Ðiều học như thế gọi là vô ý
(acittaka).
điều học nào gọi là Khỏi phạm
vì tưởng (sannàvimokkha), điều học ấy gọi là vô ý
(sacittaka).
điều học nào gọi là không khỏi
phạm vì tưởng (no sannàvimokkha), điều học ấy gọi là vô
ý (sacittaka).
Lại nữa,các điều học nói về tội
có 2:
1) Tội vì đời (loka vajja).
2) Tội vì Phật cấm (pannatti vajja).
Phạm tội trong điều học nào, dầu
là vô ý,như điều học uống rượu (suràpana sikkhàpada), ý
trong thời phạm về phần vô ý, dầu Tỳ-khưu không biết là
rượu, rồi cho vào khỏi cổ thì phạm tội, ấy là ác tâm về
gốc xan tham (lobhamùla). Ðiều học này gọi là phạm tội vì
đời (loka vajja), là tội mà bậc trí tuệ nên lánh, nên khinh
khi trong đời.
Còn nói cố ý biết vật không nên
dùng, như biết là rượu rồi uống vì ý tham, không nói về
cái ý biết luật cấm là biết rằng không nên, nếu đã biết
là không nên mà không tuân lịnh Phật, làm sái điều học vì
ý nào, ý ấy (ý bất bình, bực bội) là gốc tội. Cho nên
điều học uống rượu (suràpana sikkhàpada), điều học
"Tỳ-khưu đi xem động binh đao" (Uyyutta sikkhàpada) và
điều học "Tỳ-khưu đi đến nơi chiến trường"
(uyyudhika sikkhàpada) mới gọi là vô ý, có tội vì đời. Còn
ý biết điều tội trong điều học nào dầu là lành, điều
học ấy gọi tội vì Phật cấm, là có tội mà bậc trí tuệ
nên lánh vì Phật cấm.
Lại nữa, các điều học, nói về
nghiệp có 3: thân nghiệp, khẩu nghiệp, thân và khẩu nghiệp.
Tội trong điều học nào mà Tỳ-khưu
chỉ phạm vì thân môn, như tội phát sanh do chỗ sanh thứ 1
và thứ 4, điều học ấy gọi là "thân nghiệp".
Tội trong điều học nào mà Tỳ-khưu
chỉ phạm vì khẩu môn, như tội phát sanh do chỗ sanh thứ 2
và thứ 5, điều học ấy gọi là "khẩu nghiệp".
Tội trong điều học nào mà Tỳ-khưu
chỉ phạm trong thân và khẩu môn, điều học ấy gọi là
"thân nghiệp, khẩu nghiệp".
Lại nữa Tikka có 2:
1) Phần tâm có 3: chỉ nói về
thiện tâm.
2) Phần thọ có 3: chỉ nói về thọ.
Tỳ-khưu khi phạm tội có tâm lành
phạm cũng có, có tâm dữ phạm cũng có, tâm vô ký như ngủ
phạm cũng có.
Lại nữa, thọ khổ mà phạm cũng
có, như trong điều học nào, nếu nói "chỉ có 1
tâm" (ekacittam) nên hiểu là nói về ác tâm: trong điều học
nào, nếu nói "có 2 tâm" (dvicittam) nên hiểu là nói về
tâm lành và tâm vô ký, trong điều học nào nếu nói "có
3 tâm" (ticittam) nên hiểu là nói về tâm lành, tâm dữ
và tâm vô ký .
Trong điều học nào nói "có 1
thọ" (eka vedanà) nên hiểu là nói về thọ khổ, trong điều
học nào, nói có 2 thọ(dvi vedanà) nên hiểu là nói về thọ
vui và thọ vô ký. Trong điều học nào nói "có 3 thọ"
(tisso vedanà) nên hiểu là nói về thọ vui, thọ khổ và thọ
vô ký.
Lại nữa, phạm tội trong điều học
này mà Tỳ-khưu tự mình làm hoặc bảo người khác làm cũng
phạm điều học ấy gọi là "Sànattika", trong điều
học mà Tỳ-khưu tự mình làm mới phạm, bảo kẻ khác làm
thì không phạm, điều học ấy gọi là "anànattika".
Những lời chú giải trên đây, có
nói nhất là về chỗ phát sanh tội (samutthàna), ấy là để
phân biệt cho thấy rõ tội trong mỗi điều học, sẽ giải
ra sau này.
-ooOoo-
Luật cấm mà đức Chánh Biến Tri
chế định từ điều gọi là Điều học (Sikkhàpada) [1]. điều
học có trong Giới bổn [2] (Pàtimokkha) cũng có, không có trong
giới bổn cũng có.
[1] Điều học là điều mà
bậc
tu hành phải học tập
[2] cũng gọi là Biệt biệt giải thoát giới
Điều
học có trong Giới bổn (pàtimokkha) là:
1- Bất cộng trụ (pàràjika) có 4
điều.
2- Tăng tàn (sanghàdisesa) có 13 điều.
3- Bất định (aniyata) có 2 điều.
