Ưng xả đối trị nghĩa là phạm
phép chứa cất y càsa, bình bát, vàng, bạc, trái luật, nếu
chịu xả vật ấy giao cho Tăng rồi sám hối mới được khỏi
tội.
Chia làm 3 phần:
1) Lễ dâng y lần thứ nhất.
(cìvaravagga) có 10 điều.
2) Ngọa cụ trộn với chỉ tơ lần thứ nhì (kositavagga) có
10 điều.
3) Bình bát dư lần thứ ba (pattavagga) có 10 điều.
1) LỄ DÂNG Y LẦN THỨ NHẤT.
Có 10 điều học:
1/- Lễ Dâng Y Lần Thứ Nhất
(pathama kathina).
Y chưa gởi, chưa nguyện gọi là y
dư (atirekacìvara) khi hết hạn quả báo lễ Dâng y rồi Tỳ-khưu
đem cất giữ y dư ấy, lâu lắm là đến 10 ngày. Nếu quá 10
ngày phạm Ưng xả đối trị, nghĩa là y ấy, là vật phải xả,
còn Tỳ-khưu phạm Ưng xả đối trị (pacittiya).
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại tháp Gotamaka gần thành Xá vệ (Sàvatthi) do Ànanda hỏi Phật.
Chú giải:
Y có 6 thứ:
- Y dệt bằng chỉ vỏ cây
(khomam).
- Y dệt bằng chỉ bông (kappàsikam).
- Y dệt bằng chỉ tơ (koseyyam).
- Y dệt bằng lông thú (trừ lông củ người, lông đuôi,
lông cánh của thú) (kambalam).
- Y dệt bằng cây gai (sànam).
- Y làm trộn với 5 thứ chỉ trên (bhangam).
Tất cả y làm bằng 1 trong 6 thứ
chỉ ấy, nếu Tỳ-khưu cất giữ đến mặt trời mọc đến
ngày thứ 11 kể từ ngày thọ y mà không gởi, không nguyện,
không xả, trong hạn kỳ 10 ngày, thì phạm Ưng xả đối trị.
Nếu không xả cho Tăng, cho 1, 2 hoặc 3 Tỳ-khưu trước mà
đem ra mặc, phạm Tác ác (dukkata).
Y đã quá 10 ngày Tỳ-khưu biết rằng
quá 10 ngày hoặc nghi, hoặc tưởng chưa quá cũng phạm Ưng xả
đối trị.
Y chư quá 10 ngày tưởng đã quá,
hoặc nghi đem ra mặc, phạm Tác ác.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu đã nguyện, gởi, xả cho
người nào trước 10 ngày, y thấy tiêu mất, bị lửa cháy, bị
trộm cắp, và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) có 5 chi:
- Y của mình (cìvarassa
attanosantakatà).
- Y ấy đã đến tay mình, hoặc được nghe rồi là y của
mình (gananupagàtà).
- 2 điều bận (Palibodha) đã dứt (niccha Palibodhabhàvo)
[xem trong Kathina-khandhaka]
- y ấy là y dư (atirekacivaratà).
- đã quá 10 ngày (dasàhàtikamo).
Đều
đũ cả 5 chi ấy mới phạm Ưng xả đối trị.
Chỗ sanh tội như trong điều học
lễ dâng y lần nhứt (pathamakathina), phạm tội phát sanh do
thân nghiệp (kayakamma), do thân khẩu ý (kàyavàcàcitta), phạm
vì không làm (akiriyà), không khỏi phạm vì tưởng
(nosannàvimokkha),
vô ý cũng phạm (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannàttivajja),
thân nghiệp (kàyakamma), khẩu nghiệp (vacìkamma), có 3 tâm
(ticittam), có 3 thọ (tissovedanà).
2/- Lễ Dâng Y Lần Thứ Nhì (dutiya
Kathina).
Khi mãn hạn kỳ quả báo lễ Dâng
y rồi, Tỳ-khưu còn xa lìa Tam y, dầu chỉ trong 1 đêm cũng phạm
Ưng xả đối trị, trừ ra Tỳ-khưu có bịnh và được Tăng
cho phép (điều học này gọi là "uddosita" cũng được.).
