Pàcittiya nghĩa là tội làm cho 
thiện 
      pháp phải sa sẩy. Tàu dịch là "Ưng đối trị", 
      nghĩa là không phải như tội chất chứa y, bình bát trái 
      phép, cho nên không phải xả, chỉ nên sám hối trước mặt 
      1, 2, 3 Tỳ-khưu hoặc giữa Tăng thì được khỏi tội.
      Có 92 điều học chia làm 9 phần:
      
        1) NÓI DỐI PHẦN THỨ NHẤT 
        (musàvàdavagga) có 10 điều học.
        2) THẢO MỘC LẦN THỨ NHÌ (bhùtagàmavagga) có 10 điều học.
        3) DẠY PHÁP PHẦN THỨ BA (ovàdavagga) có 10 điều học.
        4) VẬT THỰC PHẦN THỨ TƯ (bhojanavagga) có 10 điều học.
        5) ÐẠO LÕA THỂ PHẦN THỨ NĂM ( accelokavagga) có 10 điều học.
        6) UỐNG RƯỢU PHẦN THỨ SÁU (surà pànavagga) có 10 điều học.
        7) GIẾT CÔN TRÙNG PHẦN THỨ BẢY (sappànakavagga) có 10 điều 
        học.
        8) NÓI THEO PHÁP PHẦN THỨ TÁM (saha dhammikavagga) có 12 điều 
        học.
        9) TRONG ÐỀN VUA PHẦN THỨ CHÍN (ràjavagga) có 10 điều học.
        Tổng cộng 92 điều học.
      
      
      I. NÓI DỐI PHẦN THỨ NHẤT 
      (musàvàdavagga).
      
      1) Nói dối (musàvàdà): Tỳ-khưu nói
 
      dối phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do Tỳ-khưu Hatthaka nói dối.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu trước khi nói, trong khi nói biết là không sự thiệt, 
      rồi ra dấu giải dối, như có hỏi hỏi "thấy hay không 
      thấy" rồi dối, lúc lắc đầu cho người biết là không 
      thấy, hoặc nói dối phạm Ưng đối trị.
      Tỳ-khưu nói dối để khoe pháp bậc 
      cao nhơn, phạm Bất cộng trụ: nói dối vô cớ để cáo Tỳ-khưu 
      khác phạm Bất cộng trụ thì phạm Tăng tàn, nói dối vô cớ 
      để cáo gian Tỳ-khưu khác phạm tội Ưng đối trị, nói dối 
      vô cớ cáo gian Tỳ-khưu khác phạm tội làm quấy thì phạm 
      Tác ác, người nghe hiểu biết ý nghĩa thì phạm Trọng tội, 
      người nghe không rõ ý nghĩa thì phạm Tác ác.
      Tỳ-khưu nói dối thấy, nói không 
      thấy, nghe nói không nghe biết rằng mũi, lưỡi thân, mà nói 
      không biết hoặc không thấy, không nghe, nói có thấy, có 
      nghe, không biết, nói biết, tâm không biết, nói rằng biết 
      như thế phạm Ưng đối trị.
      Chưa suy nghĩ rồi nói gấp hoặc 
      tính nói như vầy rồi nói lên lời khác, sai lời thiệt và Tỳ-khưu 
      điên đều không phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác (anànattika) có 2 chi:
      
        - Tính nói lời không thiệt 
        (visamvàdanapurekkhàratà).
        - Ra dấu hoặc nói cho người nghe hiểu sự lý mà mình cố 
        ý muốn nói sai lời thiệt (vinnà panapayogo).
      
      Ðều đủ cả 2 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị.
      Chỗ sanh tội (samutthàna) như 
trong 
      điều học trộm cắp (adinnàdana sikkhàpada).
      2) Chưởi mắng (omasavàda)
      Tỳ-khưu chưởi rủa hoặc mắng 
      nhiếc vị khác, phạm Ưng đối trị .
      Điều học nàu Đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ Viên tịnh xá (Vihàra Jetavana) gần thành Xá Vệ, do 
      phe Lục sư chửi mắng Tỳ-khưu có giới trong sạch.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu chưởi mắng ngay trước mặt, phạm Ưng đối trị . 
      Nếu chửi mắng sau lưng thì phạm Tác ác, kể theo mỗi tiếng 
      chưởi . Tỳ-khưu cố ý chửi để giuễu chơi thì phạm Tác 
      ác, kể theo mỗi tiếng chưởi .
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Tỳ-khưu không cố ý chưởi mắng, 
      nói đạo, dạy đạo, và Tỳ-khưu điên, đều không phạm tội 
      .
      Điều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác chửi (anàpattika) có 4 chi:
      
        - Chửi Tỳ-khưu (tassa 
upasampannattà)
        - Chửi trước mặt (jàti àdihi akkosanam)
        - Người bị chửi biết răng mình bị chửi (mamakko sati 
        tijànanatà)
        - Không phải nói đạo, thuyết pháp dạy người (atthadhamma 
        purekkhàratàdinàbhàvo)
      