4- Ưng xã đối trị (nissaggiya) có 30 điều.
5- Ưng đối trị (suddhika pàcittiya) có 92 điều.
6- Ưng phát lộ (pàtidesanìya) có 4 điều.
8- Ưng học pháp (sekhiyatavatta) có 75 điều.
Tổng cộng: 220 điều.
Cộng thêm 7 điều Diệt tránh
(adhikarana samatha), thành 227 điều.
Biệt biệt giải thoát thu thúc giới
nghĩa là giữ được 1 giới khỏi phạm 1 tội. Bất Cộng Trụ
nghĩa là không được ở chung với các Tỳ-khưu khác.
1) Hành dâm (Methuna dhamma).
Tỳ-khưu hành dâm phạm tội Bất cộng
trụ. Ðiều học này đức Thế Tôn cấm chế tại xứ
Kalanda, gần thành Vesàlì, do Tỳ-khưu Sudinna hành dâm với vợ
cũ.
Chú giải:
Tỳ-khưu đã thọ Cụ túc giới và nuôi mạng chơn chánh theo
các vị khác, rồi chưa xả tam y hoàn tục mà hành dâm, dầu
là dâm với súc sanh, cũng phạm Bất cộng trụ.
Tỳ-khưu là người đã thọ Cụ
túc giới theo chánh pháp của Phật đã khẩu truyền cho Tăng
chúng thu nhận, rồi hòa hợp tiếp nối tương truyền (từ đời
nọ đến đời kia) cho nhau bằng lời tụng tuyên ngôn 4 lần
(catuttha kammàvacà) tránh khỏi 5 điều hư hỏng là:
- hư hỏng vì giới tử
(vatthuvipati) [1],
- hư hỏng vì đọc sai giọng Phạn ngữ (Natthivipati) [2],
- Hư hỏng vì hỏi thiếu (Anussavanavipati) [3],
- Hư hỏng vì địa phận Tăng hành sự phân ranh không đúng
phép (Sàmà vipati),
- Hư hỏng vì thiếu số Tăng (Purisavipati) [4].
[1] Mười một hạng người
không
thể tu lên bậc Tỳ-khưu được là:
- người bán nam bán
nữ(bộ nấp).
- người có cả 2 bộ sanh trược khí
- người gỉa tu hành
- người theo ngoại đạo
- không phải người (loài thú).
- người giết cha
- người giết mẹ
- người giết A la hán
- người chích máu Phật
- người chia rẽ Tăng
- người hành dâm với Tỳ-khưu ni
[2] do vị A xà lê đọc
trật tên
Giới tử, tên vị Hoà thượng tế độ, tên Tăng.
[3] do vị A xà lê
không bạch hỏi
các vật cần dùng bổn phận của Tỳ-khưu (như y, bát...).
[4] do Tăng không đủ
số( từ 5 vị
trở lên) để chứng nhận
Như thế mới gọi là Tỳ-khưu.
Tỳ-khưu
là người đi khất thực, là xin được hoặc không cũng vẫn
tự nhiên, xin theo thể thức của bậc thánh nhơn. Sớm mai mặc
y cho kín mình, mang bát đến đứng trước nhà của thí chủ
là người cao, thấp, trắng, đen, mập ốm, trai, gái.
Tỳ-khưu hoặc là già, trẻ, cao hạ
hoặc mới xuất gia, nếu có sự biết mình (là Tỳ-khưu không
phải người điên, không có tâm tán loạn, không hôn mê), cố
ý muốn bỏ tướng mạo Tỳ-khưu và tỏ lời xả điều học
(giới) không nói chơi, không nói lầm lộn, mới gọi là xả
điều học. Còn đọc xả điều học có 22 cách, nhưng đây
chỉ kể vài câu thường dùng là:
Sikkham paccakkhàmi
(tôi xin xả điều học).
Vinayam paccakkhàmi (tôi xin xả luật).
Gihìtimam dhàrehi (xin ngài ghi nhớ rằng tôi là người
thế).
Upàsakotimam dhàrehi (xin ngài ghi nhớ rằng tôi là người
cận sự nam).
Tỳ-khưu có lòng thiệt xả bỏ điều
học đến vị nào. vị ấy được nghe và biết rõ lời xả
ấy. Như thế mới gọi là xả điều học.
Về sự hành dâm (Methuna dhamma) là
để ngọc hành của mình vào khiếu của người, của thú sống
hoặc chết song khiếu chưa rã, hoặc chưa bị thú bươi mổ
nhiều chổ, dầu cho ngọc hành vào bằng 1 hột mè hoặc bằng
đầu 1 sợi tóc, vì lòng vui thích, hoặc có người khác dọa
dẫm đè ép ngọc hành của mình rồi vui thích trong 4 thời
là:
- Lúc để ngọc hành vào
- Cho ngọc hành vào khiếu
- Khi vào rồi để đó
- Rút ngọc hành ra. Hoặc ngọc hành của mình dài đem vào
miệng mình, hoặc lưng điệu xuống mút ngọc hành của
mình vì lòng thỏa thích.