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do đức Ànanda đi thấy Tỳ-khưu đem y để hong nắng rất nhiều,
nên hỏi thăm mới hay là y của chư Tỳ-khưu gởi, bỏ đi đến
xứ khác, do cớ ấy, đức Ànanda bèn bạch với Phật.
Chú giải:
Tỳ-khưu để y trong chỗ không có ngăn, che, phải ở trong
nơi ấy không nên ở xá 1 hắc, 1 gan. Nếu nơi ấy có nhiều
chủ, là nơi có ngăn che, để y nơi nào, phải ở trong nơi
ấy, hoặc ở trong chỗ đô hội, hoặc gần cửa là nơi vô
ra, không nên xa lìa khỏi hắc (hatthapàsa). Nếu để xa khỏi
hắc đến mặt trời mọc, phạm Ưng xả đối trị.
Phải xả y ấy đến Tăng, đến 2,
3 Tỳ-khưu hoặc đến một Tỳ-khưu, nên mới mặc được, phải
xả trước rồi sám hối sau mới khỏi tội.
Tam y mà Tỳ-khưu đã xa lìa rồi,
biết rằng đã xa lìa, hoặc nghi, hoặc tưởng, không xa lìa cũng
phạm Ưng xả đối trị.
Tam y mà Tỳ-khưu chưa xa lìa,
tưởng
rằng đã xa lìa hoặc nghi rồi đem, mặc phạm Tác ác.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu đã nguyện gởi... trước
khi mặt trời mọc, Tỳ-khưu có bịnh có Tăng cho phép và Tỳ-khưu
điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm vì dạy
người (anànattika) có 4 chi:
- Y mà Tỳ-khưu đã nguyện đặt
tên rồi (adhitthita cìvaratà).
- Không có quảbáo lễ Dâng y (anatthatakathinatà).
- Không có Tăng cho phép (aladdhasammatità).
- Ở xa y ấy đến khi mặt trời mọc(rattivikappavàso).
Ðều đủ cã 4 chi ấy phạm Ưng đối
trị.
Chỗ sanh tội trong điều học
"lễ dâng y lần thứ nhất" chỉ khác nhau là điều học
trước không được nguyện, không được gửi gọi là phạm
"vì khônglàm "(akirayà), trong điều học này vì không
xả nguyện trước khi mặt trời mọc gọi là phạm vì không
làm" (akiriyà).
3/- Lễ Dâng Y Lần Thứ 3 (Tatiya
Kathina).
Nếu vải phát sanh ngoài lễ dâng y
(akàlacìvara) đến Tỳ-khưu [*], Tỳ-khưu được rồi muốn
làm y nhưng vải ấy thiếu,không đủ, nếu cố ý để tìm
thêm hoặc tin chắc rằng sẽ được vải nữa, nên để vải
ấy lâu lắm đến 1 tháng phạm Ưng xả đối trị.
[*] xem trong
Kathina-khandhaka: tam y
phát sanh trong 11 tháng, từ 16/10 năm này đến rằm tháng 9 năm
sau, gọi là y ngoài lễ dâng y.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Ngài ngự xem thấy Tỳ-khưu được vải muốn làm y mà thiếu,
song cố ý tìm vải thêm để may y.
Chỗ sanh tội như trong điều học
lễ Dâng y lần thứ nhất, chỉ khác nhau là điều học này
để quá 1 tháng.
4/- Dạy Tỳ-khưu ni giặt y (cìvara
dhovana).
Tỳ-khưu sai Tỳ-khưu ni không phải
bà con đi giặt y hoặc nhuộm y cũ, phạm Ưng đối trị (điều
này gọi là purànacìvara cũng được).
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Udàyi sai Tỳ-khưu ni là vợ cũ đi giặc y.
Chú giải: Tỳ-khưu bảo Tỳ-khưu
ni không phải bà con đi giặc, nhuộm y cũ đã có mặc rồi, dầu
chỉ đã mặc 1 lần, cũng phạm Ưng xả đối trị.
5/- Lãnh y nơi tay Tỳ-khưu ni
(cìvarappatigahana).