      Đều đủ cả 4 chi ấy thì mới phạm 
      Ưng đối trị .
      Chỗ sanh tội (samutthàna vidhi) 
như 
      trong điều học "trộm cắp" (adinnàdana sikkhàpada). Chỉ 
      khác nhau là trong điều học này thuộc về thọ khổ 
      (dukkhavedanà).
      3) Lời đâm thọc (pesunna).
      Tỳ-khưu nói lời đâm thọc vị 
      khác, phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do phe Lục sư nói dối đâm thọc các vị Tỳ-khưu khác.
      Chú giải: Tỳ-khưu nghe vị khác 
chưởi 
      Tỳ-khưu với nhau, rồi cố ý muốn cho người chưởi ấy 
      thương mình hoặc muốn cho cả 2 người chia rẽ nhau rồi nói 
      lời đâm thọc, đem lời chửi của vị này, đến nói với vị 
      kia, phạm Ưng đối trị, đều đủ mỗi tiếng.
      Nếu đem lời của Tỳ-khưu chưởi 
      không nói ngay đến Tỳ-khưu bị chưởi, hoặc đemlời của 
      Sa-di chưởi đến cho Tỳ-khưu hay, hoặc đem lời chưởi của 
      Sa-di đến cho Sa-di hay, đều phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Tỳ-khưu không cố ý muốn cho vị 
      bị chưởi thương mình, hoặc không muốn cho cả 2 vị chia rẽ 
      nhau và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người đâm thọc (anànattika) có 3 chi:
      
        - được nghe lời người chưởi 
        (không phải do người khác mà biết) rồi đem nói lại cho 
        người bị chưởi (jàti àdihi... bhikkhussa upasamharanam).
        - muốn cho người bị chưởi thương yêu mình hoặc muốn 
        cho 2 người chia rẽ nhau (piyakamyatà bhedàdhippàyesu 
        annataratà).
        - người bị chưởi hiểu biết sự lý (tassa vijjànanam).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều học 
      trộm cắp (adinnàdanà sikkhàpada).
      4) Dạy kệ pháp (padasodhamma).
      Tỳ-khưu dạy kệ pháp đến người 
      chưa tu lên bực trên (upasampanna) đọc chung cùng nhau phạm 
      Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do phe Lục sư dạy kệ đến người chưa tu lên bực Tỳ-khưu 
      và đọc chung cùng nhau.
      
      Chú giải: 
      như "rùpam aniccam" gọi là 1 câu đầu, câu sau như ‘ 
      vedanàniccà" gọi là câu nói (anupada) Tỳ-khưu dạy pháp 
      làm bằng kệ rằng: asevanàcabàlànam, đọc rồi, Sa-di đọc 
      theo, Tỳ-khưu đọc chung cùng nhau với Sa-di, rồi đọc tiếp 
      nối thêm asevanà cabàlànam, đọc chung cùng nhau như thế phạm 
      Ưng đối trị, kể theo mỗi câu.
      Tỳ-khưu dạy pháp 1 lần 2 câu như 
      là "asevanàcabàlànam panditànanca sevanà" rồi trở lại 
      đọc nữa với Sa-di, Sa-di đọc câu đầu không kịp, đọc 
      theo kịp câu thứ nhì thì rằng "pandità nan sevanà" 
      chung cùng với Tỳ-khưu như thế gọi là trước đọc khác 
      nhau, sau đọc chung cùng nhau, phạm Ưng đối trị kể theo câu 
      sau.
      Tỳ-khưu dạy Sa-di đọc "rùpam 
      aniccam vedanàaniccà", rồi Tỳ-khưu chỉ đọc đến được 
      rùpam aniccam, Sa-di lẹ miệng đọc đến vedanàanicca là câu nối 
      tiếp liền theo câu aniccam như thế phạm Ưng đối trị, kể 
      theo mỗi câu.
      Thể thức không phạm tội:
      Học Pali chung với Sa-di hoặc học 
      nơi Sa-di hoặc đọc chung nhau, tụng kinh đã đọc thuộc lòng 
      rồi hoặc Sa-di tụng sai, Tỳ-khưu dạy rằng "đọc như vầy" 
      rồi đọc chung cùng nhau, và Tỳ-khưu điên đều không phạm 
      tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác (anànattika) có 3 chi:
      
        - Người chư tu lên bậc Tỳ-khưu 
        (anupassam pannatà).
        - Dạy học pháp bằng câu kệ (vuttalakkhanam dhammam padaso 
        vàcanatà).
        - Ðọc dính chung cùng nhau (ekato osàpanam).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) dạy pháp bằng 
      kệ (padasodhamma samutthàna), phạm vì làm (kiriỳa), không khỏi 
      phạm vì tưởng (nosannavimokkha), không cố ý cũng phạm, phạm 
      tội vì Phật cấm (pannattika), khẩu nghiệp (vàcikamma), có 3 
      tâm, 3 thọ.
      5) Nằm chung trong chỗ có che lợp 
lần 
      thứ nhất (pathamasahaseyya).
      Tỳ-khưu nằm trong chỗ có dừng, lợp
 