Những thể cách như thế gọi là
hành dâm. Tỳ-khưu hành dâm phạm tội Bất cộng trụ
(Pàràjika), không được phép hành tăng sự chung cùng các vị
Tỳ-khưu khác
30 khiếu phát sanh chỗ hành dâm
là:.
- Nữ nhơn có 3 khiếu
- Nữ phi nhơn có 3 khiếu
- Thú cái có 3 khiếu
Chúng sanh có 2 bộ sanh trược khí:
- Nhơn có 3 khiếu
- Phi nhơn có 3 khiếu
- Thú có 3 khiếu
- Nam nhơn có 2 khiếu
- Phi nhơn nam có 2 khiếu
- Thú đực có 2 khiếu
- Bộ nấp nhơn có 2 khiếu
- Bộ nấp phi nhơn có 2 khiếu
- Bộ nấp thú có 2 khiếu
Tổng cộng là 30 khiếu.
Về phần thú như vầy. Thú không
thuộc loại mình dài như rắn. Thủy tộc như cá, rùa v.v...
đều có 3 khiếu vừa cho ngọc hành vào, dầu chỉ bằng hột
mè, hoặc cộng tóc. Như thế là vật của tội Bất cộng trụ.
Những khiếu nhỏ hơn là vật của tội "Tác ác".
Về loại có 2 chân như: quạ, gà.
v.v..., Thú có 4 bốn chân như thú nhỏ. Nên hiểu là vật của
tội "Bất cộng trụ" và "Tác ác" như đã
nói.
Tỳ-khưu có mụt ruồi hoặc lông mọc
nơi ngọc hành của mình còn biết sự tiếp xúc, cho vào 1
trong 30 khiếu như đã nói, dầu khiếu ấy mà da và thịt đã
lột lở hết, song khiếu còn rõ rệt, nếu có ý muốn, rồi
hành dâm thì phạm tội Bất cộng trụ.
Tỳ-khưu có lông hoặc mụt ruồi mọc
nơi ngọc hành không còn biết sự tiếp xúc, cho vào khiếu như
đã giải phạm tội Tác ác. Nếu các khiếu ấy đã lở hết,
dầu hình dạng các khiếu ấy chẳng còn sót, mà Tỳ-khưu cố
ý cho ngọc hành vào nơi ấy phạm "Trọng tội".
Tỳ-khưu cho ngọc hành vào nhãn
môn, nhĩ môn, tĩ môn, và thẹo ghẻ (phạm khí giới) của
loài người phạm "Trọng tội". Thẹo ghẻ, lổ mũi của
thú lớn như voi, ngựa, tử thi của loài người bị thú ăn nữa
thân mình chưa sình, lưỡi hoặc răng bày ra ngoài miệng, đều
là vật của "Trọng tội". Lỗ mắt, lỗ mũi, miệng
vào được và khiếu đã lở, trong tử thi của người đã
sình, đều là vật của tội Tác ác.
Tỳ-khưu để ngọc hành vào miệng
tử thi không đụng các phía, phạm Tác ác.
Những điều giả trên là phần phạm
tội. Còn về thể thức không phạm tội trong điều học này
là: Tỳ-khưu không biết, không vui thích hoặc điên, tán loạn,
bị bịnh hôn mê và Tỳ-khưu phạm đầu tiên hết.
Tỳ-khưu ngủ quên (mê) có người
đến hành dâm mà không hay biết song chẳng vui thích chi cả,
như thế gọi là không vui thích, không phạm tội. Tỳ-khưu
điên hoặc có người làm cho tâm tán loạn. Tỳ-khưu bị bịnh
nặng làm cho tâm hôn mê, như thế gọi là hôn mê, không phạm
tội. Tỳ-khưu hành dâm đầu tiên (trước hết) làm cho đức
Thế Tôn ra điều luật cấm chế như Tỳ-khưu Sudinna phạm tội
hành dâm trước hết các Tỳ-khưu khác, gọi là "người
phạm đầu, bị cấm chế" (Adikammika), không phạm tội.
Lại nữa, điều học không phạm tội
Bất cộng trụ vì dạy kẻ khác (Anànattika). Song không khỏi
phạm tội Tác ác (dukkhata). Có 2 chi:.
- ý tính hành dâm
(sevanacittam).
- Cho ngọc hành vào khiếu, tiếp xúc nhằm một chỗ khiếu
nào (Maggena maggapatipàdanam).
Như thế mới phạm tội Bất cộng
trụ bằng không đủ 2 chi cũng không phạm tội.
Ðiều học này có 1 chỗ sanh tội
(samutthàna) gọi là chỗ sanh tội điều học Bất cộng trụ
thứ nhất (Pathama pàràjika samutthàna), nghĩa là phát sanh do
thân, và ý 1 chỗ sanh, phạm vì làm (kirayà), khỏi phạm vì tưởng
(sannàvimokkha), phạm vì cố ý (Sacittaka). phạm tội vì đời
chê trách (lokavajja). phạm do thân nghiệp (kàyakamma), ác tâm
(akusalacitta), thọ vui và vô ký (dvivedanam).