Tỳ-khưu thọ y nơi tay Tỳ-khưu ni
không phải bà con phạm Ưng xả đối trị, trừ ra đổi y với
nhau.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana) gần thành Vương xá
(Ràjagaha) do Tỳ-khưu Udàyi lãnh y nơi tay Tỳ-khưu ni.
6/- Xin y nơi người không phải bà
con (annatakavinnatti).
Tỳ-khưu xin y nơi người thế không
phải bà con, không phải người có yêu cầu, nếu xin được
y phạm Ưng xả đối trị (trừ ra có duyên cớ nên xin y được,
là khi y bị cướp, hoặc bị hư, mất, cháy).
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Upananda xin y nơi nhà phú trưởng giả không phải
bà con.
Chú giải:
thí chủ là bà con, Tỳ-khưu tưởng không phải bà con, nghi rồi
đi xin phạm Tác ác.
Thể thức không phạm tội:
Xin có duyên cớ (duyên cớ là
lúc y bị cướp mất, lửa cháy, nước lôi, mối ăn, cũ rách),
hoặc xin nơi bà con, hoặc nơi người có yêu cầu, xin cho
người khác, đổi với nhau và Tỳ-khưu điên đều không phạm
tội.
Nếu có cớ, đức Phật cho phép
xin y nơi người không phải bà con, nếu chưa được xin đi đến
chùa trước, dùng y để trong chùa, y để trải giường, nệm
của Tăng trong chùa này rồi sẽ trả lại cũng nên. Nếu
không có ý như thế, nên che mình bằng cỏ hoặc lá cây rồi
mới nên đi, nếu đi lõa thể, phạm Tác ác.
Người thế có đức tin bạch rằng
"tôi yêu cầu bố thí 4 món vật dụng, nếu đại đức cần
dùng món chi xin cho tôi biết, tôi sẽ dâng" như thế gọi
là yêu cầu, người yêu cầu bố thí ngay món nào, nếu cần
dùng chỉ nên xin món ấy. Dâng sao dùng vậy chẳng nên đòi hỏi
thêm.
Xin nơi bà con và người yêu cầu
của
mình, xin cho Tỳ-khưu khác không phạm.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) nhờ Tỳ-khưu khác đi xin nơi bà con
và người yêu cầu của Tỳ-khưu cho mình, không phạm tội,
có 4 chi:
- Y có thước tất vừa gởi
(vikappanupagacìvaratà).
- Không có duyên cớ (samaỳabhàvo).
- Xin nơi người không phải bà con (annatakavinnattita).
- Xin được (patilàbho).
Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm
Ưng xả đối trị.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học làm mai dong (sancarita samutthàna), phạm vì làm
(kiriyà), không khỏi phạm vì tưởng (nosannavimokkha), vô ý cũng
phạm (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannattivajja), thân nghiệp
(kàyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), có 3 tâm(ticitam), có 3 thọ
(tissovedanà).
7/- Trong mấy duyên cớ ấy
(Taduttara).
Trong mấy duyên cớ ấy, Tỳ-khưu
chỉ được phép xin y nội và y vai trái thôi (antaravàsaka,
uttàsanga), nếu xin quá số xin được, thì phạm Ưng xả đối
trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do chư Tỳ-khưu phe Thập thất sư, tìm các Tỳ-khưu bị mất
y rồi dạy đi xin y rất nhiều.
Chú giải:
Tỳ-khưu cố ý muốn xin nhiều y nơi người không phải bà
con, ra đi mỗi bước phạm mỗi tội ác, nếu xin được y phạm
Ưng xả đối trị.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu nói "ta chỉ làm 2 cái
y còn dư ta trả lại", thí chủ nói "vải còn dư xin
để dâng ngài", xin nơi bà con hoặc người có yêu cầu
và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) có 4 chi:
- Vui thích trong y nhiều quá số
(tasuttarita).
- Không có duyên cớ mất hết y (acchinnàdikàramatà).
- Xin y nơi người không phải bà con (annàtakavinnathità).
- Xin y được để cho mình (patilàbho).
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học trước.
8/- Định giá y lần thứ nhất
(pathama upakkhata).