      chung với người chưa tu lên bực trên (chưa tu lên bậc trên 
      là chưa thọ cụ túc giới làm Tỳ-khưu - upasampanna) quá 3 đêm 
      phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại pháp Aggâlava gần thành Aggalavi, do Tỳ-khưu mới xuất 
      gia ngủ quên trong phước xá chung cùng với cư sĩ.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu ngủ trong nơi dừng kín, hoặc lợp kín, hoặc lợp 
      nhiều, dừng nhiều chung với người chưa tu lên bực trên (trừ 
      ra Tỳ-khưu với nhau), dầu ngủ chung với súc sanh có khiếu 
      có thể sanh tội Bất cộng trụ. Nếu quá 3 đêm, phạm Ưng 
      đối trị, kể từ đêm thứ 4.
      Chỗ ở có dừng vách không chí với 
      nóc, cao 1 hắc, 1 gang chung quanh gọi là "chỗ ở dừng 
      kín" hết. Cho nên chỗ ở như thế dầu là lầu 7 tầng 
      hoặc nhà 4 mặt, có 100 phòng, nếu có 1 cửa ra vào chung cùng 
      nhau, cũng gọi là chỗ ở chung cùng nhau.
      Tỳ-khưu ngủ chung với người 
      chưa tu lên bực trên, trong chỗ ở như thế đến 3 đêm, rồi 
      qua ngày thứ 4, khi mặt trời đã lặn, người ấy nằm trước 
      Tỳ-khưu đóng cửa phòng hoặc không đóng rồi nằm, hoặc Tỳ-khưu 
      nằm trước, người ấy nằm sau mà Tỳ-khưu không ngồi dậy 
      thì phạm Ưng đối trị, kể theo mỗi lần nằm xuống và ngồi 
      dậy với người ấy và kể theo số người (Sa-di, cư sĩ) nằm 
      trong nơi ấy.
      Tỳ-khưu mà tưởng là Sa-di hay là 
      cư sĩ hoặc nghi rồi nằm phạm Tác ác.
      Chỗ ở lợp phần nửa dừng phần 
      nửa, lợp kín dừng ít, lợp nhiều dừng ít, dừng kín lợp 
      ít, dừng nhiều lộp ít, đều là vật phát sanh tội Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Chỗ ở lợp kín, không dừng hoặc 
      không lợp mà dừng kính hoặc không lợp nhiều, không dừng 
      nhiều đều là vật không cho phát sanh tội, ngủ đến 2 hay là 
      3 đêm hoặc trong đêm thứ 3, ra trước mặt trời mọc rồi 
      trở thêm nữa đến đêm thứ tư, Sa-di cư sĩ nằm, Tỳ-khưu 
      ngồi hoặc Tỳ-khưu nằm, đều không phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người nằm (anànattika) có 3 chi:
      
        - chỗ ở cho sanh tội Ưng đối 
        trị (pàcittiyavatthu senàsanam).
        - nằm cùng người chưa tu lên bực trên, trong nơi ấy 
        (tattha anupasampanne sahanipajjanam).
        - mặt trời đã lặn trong ngày thứ 4 (catutthadi vasesuri 
        yatthamgamanam).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều học 
      thọ lông cừu (alakaloma samutthàna).
      Phạm tội do thân, do thân ý, phạm 
      vì làm (kiriya) không khỏi phạm vì tưởng (nosannà vimokkha) 
      vô ý cũng phạm (acittaka), tội vì Phật cấm (pannttivajja) 
      thân nghiệp (kàyakamma) có 3 tâm, 3 thọ.
      6) Nằm chung trong chỗ kín lần thứ
 
      nhì (dutiyasahaseyya).
      Tỳ-khưu nằm trong chỗ lợp, dừng 
      chung cùng phụ nữ, dầu chỉ trong 1 đêm, cũng phạm Ưng đối 
      trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do đức Anuruddha vào ngủ chung trong nhà với phụ nữ.
      
      Chú giải: 
      Dầu nằm chung với phụ nữ mới sanh 1 ngày cũng phạm tội 
      Ưng đối trị.
      Chỗ sanh tội (samutthàna) như 
trong 
      điều học trước, chỉ khác nhau là điều học này dầu nằm 
      chung chỉ trong 1 đêm cũng phạm.
      Tỳ-khưu nằm chung với tinh nữ, ngạ
 