2) Trộm cắp (Adinnàdànà).
Tỳ-khưu trộm cắp của người đáng
giá 5 màsaka [*] trở lên phạm tội Bất cộng trụ. Điều học
này đức Thế Tôn cấm chế tại núi Kỳ xà quật (Gijjakùta)
gần thành Vương xá (Ràjagaha) do Tỳ-khưu Dhaniya lấy cây của
vua Tần bà sa (Bimbisàra) đem đi cất tịnh thất.
[*] Màsaka là giá bạc
thông dụng
ngày xưa bên xứ Trung Ân độ bằng 6 cắc bạc của ta (năm
1966).
Chú giải:
Thể thức trộm cắp có 6 là:
1) Kiện lấy (Adiyana): là kiện
lấy
ruộng vườn, đất của kẻ khác về làm của mình. Trong
khi kiện phạm tội Tác ác. Khi chủ đất nghĩ rằng:
"ta được hay không được". Tỳ-khưu phạm Trọng tội.
Khi chủ bỏ hẳn rằng "không còn là của ta nữa"
và Tỳ-khưu quyết định không trả của ấy lại cho họ mới
phạm tội Bất cộng trụ.
nếu Tỳ-khưu thầm tính, chỉ dọa
dẫm thôi thì chưa phạm Bất cộng trụ. khi nào cả 2 bên
là Tỳ-khưu chắc chắn không trả lại cho chủ và chủ cũng
đã định bỏ của ấy không kêu nài, mới phạm tội Bất
cộng trụ.
2) Tiếp đem đi (Harana): Tỳ-khưu
tiếp (đội, vác) đem của người đi. Nếu cố ý rờ đụng
vật (đội) ấy, phạm tội Tác ác. Mỗi lần rờ đụng làm
cho vật ấy cử động qua lại,phạm Trọng tội,mỗi lần cử
động để vật ấy xuống vai hoặc dở hõng đầu, phạm Bất
cộng trụ. còn về gánh vác trên vai và đem cầm nơi tay
cũng kể như đội trên đầu.
3) Dấu nói ngược (Ayaharana):
Tỳ-khưu
lãnh của người gởi, khi người chủ đến đòi, Tỳ-khưu
cố ý dấu rồi nói ngược lại rằng: "Ta không biết,
ta không có lãnh của người đâu", cố ý như thế phạm
tội Tác ác. làm cho người chủ nghi ngờ phạm Trọng tội.
Khi người chủ bỏ vì không đòi được, vị Tỳ-khưu quyết
định không cố ý trả lại phạm Bất cộng trụ (của
người gởi, Tỳ-khưu làm mất, không chịu bồi thường
cũng phạm Bất cộng trụ ).
4) Làm cho đổi oai nghi
(Iriyapatha
vikopana): Tỳ-khưu cố ý trộm cắp đem của cải và người
mang của, rồi đuổi người mang của ấy, đi khỏi bước
đầu theo ý mình, phạm Trọng tội, đi khỏi bước thứ nhì
phạm Bất cộng trụ.
5) Dời khỏi chỗ (Thànàcàpanà):
Tỳ-khưu tính trộm cắp của để trên khô hoặc trong nước,
rồi đụng chạm nhằm, phạm Tác ác. Làm cho vật cử động
tới lui, phạm Trọng tội. Làm cho vật ấy ra khỏi chỗ, phạm
Bất cộng trụ .
6) Qua khỏi chỗ quan thuế tra
xét
(Sanketavitinàmana): Tỳ-khưu biết chỗ quan thuế đi đến chỗ,
tính không đóng thuế, cố ý rờ đụng cầm lấy vật mà
mình đem đi, đánh giá thuế 6 cắc, phạm Tác ác. Đi bước
đầu ra khỏi chỗ quan thuế phạm Trọng tội, qua bước thứ
2 phạm Bất cộng trụ.
Lại nữa, Tỳ-khưu dạy các Tỳ-khưu
khác đi trộm cắp, rằng "ông đi trộm lấy vật ấy"
Tỳ-khưu dạy phạm Tác ác trong lúc dạy. Tỳ-khưu đi trộm
phân biệt rằng "của này hoặc vật này, hoặc biết rằng
vật khác, rồi đi lấy được theo lời dạy như thế, cả 2
đều phạm tội. Nếu Tỳ-khưu trộm cắp phân biệt rằng vật
này hoặc vật khác, rồi trộm được vật khác, ngoài ra vật
của Tỳ-khưu dạy đi ăn trộm và đã nhứt định, như thế
Tỳ-khưu dạy không phạm, Tỳ-khưu đi trộm phạm Bất cộng
trụ.
Tỳ-khưu dạy rằng "ông đi trộm
của ấy, vật ấy của người kia trong giờ nào, trộm trong
giờ ấy". Như thế nếu Tỳ-khưu dạy trộm được theo
giờ đã định, cả 2 Tỳ-khưu đều phạm tội Bất cộng trụ
trong giờ trộm. Nếu trộm ngoài giờ dạy, Tỳ-khưu dạy không
phạm, Tỳ-khưu trộm phạm tội Bất cộng trụ.
Nhiều Tỳ-khưu rủ nhau đi trộm,
chỉ có 1 vị trộm được, cả thảy cũng đều phạm tội Bất
cộng trụ.
Tỳ-khưu hăm dọa cho người sợ,
để lấy của như của bọn trộm cướp, phạm Bất cộng trụ.
Tỳ-khưu đổi thẻ có viết tên vị
khác mà thí chủ để trên y đem bố thí. lấy thẻ của người
cao giá, hoặc thấp hơn hoặc bằng giá như nhau, để gần của
phần mình, Tỳ-khưu cắm thẻ của mình lên, vì muốn để
trong phần của người khác, lấy thẻ của mình hoặc của người,
mà chưa đổi thẻ để xuống, phần của người về mình, phần
của mình về người thì chưa phạm, khi đổi xong, để thẻ
xuống rồi mới phạm Bất cộng trụ .
Lại nữa, Tỳ-khưu tính trộm của
người rồi đi, lúc đi trộm, đi mỗi bước là 1 Tác ác, rờ
đụng nhằm cũng phạm Tác ác, làm cử động của trộm phạm
Trọng tội. Đến khi trộm được đáng giá 1 cắc, phạm Tác
ác. Nếu của ấy đáng giá hơn 1 cắc trở lên, chưa đến 6
cắc, phạm Trọng tội. Của ấy đáng 6 cắc hoặc nhiều hơn
phạm Bất cộng trụ.
Lại nữa điều học trộm cắp này
rất sâu xa, vi tế có giải trong luật (samantapàsàdika). đây
chỉ giải tóm tắt vậy thôi, và chư vị A la hán có dạy:
"điều học này rất cao sâu, khó định nghĩa được".
Cho nên khi có người tố cáo Tỳ-khưu trộm cắp, dầu có luật
sư có hỏi theo thể thức trộm cắp, nếu thấy cũng không
nên vội định tội, nên hỏi đến 5 điều này trước.
- Vật (vatthu).
- Giờ (kala).
- Xứ (padasa).
- Giá (agha).
- Dùng (paribhoga).
"Vật" là của Tỳ-khưu trộm,
đem vật ấy đến hỏi tra coi, vật ấy có chủ hay không có
chủ, nếu có chủ, sau khi trộm được, chủ còn thương tiếc
hay bỏ. Nếu chủ còn thương tiếc, phải xử theo giá vật trộm,
bằng chủ đã bỏ, không nên xử phạm Bất cộng trụ. nếu
chủ đòi thì nên trả lại, như thế mới là chơn chánh.
"Thời" là lúc trộm vật
ấy, có khi của ấy cầm giá, có khi lên giá.
"Xứ" là chỗ mà Tỳ-khưu
trộm của được, trộm trong xứ nào, phải xử theo giá trong
xứ ấy.
"Giá" là giá của vật trộm
đã dùng rồi hoặc chưa. Nếu vật ấy người đã dùng rồi
thì giá rẻ.
Ấy là 5 điều nên tra hỏi trước.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu tưởng là của mình rồi
cầm lấy, lấy vì thân thiết với nhau, mượn nhau để dùng,
vật ấy của tinh, quỉ hoặc súc sanh, không phải của người
lượm ngoài đường là vật không có chủ và Tỳ-khưu điên
đều không phạm tội.
Ðiều học này phạm tội vì dạy
người khác trộm (sanattika) có 5 chi:
- Của người gìn giữ
(parapariggahitam).
- Tưởng là của người gìn giữ (paraparigg hitasannità).
- Của ấy đáng giá 1 bát hoặc cao hơn (garuparikkhàro) ("bát"
bên xứ Trung ấn độ bên ấy bằng 6 cắc của nước ta
lưu hành đến ngày nay - năm 1966).
- Ý tính trộm cắp (theyyacittam).
- Ðã trộm được theo lẽ đã giải trước (avaharanam).
Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm
tội Bất cộng trụ. điều học này có 3 chỗ sanh gọi là
"chỗ sanh tội trộm cắp" (adinnàdànà samutthàna), là
tội sanh do:
- Thân ý
- Khẩu ý
- Thân, khẩu, ý
Phạm vì làm (kiriyà), khỏi tội
vì tưởng (sannàvimokkha), phạm vì cố ý (sacittaka), phạm tội
vì đời (lokavajja), thân nghiệp (kàyakamma), khẩu nghiệp
(vacìkamma), ác tâm (akusalacitta). Có 3 thọ: thọ khổ
(ekàvedanà), thọ vui (dvivedanà) thọ vô ký (tissovedanà).
3) Giết người (Manussa viggaha).
Tỳ-khưu cố ý giết người phạm
tội Bất cộng trụ.