      quỉ nữ có thân hình rõ rệt, bộ nấp và thú cái là vật 
      cho sanh sự hành dâm, phạm Tác ác.
      7) Thuyết pháp đến phụ nữ 
      (dhamma desanà).
      Tỳ-khưu nói pháp quá 6 tiếng đến 
      phụ nữ, không có người nam, biết nghe chung với, phạm Ưng 
      đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do Tỳ-khưu nói pháp đến phụ nữ.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu nói pháp quá 6 tiếng đến phụ nữ như đã giải 
      trong điều học "dạy kệ đến người chưa tu lên bực 
      trên" (padasodhamma), đến phụ nữ biết nghe lời quấy phải 
      và lời thô tục, phạm Ưng đối trị, kể theo số phụ nữ, 
      theo câu kệ, trừ ra có người nam biết nghe ở chung với, 
      như đã có nói trong điều học "bất định thứ nhì" 
      thì không phạm tội.
      Không phải phụ nữ, tưởng là phụ 
      nữ hoặc nghi rồi mới nói pháp đến tinh nữ, ngạ quỉ nữ, 
      bộ nấp và thú cái có thân hình như người thì phạm Tác 
      ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Tỳ-khưu chỉ nói pháp đến 6 tiếng, 
      hoặc ít hơn 6 tiếng hoặc có người nam như đã có giải ở 
      chung với hoặc Tỳ-khưu nói rồi ngồi xuống, rồi nói tiếp 
      thêm, hoặc phụ nữ đứng dậy, rồi ngồi xuống, rồi Tỳ-khưu 
      nói tiếp thêm, hoặc nói pháp đến phụ nữ khác, hoặc phụ 
      nữ hỏi đạo, Tỳ-khưu đáp và Tỳ-khưu điên đều không phạm 
      tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người nói pháp (anànattika) có 5 chi:
      
        - Nói pháp quá 6 tiếng (channam 
        vàpànam uparidesanà).
        - Phụ nữ như đã có giải (vuttalahhkanomàtugàmo).
        - Không thay đổi oai nghi (iriỳa patha parivattanàbhàvo).
        - Không có người nam biết nghe ở chung với (vinnupurisàbhàvo).
        - Không có sự luận đạo (apanhavisajjanà).
      
      Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị . Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều 
      học "dạy kệ pháp đến phụ nữ" (padasodhamma samutthàna) 
      chỉ khác nhau là điều học này phạm vì làm và không làm 
      (kiriỳa akiriyà) làm là: thuyết quá 6 tiếng, vì không làm là 
      "không đổi oai nghi".
      8) Khoe sự thiệt (bhuttàrocana).
      Tỳ-khưu khoe pháp bậc cao nhơn mà 
      tự mình đã đắc, đến người chưa tu lên bực trên, phạm 
      Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Phước xá Kùtàgàra gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) do chư Tỳ-khưu 
      khoe pháp bậc cao nhơn cùng nhau.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu khoe pháp bậc cao nhơn như là đắc thiền định mà 
      chính mình đã được, đến người chưa tu lên bực trên, phạm 
      Ưng đối trị.
      9) Khai tội nặng 
(dutthullàrocana).
      Tỳ-khưu nói tội nặng là (là tội 
      Tăng tàn) mà vị khác đã phạm, đến người chưa tu lên bực 
      trên, phạm Ưng đối trị, trừ ra Tăng cho phép nói.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Vihàra Jetavana) gần thành Xá Vệ 
      (Sàvatthi) do phe Lục sư nói tội Tăng tàn của Tỳ-khưu 
      Upananda đến người thế.
      
      Chú giải: 
      không phải tội nặng Tỳ-khưu tưởng là tội nặng, nghi rồi 
      nói hoặc nói phạm 5 tội khác (Trọng tội, Ưng đối trị,... 
      ) đến người chưa tu lên bực trên, phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Nếu chỉ nói ngăn điều học rằng, 
      "Tỳ-khưu này cố ý cho tinh di hoặc đụng chạm phụ nữ 
      hoặc chỉ tội rằng: Tỳ-khưu này phạm Tăng tàn, phạm Trọng 
      tội", hoặc "Tăng" cho phép nói đến đâu thì 
      nói đến đó và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội".
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác nói (anànattika) có 3 chi:.
      
        - Nói tội Tăng tàn của Tỳ-khưu 
        cả và cách phạm tội (savatthukosanghàdiseso).
        - Nói đến người chưa tu lên bực trên (anupasampannassa 
        arocanam).
        - Tăng không cho phép (bhikkhusammatiyabhavo).
      
      Chỗ sanh tội (samutthàna vidhi) 
như 
      trong điều học "trộm cắp", chỉ khác nhau là điều 
      học này thuộc về thọ khổ.
      10) Đào đất (pathàvìkhanana).
      Tỳ-khưu đào đất, hoặc dạy người 
      khác đào đất bằng lời không nên, phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Tháp Aggàlava gần thành Àlavi do phe Tỳ-khưu Alavi đào đất 
      và dạy người khác đào đất.
      