Ðiều học này đức Thế Tôn cấm
chế tại phước xá (phước xá này cất trong rừng lớn gần
biển và núi Tuyết sơn) có đãnh trong rừng Tuyết sơn, gần
thành Vesali do chư sư sát hại lẫn nhau vì được nghe đức
Phật giảng giải sự ô trược và điều khổ của thân ngũ
uẩn, rồi tưởng lầm, nên giết lẫn nhau cho khỏi khổ.
Chú giải:
Tỳ-khưu có ý giết người, dầu là bào chế thuốc uống, đập,
đánh, chỉ cách giết, hoặc để khí giới giết người, hoặc
giảng lời tặng khen về sự chết rằng: người sống có
ích chi, xấu xa, đê hèn, không bằng chết còn hơn, chết sanh
về cõi vui hoặc dạy cách chết, là dạy "người nên đâm
họng, nên uống thuốc độc...". Giải như thế mà người
chết trong khi ấy, hoặc lâu ngày mới chết, Tỳ-khưu phạm Bất
cộng trụ.
Người là vật của Bất cộng trụ,
không phải người phi nhơn (tinh, quỉ là vật của Trọng tội,
thú là vật của Ưng đối trị).
Tỳ-khưu dạy người giết có 6 điều:
1) định giết người: Dạy kẻ nào,
người chịu lời đi giết kẻ ấy thì phạm tội cả 2 người
(người dạy và người đi giết), nếu giết lầm kẻ khác,
người bảo không phạm Bất cộng trụ.
2) định giờ: Nếu người chịu
lời, giết ngoài giờ dạy, thì người dạy không phạm Bất
cộng trụ.
3) định chỗ: Nếu Tỳ-khưu dạy
giết người ở trong nhà này, nơi khoảng trống kia, mà người
chịu lời đi giết ngoài chỗ đã định, thì người dạy
không phạm Bất cộng trụ.
4) định khí giới: Dạy người
giết bằng đao, chĩa, người chịu lời dạy đi giết bằng
khí giới khác, thì người bảo giết không phạm Bất cộng
trụ.
5) định oai nghi: Dạy giết kẻ
đứng hoặc đi, người chịu lời lại giết kẻ ngồi hoặc
nằm, thì người bảo giết không phạm Bất cộng trụ.
6) định cách giết: Dạy giết bằng
cách đâm hoặc chém, người chịu lời lại giết bằng cách
đánh hoặc cưa, thì người bảo giết không phạm Bất cộng
trụ.
Lại nữa, nếu người chịu lời
đi giết, không được người dạy, bảo thêm rằng: nếu ngươi
có thể giết được giờ nào nên giết giờ ấy, như thế dầu
là lâu đến đâu, người giết chắc sẽ giết được, người
dạy phạm Trọng tội trong lúc dạy, người giết phạm tội
trong khi giết.
Tỳ-khưu đào giếng, đào hầm,
gài bẩy, để khí giới hoặc bỏ thuốc độc để giết người,
nếu muốn giết người nào, người ấy chết mới phạm tội,
bằng không định nghĩa rằng: "nhằm kẻ nào thì kẻ ấy
chết", như thế phạm tội theo hạng người chết; như nhằm
A la hán, cha, mẹ của Tỳ-khưu ấy chết thì phạm ngủ ngịch
đại tội và "Bất cộng trụ".
Nếu kẻ khác hoặc tinh, ngạ quỉ,
hoặc thú chết thì phạm Trọng tội hoặc Ưng đối trị.
Nếu Tỳ-khưu đưa bẩy, viết thơ
cho kẻ khác hoặc bán cho người đem dùng để giết thì phạm
tội cả 2 bên.
Nếu Tỳ-khưu ăn năn, đi đòi hoặc
mua vật ấy lại thì mới khỏi tội. Tỳ-khưu tự mình làm bẩy,
viết thơ nên đem đốt cho hết mới khỏi tội. Nếu đốt
chưa cháy hết, kẻ khác đem giết người, Tỳ-khưu cũng không
khỏi tội; thơ chưa cháy tiêu có kẻ khác đem học để giết
người, rồi giết theo thơ ấy, Tỳ-khưu cũng không khỏi tội.
Tỳ-khưu đào giếng, đào hầm cho
sanh vật chết, lúc đào phạm tội Tác ác mỗi lần đào; nếu
thú, phi nhân sa vào bẩy, Tỳ-khưu phạm tội Tác ác, thú chết
phạm Ưng đối trị, phi nhơn chết phạm Trọng tội. Người
mắc bẩy phạm Trọng tội, chết phạm Bất cộng trụ.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu không cố ý giết người,
không biết (như không biết trong cơm có thuốc độc, đem cho
kẻ khác ăn rồi chết và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội).
Ðiều học này "phạm tội vì
dạy kẻ khác giết" (sànatika) có 5 chi:
1) Loài người (manussajàtipàno)
2) Biết là người có sanh mạng (pànasannità).
3) Cố ý giết (upakkamo)
4) Ráng sức giết 1 trong 6 điều đã giải (vadhakacittam)
5) Người ấy chết vì nình ráng sức (tena maranam).
Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm
Bất cộng trụ.
Chỗ sanh tội (samutthàna vidhi)
như
trong điều học "cấm trộm cấp" (adinnàdànà
samutthàna), phạm vì làm (kiriyà), khỏi phạm vì tưởng
(sannàvimokkha).
Cố ý (sacittaka), phạm vì tội đời (lokavajja), thân nghiệp
(kàyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), ác tâm (akusalacitta), thọ
khổ (ekàvedanà).
4) Khoe pháp bậc cao nhơn
(Uttarimanussadhamma).
Tỳ-khưu khoe pháp của bậc cao nhơn
là pháp của người cao thượng mà tự mình không có, phạm Bất
cộng trụ.
Ðiều học này đức Thế Tôn cấm
chế tại phước xá, có đãnh (Rutàgàrasàlà), trong rừng Tuyết
sơn gần thành Quê-sa-li (Vèsàli), do nhóm Tỳ-khưu tu gần mé
sông "Veggumudà" khoe pháp bậc cao cho người tín ngưỡng
bố thí.
Chú giải:
Tỳ-khưu chưa giác ngộ, song là người ham muốn sự tặng
khen, rồi khoe rằng đắc pháp bậc cao thượng, mà tự mình
chưa được, nếu có người biết nghe rõ, trong khi ấy, sau rồi
bị tra hỏi hoặc không bị tra hỏi, Tỳ-khưu ấy cũng phạm
tội Bất cộng trụ. Dầu muốn được trong sạch, hoàn tục
rồi trở lại nói rằng: "Tôi không đắc đạo cao nhơn cố
ý nói đắc, là tôi nói dối", như thế ấy cũng không khỏi
phạm Bất cộng trụ.
Pháp của bậc cao nhơn là "4
thiền hữu sắc, 4 thiền vô sắc, lục thông [*]; 4 đạo, 4 quả
và Niết-bàn, 37 phần pháp Bồ đề; không tham, không sân,
không si, 3 cái giác, 8 cái giác..." Đều là pháp của bậc
cao nhân, vì người nào được các pháp ấy đều gọi là bậc
cao thượng hơn thường nhơn.
[*] lục thông là: nhãn
thông, nhĩ
thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận
thông.
Tỳ-khưu không có pháp cao nhơn
trong mình mà nói rằng "ta đắc sơ thiền... ta đắc thần
thông, ta đắc quả...", nói như thế, khi tính nói cũng biết
ta sẽ nói dối, lúc đang nói cũng biết ta đang nói dối, khoe
đến kẻ khác nghe, kẻ ấy dầu là bậc xuất gia hay cư sĩ
được hiểu biết trong khi ấy rằng: "Vị Tỳ-khưu đã
đắc thiền định đạo quả... ". Họ tin thật hoặc họ
không tin lời nói thật, Tỳ-khưu cũng phạm Bất cộng trụ.
Nếu nói đến người nghe, không hiểu
biết; Tỳ-khưu phạm Trọng tội; muốn khoe khoang mà nói mé rằng
"người nào mà ngụ trong chùa này đều là người đắc
thiền định", người nghe hiểu biết trong khi ấy, Tỳ-khưu
phạm Trọng tội. Nếu người nghe không hiểu biết, Tỳ-khưu
phạm Tác ác.
Thể thức không phạm tội:
Nói thiệt rằng mình đã đắc...
không cố ý khoe và Tỳ-khưu điên, đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người khác khoe (anànattika), có 5 chi:
1) Khoe pháp bậc cao nhơn là tự
mình không có (Uttari manussadhammassa atàni asantatà).
2) Khoe vì muốn được lợi, được khen (pàpicchatàya tassa
àrocanam).
3) Khoe theo lời của người khác (anannàpadeso).
4) Khoe nói đến người nào, người ấy là loài người
(yassu àroceti tassa manussajàtikatà).
5) Khoe mà người nghe hiểu biết rõ rệt trong khi ấy
(tamkhanam vijànanam).
Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm
tội Bất cộng trụ.
Chỗ sanh tội (samutthàna) cũng như
trong điều học trộm cắp (adinnàdànà).
Ðức Phật giải về 5 bọn cướp
lớn:
Này các Tỳ-khưu, trong Phật pháp
này có 5 bọn Tỳ-khưu cướp lớn. Này các Tỳ-khưu! 5 bọn Tỳ-khưu
cướp lớn như thế nào?