      Chú giải: 
      Đất có 2 thứ: đất có đất nhiều hơn các vật khác 
      (jàtapathavì) và đất có đất ít hơn các vật khác.
      Đất 
      thứ nhất toàn là đất phân, đất sét, đất có đá ít, có 
      sỏi ít, đất có cát ít, có phần đất nhiều, có đất sét 
      nhiều, hoặc đất mà họ chưa từng đốt, hoặc đống phân 
      đất, đống đất sét mà chưa có mưa xuống nhằm trên 4 
      tháng gọi là đất phì (đất tốt).
      Đất 
      thứ nhì: đất toàn là đá, toàn là sỏi, toàn là cát có đất 
      phần ít, có đất sét ít có cát nhiều, đất đã có người 
      đốt rồi gọi là Đất chai (ajàtapathavì). Đất toàn là sỏi, 
      đá, cát thì không phạm tội.
      Tỳ-khưu cố ý đào hoặc dạy người 
      đào bằng lời không nên, làm cho đất nẻ, bể, lở, phạm 
      Ưng đối trị. Kể theo mỗi lần làm. Tỳ-khưu dạy nói 
      "ngươi hãy đào" dạy, dầu đào suốt ngày, chỉ phạm 
      1 tội Ưng đối trị thôi, người dạy nhiều lần phạm nhiều 
      tội Ưng đối trị. đất Tỳ-khưu nghi, không phải đất tưởng 
      là đất, hoặc nghi rồi làm cho cử động, phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Ðất cục không dính với đất liền, 
      đất lở không phạm, hoặc nói "ngươi hãy biết cái lỗ 
      cật này, ngươi hãy cho tôi đất này, ngươi hãy lầy đất này 
      cho tôi, tôi cần dùng đất", không cố ý làm cho cử động, 
      hoặc dùng ngón chân, tay, xủi đất, hoặc tưởng không phải 
      là đất đều không phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người (anànattika) có 3 chi:
      
        - Chất đất phì (jàtapathavità)
        - Biết là đất (pathavisannità).
        - Tự mình đào hoặc dạy người khác đào 
        (khananakhanàpanànam anntaram).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      tội. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều học trộm cắp 
      (adinnàdàna samutthàna), chỉ khác nhau là trong điều học này 
      phạm tội vì Phật cấm (pannattivajja) có 3 tâm, 3 thọ.
      II. THẢO MỘC PHẦN THỨ NHÌ 
      (Bhùtagàmavagga).
      Có 10 điều học:
      1) Phá hoại thảo mộc (Bhùtagàma).
      Tỳ-khưu phá hoại cây cỏ sanh, mọc 
      trên đất hoặc trong 1 nơi nào, cho đứt lìa, gãy, tét, phạm 
      Ưng đối trị .
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Tháp Aggalava gần thành Aggàvi, do Tỳ-khưu đốn cây làm 
      các công việc.
      
      Chú giải: 
      Các thứ cây cỏ, dầu nhỏ nhem đến đâu (rong rêu), mọc 
      trong một nơi nào chẳng hạn, Tỳ-khưu đã biết mà tự mình 
      dạy kẻ khác nhổ, chặt, bẻ làm cho lìa khỏi chỗ nó mọc, 
      phạm Ưng đối trị .
      Các thảo mộc mà người đã đào 
      đã nhổ khỏi chỗ nó mọc dù không có rể, mụt, củ, hột... 
      mà còn giống (bìjagàma), họ đem để trong đồ đựng hoặc 
      cất trong một nơi nào (có thể còn gieo trồng nữa được) mà 
      Tỳ-khưu làm hại thì phạm Tác ác. Nghi trong thảo mộc, hoặc 
      các thứ giống thảo mộc, không phải thảo mộc tưởng là 
      thảo mộc hoặc giống của thảo mộc, phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Thảo mộc hoặc giống của thảo mộc 
      tưởng là không phải rồi làm hại, Tỳ-khưu điên vô ý hoặc 
      kéo cây, lăn đá mà thảo mộc chết đều không phạm tội. 
      không cố ý giết hại, không cố ý nhớ như Tỳ-khưu nói 
      chuyện cùng nhau mà lấy ngón chân hoặc tay làm hại thảo mộc 
      cũng không phạm tội hoặc nói người nên biết bông cây 
      này,trái cây này cho tôi dùng được. Nói như thế không phạm 
      tội.
      Khi ăn rau, cần phải nhờ Sa-di 
hoặc 
      thiện tín làm cho có thể ăn được khỏi phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác (anànattika) có 3 chi:
      
        - Thảo mộc (dhutagamo).
        - Biết là thảo mộc (bhutagamasannita).
        - Tự mình hoặc dạy kẻ khác phá hoại (vikopanam 
        vàvikapàpanamvà).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều học 
      đào đất (Pathavìkhananam).
      2) Lời nói tráo trở (annavàdaka).
      Tỳ-khưu làm quấy, Tăng đã gọi 
      đến hỏi tra mà cố ý nói tráo trở, hoặc nín thinh không 
      nói. Nếu Tăng đã tụng lời khuyên răn, mà còn giữ thái độ 
      như thế phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại tịnh xá Ghosita gần thành Kosambi do Tỳ-khưu Channa làm quấy, 
      đến Tăng hỏi mà nói tráo trở.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu cố ý muốn dấu lỗi, nòi tráo trở như nói "ai 
      phạm, phạm tộigì", làm khó cho Tăng, phạm Tác ác. đến 
      khi Tăng đã tra hỏi mà còn tráo trở nữa, hoặc nín thinh phạm 
      Ưng đối trị.
      Tỳ-khưu không làm khó cho Tăng, 
không 
      nói tráo trở như thế phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Tỳ-khưu không biết tội hoặc 
      không biết mình phạm tội hoặc hỏi "ngài hỏi thế 
      nào", và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
      Ðiều học này có 3 chi:
      