Này, các Tỳ-khưu! Có bọn cướp lớn
trong thế gian, suy xét rằng: bao giờ ta được 100 hoặc 1000 bộ
hạ quy thuận, ta sẽ vào trong xóm, làng, châu, quận giết hại
đốt phá dân cư ấy. Ðến sau, bọn cướp ấy được 100 hoặc
1000 người tùy tùng, rồi đem nhau vào xóm, làng, châu, quận
đánh đập giết hại các cư dân ấy, thế nào. Này các thầy
Tỳ-khưu! Sự suy xét của Tỳ-khưu ác trong Phật pháp này cũng
như thế. Tỳ-khưu ác ấy suy xét rằng: Bao giờ ta được 100
hoặc 1000 người sùng bái, ta sẽ vào xóm, làng, châu, quận,
ta sẽ được các thứ y, món ăn, chỗ ở và thuốc men mà
các hàng cư sĩ hoặc bậc xuất gia thành tâm cúng dường. Đến
khi sau, Tỳ-khưu ác ấy được 100 hoặc 1000 người phục tùng,
rồi vào xóm làng châu, quận, xin được y, vật thực, chỗ
ở và thuốc men và các hàng cư sĩ hoặc bậc xuất gia hết lòng
tôn kính cúng dường. Nầy các Tỳ-khưu! Tỳ-khưu ấy gọi là
kẻ cướp lớn thứ nhất, có rõ rệt trong thế gian.
Nầy các Tỳ-khưu! Còn nguyên nhân
khác nữa: trong Phật pháp này, có Tỳ-khưu ác, học hỏi
pháp luật mà Như Lai đã giảng dạy, rồi tự thiêu đốt lấy
mình. [1] Này, các Tỳ-khưu! Tỳ-khưu ấy gọi kẻ cướp lớn
thứ nhì, có rõ rệt trong thế gian.
Này, các Tỳ-khưu! Còn nguyên nhân
khác nữa trong Phật pháp này có bọn Tỳ-khưu khác vô cớ
[2] tố cáo Tỳ-khưu trì giới thanh cao đang hành pháp cao thượng
trong sạch, rằng tu hành không cao thượng [3]. Này, các Tỳ-khưu!
Tỳ-khưu ấy gọi là kẻ cướp lớn thứ ba, có rõ rệt trong
thế gian.
[1] kinh Chú giải có nói:
Tỳ-khưu
biết dạy học Phạn ngữ và lời Chú giải có tài thuyết
pháp hay, khi đã thuyết xong, có người hỏi: Ngài học với
thầy nào? Tỳ-khưu ấy dấu pháp danh của thầy, đáp: Chẳng
có thầy nào có thể dạy được ta cả, ta chỉ biết ở
nơi ta.
[2] Cáo vì không được thấy tận mắt, không được nghe,
không được nghĩ trong tâm.
[3] Cáo rằng phạm tội hành dâm
Này, các Tỳ-khưu! còn nguyên nhân
khác nữa trong Phật pháp này có Tỳ-khưu ác, muốn làm cho vừa
lòng hành cư sĩ, đem tài sản của Tăng hoặc phụ tùng là:
1) bông và cây, 2) chỗ trồng bông và cây, 3) tịnh thất, 4)
chỗ cất tịnh thất, 5) giường, 6) bàn thấp dài, 7) nệm, 8)
gối, 9) nồi, 10) cân, 11) thùng, 12) chậu làm bằng loại kim,
13) dao nhỏ, 14) búa, 15) riều, 16) xuổng, 17) vá, 18) dây, 19)
tre dài 8 ngón tay trở lên, 20) cỏ thường, 21) cỏ năn nỉ,
22) cỏ ống, 23) đất sét, 24) vật làm bằng cây, 25) vật
làm bằng đất. Này, các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ấy gọi là kẻ
cướp lớn thứ tư, rõ rệt trong thế gian.
[tài sản của Tăng từ số 9
đến
17 đều làm bằng kim loại.]
Này, các Tỳ-khưu! Tỳ-khưu nào
khoe pháp bậc cao nhơn, mà chính mình không có rõ rệt, Tỳ-khưu
ấy gọi là kẻ cướp lớn thứ năm, là kẻ cướp lớn tột
bực trong thế gian và cả luôn cõi trời, cõi Dạ ma thiên
(Yàmà), cõi Phạm thiên, trong các bọn chúng sanh cho đến Sa-môn,
Bà-la-môn và các bậc vua chúa.
Vì sao Như Lai giải như thế? Này,
các Tỳ-khưu, vì Tỳ-khưu cướp cục cơm của hàng cư sĩ
đem ăn. (đức Chánh Biến Tri muốn cho việc này được rõ rệt,
mới giải thêm kệ ngôn sau đây:).
Tỳ-khưu nào tu hành không được
trong sạch, mà làm cho kẻ khác biết mình là trong sạch, Tỳ-khưu
ấy gọi là cướp vật thực của họ, đem về dùng, như người
thợ săn núp mình bên lùm cây mong chờ bắn thú.
Tỳ-khưu chỉ dùng y ca-sa mặc cho
kín mình, nhưng tu hành theo phép xấu xa, không thu thúc (theo
pháp luật) là người rất dơ bẩn, Tỳ-khưu ấy chắc hẳn
phải đọa vào địa ngục vì tự mình gây ra nghiệp quấy.
Nên ăn cục sắt đang cháy như ngọn lữa còn tốt hơn Tỳ-khưu
phá giới không thu thúc (theo pháp luật) ăn cục cơm của hàng
cư sĩ.
-ooOoo-