        - Tụng để cáo tội (dhammakamme 
        àropita).
        - Tăng tra hỏi tội hoặc điều phạmtội (ànuyujjiyamànatà).
        - Nói tráo trở, hoặc nín thinh, vì muốn dấu lỗi 
        (patticaranamvà tunhìbhàvovà).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều 
      học trộm cắp (adinnàdàna samutthàna).
      3) Tỳ-khưu nói xấu vị khác 
      (ujjhàpanaka).
      Tỳ-khưu nói xấu vị khác mà Tăng 
      đã chỉ định để làm việc cho Tăng như lót chỗ ngồi, hoặc 
      chia tài vật, nếu vị ấy làm việc cho Tăng được đúng đắn, 
      Tỳ-khưu nói xấu, phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Trúc Lâm tịnh xá (Vihàra veluvàna) gần thành Vương xá 
      (Ràjagaha). do phe Lục sư nói xấu đức A la hán Dabbamallaputta.
      
      Chú giải: 
      Nếu Tỳ-khưu mà Tăng đã chỉ định hành đúng theo phép, 
      thì vội nói xấu phạm Ưng đối trị, hành không đúng theo 
      phép vị nói xấu thì phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Tỳ-khưu nói xấu vị khác hành 
      theo 4 pháp tây vị (agati) (như thương riêng) nghĩa là: không 
      làm đúng phép và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác nói xấu (anànattika) có 6 chi:
      
        - người mà Tăng đã chỉ định 
        hành đúng theo phép (djamma kammena sammatàta).
        - người mà Tăng chỉ định ấy là Tỳ-khưu (upasampannatà).
        - làm không tây vị (agatigamanàbhàvo).
        - cố ý cáo tội đến người ấy (tassa avannakàmatà).
        - cáo tội hoặc nói xấu dếnngười nào, người ấy là Tỳ-khưu 
        (tassa upasampannatà).
        - cáo tội hoặc nói xấu (ujjhàpanam vàkhi yanamvà).
      
      Ðều đủ cả 6 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều 
      học trộm cắp (adinnàdàna samutthàna). Chỉ khác nhau là: điều 
      học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanà).
      4) Chỗ ngồi nằm thứ nhất 
      (pathama senàsana).
      Tỳ-khưu lấy tọa cụ của Tăng 
      đem trãi nằm trong thất của Tăng, khi đi khỏi nơi ấy, mà 
      không dọn, hoặc không nhờ người khác dẹp cất, phạm Ưng 
      đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do chư sư đem vật lót ngồi, nằm nơi trống mà không dọn cất.
      
      Chú giải: Ngoài 
      4 tháng mưa, trong nơi mát, dưới cội cây mà thú không đại, 
      tiểu tiện nhằm, Tỳ-khưu để ngọa cụ nơi ấy, đi ra khỏi 
      không phạm tội. Tỳ-khưu lót cho các vị khác mà các vị 
      này không ngồi trong nơi ấy, hoặc không nói "Ông đi 
      đi" thì còn về phận sự người lót trải. Tỳ-khưu ngồi 
      trên bàn ghế,giường mà tự mình dọn ra, hoặc nhờ người 
      dọn ra cho mình, các vật ấy đều về phận sự mình.
      Tỳ-khưu đứng trong nhà ăn, dạy 
rằng: 
      người đem để trong giữa chùa rồi đi. Tỳ-khưu ấy ra khỏi 
      nhà ăn, đi đến nơi khác như thế, nên cho luật sư phạt tội.
      Nếu chỗ ngồi nằm của Tăng thì 
      phạm Ưng đối trị, vật riêng của Tỳ-khưu thì phạm Tác 
      ác.
      Tỳ-khưu ngụ trong rừng, nếu không 
      có chỗ che mưa, đem các vật ấy để trên nhánh cây cho khỏi 
      thú phá hoại (như mối ăn) rồi đi khỏi nơi ấy cũng được.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Chỗ ngồi nằm của mình và Tỳ-khưu 
      thân thiết nhau, không phạm tội, tự mình cất hoặc nhờ người 
      khác cất, hoặc gởi đem phơi, rồi đi tính sẽ trở lại dọn 
      cất, hoặc có người ở hoặc có Tỳ-khưu trưởng lão [*] lại 
      đuổi, hoặc cho Sa-di, người thế đến lấy, có thú dữ đến 
      đứng nơi ấy, không được dọn dẹp rồi đi khỏi vì sợ 
      có điều hại hoặc khó tu hành, và Tỳ-khưu điên đều không 
      phạm tội.
      
        
        [*] nếu có vị trưởng lão 
bảo 
        dậy, hoặc có tinh, ngạ quỉ đến ngồi nơi ấy hoặc có 
        quan lớn đến ngồi nơi ấy, bỏ đi khỏi phạm tội.
        
      
      Ðiều học này phạm tội vì dạy 
      người khác (sànattika) có 6 chi:
      
        - Nhất là giường, bàn thấp dài 
        của Tăng (mancàdinam samghikatà).
        - Tự mình hoặc dạy người đem ra ngồi nằm trong chỗ đã 
        nói (santhàranam và santhàràpanamvà).
        - Không có người lại tranh giành (abalibuddhatà).
        - Không có điều hại (àpadàyàbhàvo).
        - Không cố ý trở lại dẹp cất (nirapekkhatà).
        - Ði khỏi nơi ấy (lenducàtàtikkamo).
      
      Chỗ sanh tội (samutthànavidhi) như
 
      trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất 
      (pathamakathinasamuttàna). Chỉ khác nhau là điều học này phạm 
      vì làm là dọn ra, và không làm là không dọn cất, hoặc 
      không gởi cho người khác (kiriỳakiriyà).
      5) Chỗ ngồi nằm thứ nhì (dutiya 
      senasana).
      Tỳ-khưu đem gởi ngọa cụ của 
      Tăng lót nằm trong thất của Tăng, khi đi khỏi nơi ấy, không 
      dọc cất, hoặc không nhờ người khác dọn, phạm Ưng đối 
      trị .
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do phe Thập thất sư đến trải lót ngọa cụ rồi bỏ ra đi 
      không dẹp nên bị mối ăn hư hết.
      
      Chú giải: 
      các thứ ngọa cụ của Tăng, nệm, y lót lưng, y lót giường, 
      y đắp, chiếu, đệm, da, tọa cụ có bìa... Tỳ-khưu lấy 1 
      thứ tọa cụ nào đem lót nằm trong chùa, thất của Tăng, rồi 
      không đem cất, hoặc không nhờ kẻ khác cất, đi ra khỏi 
      nơi ấy, 1 buớc đầu phạm Tác ác, khỏi bước thứ 2 phạm 
      Ưng đối trị. trong nơi nào không có điều hại, dầu không 
      gởi rồi cũng phạm, gởi là phận sự của Tỳ-khưu. Trong chỗ 
      của Tăng thì phạm Ưng đối trị, trong chổ của Tỳ-khưu thì 
      phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Chỗ ở của mình hoặc của Tỳ-khưu 
      thân thiết tự mình dọn cất hoặc nhờ người dọn cất, hoặc 
      có người tranh dành (như đã có giải) rồi bỏ đi, hoặc tính 
      sẽ lại dọn cất trong ngày ấy, hoặc đi rồi tính trở lại 
      nhưng có tai hại không trở lại được và Tỳ-khưu điên đều 
      không phạm tội.
      Ðiều học này phạm tội vì dạy 
      người khác (sànattika) có 7 chi:
      
        - chỗ nằm như đã nói 
        (vuttalakkhanàseyà).
        - chỗ nằm ấy của Tăng (tassàsamghikatà).
        - mình lót trải hoặc dạy người khác lót trải trong nơi 
        như đã nói (santharanam và santharàpanamvà).
        - không có người tranh dành (aPalibhudhatà).
        - không có điều hại (àpadàyàbhàvo).
        - đi đến nơi khác,không cố ý trở về (anapekkhasSa-disà 
        pakkamanam).
        - đi khỏi ranh chùa (upacàra simàtikkamo).
      
      Ðều đủ cả 7 chi ấy mới phạm 
      tội.
      Chỗ sanh tội (samutthàna) như 
trong 
      điều học trên.
      6) Chen lấn (anupakhajja).
      Tỳ-khưu biết là thất của Tăng 
      đã có vị khác vào ngụ trước rồi, cố ý lấy đồ trải 
      lót ngồi, hoặc nằm chen lấn trong nơi ấy, làm cho vị đã 
      vào ngụ trước phải chịu chật hẹp, khó khăn, rồi bỏ đi 
      rakhỏi, phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do phe Lục sư dành chỗ ở tốt đẹp làm cho chư trưởng lão 
      phải khó khăn.
      
      Chú giải: 
      tự mình hoặc dạy kẻ khác lót trải ngọa cụ trong chỗ ở 
      của Tăng, phạm Tác ác, ngồi hoặc nằm phạm Ưng đối trị. 
      Trong chỗ ở của Tỳ-khưu phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Lót trải trong chỗ ở của mình hoặc
 
      trong chỗ ở của Tỳ-khưu thân thiết, trong chỗ ở của Tỳ-khưu 
      bịnh, hoặc vì có điều hại, và Tỳ-khưu điên đều không 
      phạm tội.
      Ðiều học này không phạm tội vì 
      dạy người khác (anànattika) có 4 chi:
      
        - Chỗ ở của Tăng 
(sanghikahàratà).
        - Biết rằng đã có người vào trước không nên chen lấn 
        (anumatthàpaniyabhàvajànanam).
        - Cố ý làm cho Tỳ-khưu ấy chật hẹp (sambàdhetukàmatà).
        - Ðã ngồi hoặc nằm trong nơi ấy (upacàre nisìdanamvà 
        nippajùnamvà).
      
      Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị . Chỗ sanh tội (samutthànavidhi) như trong 
      điều học Bất cộng trụ thứ nhất (pthama pàràjika), chỉ 
      khác nhau là điều học này thuộc về thọ khổ 
      (dukkhavedanà).
      7) Lôi Tỳ-khưu ra khỏi thất 
      (nikaddhana).
      Tỳ-khưu giận hờn vị khác rồi 
      lôi kéo hoặc đuổi vị ấy ra khỏi thất của Tăng, phạm 
      Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do phe Lục sư dành chỗ ở nên kéo lôi phe Thập thất sư.
      
      Chú giải: 
      Tỳ-khưu giận đuổi, dạy người khác lôi kéo, trong khi dạy 
      phạm Tác ác, đuổi hoặc lôi ra khỏi cửa thất, phạm Ưng 
      đối trị, đuổi, hoặc kéo hoặc lôi ra khỏi chỗ ở Tỳ-khưu 
      phạm Tác ác. đuổi Sa-di, liệng vật dụng ra khỏi chỗ ở của 
      Tăng, phạm Tác ác, kể theo mỗi vật dụng.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Kéo lôi ra khỏi chỗ ở của 
      mình,hoặc chỗ ở của Tỳ-khưu thân thiết, hoặc can gián người 
      cãi cọ rồi liệng vật dụng của cải ra khỏi chỗ ở của 
      Tăng, hoặc ép Tỳ-khưu phá giới, đệ tử của mình làm quấy, 
      hoặc liệng vật dụng của người làm quấy và Tỳ-khưu điên 
      đều không phạm tội.
      Ðiều học này phạm tội vì dạy 
      người khác (sànattika) có 3 chi:
      
        - chỗ ở của Tăng 
(sanghikahàratà).
        - kéo lôi Tỳ-khưu vô tội, không cãi cọ 
        (bhandanakàrakabhàvàdivimuttatà).
        - tự mình kéo hoặc dạy người khác kéo lôi Tỳ-khưu ấy 
        vì giận hờn (kopenanikadhanamvà nikaddhàpanamvà).
      
      Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthànavidhi) như trong 
      điều học trộm cắp (adinnàdànà sikkhàpada) . Chỉ khác nhau 
      là điểu học này thuộc về thọ khổ (dukkhavedanà).
      8) Gác trong thất (vehàsakùtì).
      Tỳ-khưu ngồi hoặc nằm trên giường,
 
      ghế mà họ chỉ kê đỡ, chưa làm thiệt chắc, để trên 
      gác trong thất, phạm Ưng đối trị.
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) 
      do Tỳ-khưu ở trên gác, ngồi trên giường mà họ kê sỡ, rớt 
      xuống nhằm đầu Tỳ-khưu ở tầng dưới.
      9) Tịnh thất lớn (mahallaka).
      Tỳ-khưu dùng đất và vôi tô tịnh 
      thất chỉ được phép tô nhiều lắm là 3 lớp, nếu tô quá 
      3 lớp phạm Ưng đối trị .
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại tịnh xá Ghosita gần thành Kosambi do Tỳ-khưu Channa tô thất 
      lớp nhiều lớp làm cho thất phải ngã sập.
      
      Chú giải: 
      Phải đứng tránh chỗ cây xanh (cây, cỏ) là đứng xa cho khỏi 
      ruộng, vườn, mà người có trồng cây, gieo mạ, trồng 
      dâu... Nếu đứng trong các nơi ấy mà tô, sơn, phết, phạm Tác 
      ác.
      10) Nước có côn trùng (sappànaka).
      Tỳ-khưu biết nước có côn trùng 
      sống rồi đem tưới cây, cỏ, hoặc tưới đất phạm Ưng đối 
      trị .
      Ðiều học này đức Phật cấm chế 
      tại tháp Aggàlava, gần thành Aggalavi, do các Tỳ-khưu xứ 
      Aggalavi dùng nước tưới côn trùng đem tưới cỏ, đất.
      
      Chú giải: 
      Liệng cây, cỏ xuống chỗ nước ít làm cho côn trùng chết, 
      liệng 1 lần phạm 1 tội.
      Trong nước không có côn trùng 
tưởng 
      là có, hoặc nghi, rồi đem tưới cây cỏ, phạm Tác ác.
      
      Thể thức không phạm tội:
      
      Tưới vì tưởng là nước không 
      có côn trùng, không cố ý, quên không biết, và Tỳ-khưu điên 
      đều không phạm tội.
      Ðiều học này phạm tội vì dạy 
      người khác (anànattika) có 4 chi:
      
        - Nước có côn trùng sống 
        (udakassasasappànakatà).
        - Biết rằng côn trùng sẽ chết vì sự tưới nước 
        (marissantitijànanam).
        - Nước sẽ rút hết (tabbà udakamtàdisameva).
        - Như đem nước tưới cỏ, vì 1 lẽ gì (tinàndinamsibbànam).
      
      Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm 
      tội Ưng đối trị. Chỗ sanh tội (samutthànavidhi) như trong 
      điều học trộm cắp (adinnàdànà sikkhàpada). Chỉ khác nhau 
      là điều học này phạm tội vì Phật cấm (pannattivajja), có 
      3 tâm, 3 thọ.
      
      -ooOoo-