Nếu thí chủ không phải bà con,
không có yêu cầu họ nói sẽ Dâng y đến Tỳ-khưu tên này,
Tỳ-khưu ấy được biết rồi, đi nói cho họ dâng y như vầy,
như kia, cao giá tốt hơn y của người đã định dâng mình,
được y, thì phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Upananda dạy người dâng y ca-sa cao giá hơn của họ
đã định
Chú giải:
Thí chủ bà con, tưởng không phải bà con, phạm Tác ác.
Thí chủ mua y tốt hoặc giá cao,
Tỳ-khưu
dạy mua y xấu hoặc rẽ, hoặc bằng giá y mà họ đã định
hoặc xin nơi bà con, nơi người có yêu cầu hoặc của mình
nhờ kiếm giùm và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này thuộc về
"tikkapàcittiya" có 3 chi:
- dạy dâng y cao giá hơn của
người
đã định (cìvarabhiyyokamyatà).
- xin nơi thí chủ không phải bà con (annatakavinnatthta).
- được y theo giá định ấy (patilàbho).
đều đủ 3 chi ấy mới phạm Ưng
xả đối trị.
chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học "trong mấy duyên cớ ấy".
9/- Định giá y thứ nhì (dutiya
upakkhata).
nếu có người thí chủ, họ chung
đậu dâng y đến Tỳ-khưu, từ 2 người trở lên đều là
không phải bà con, không phải người có yêu cầu, Tỳ-khưu
đi nói cho họ chung đậu nhau để mua y giá cao hoặc tốt hơn
y mà hạn định dâng ấy, được y, thì phạm tội Ưng xả đối
trị.
Điều
học này như trước, chỉ khác nhau là điều học này có nhiều
thí chủ.
10/- Các thí chủ nhất là vua
(Ràja).
Nếu có người đem dâng để mua y,
họ hỏi Tỳ-khưu "Bạch ngài, người nào hộ ngài?"
Tỳ-khưu cần dùng y nên chỉ người hộ (veyyàvaccakarana) hoặc
cận sự nam (thiện nam - upàsaka) cho họ biết rằng "người
này hộ chư sư trong chùa ". Khi họ đã giao y đến người
hộ ấy, rồi đến bạch với Tỳ-khưu rằng "Nếu ngài cần
dùng y, xin cho người hộ ấy hay rằng 'Ta cần dùng y'",
như thế đến 3 lần, nếu không được y nên đi đứng cho vừa
người hộ ấy xem thấy. Đứng nhiều lắm đến 6 lần, nếu
chưa được mà đi đòi cho quá 3 lần, đi đứng quá 6 lần,
được y, thì phạm Ưng đối trị. Nếu đã đi đòi, đi đứng
đủ, theo luật định, mà không được y, nên đi cho thí chủ
hay hoặc dạy người đi nói rằng "Của ấy không được
sự lợi ích đến người đâu". Cho họ đòi của họ lại.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Upananda thúc hối người dâng y lập tức, người
hộ vì có việc gấp nên yêu cầu để qua ngày khác mà Tỳ-khưu
Upananda không chịu.
Chú giải:
khi Tỳ-khưu cần dùng y nên cho hay rằng "Ta cần dùng
y", không nên nói "Ngươi nên dâng y đến ta, đem y đến
cho ta", nói như thế không nên.
Nếu đi đòi 2, 3 lần được thì tốt,
bằng không được Tỳ-khưu nên đi đến đứng làm thinh đến
4, 5 lần hoặc 6 lần là nhiều, đừng ngồi, đừng thọ vật
chi, đừng nói đạo cho họ. Nếu họ hỏi "Ngài đến có
việc chi? Nên đáp "Ngươi hãy nên biết lấy". Nếu Tỳ-khưu
ngồi, hoặc thọ vật chi của họ, nói pháp cho họ nghe gọi
là bỏ oai nghi đứng, làm cho hư hỏng sự đi đến.
Nếu Tỳ-khưu đứng làm thinh, đứng
6 lần là nhiều, được y thì tốt bằng không được y, Tỳ-khưu
ráng đến đứng quá 6 lần thì phạm Tác ác, trong mỗi lần
đứng, được y thì phạm Ưng xả đối trị.
Tỳ-khưu chỉ đi đứng, không đòi,
đứng được 12 lần, nếu người hộ mà thí chủ chỉ, Tỳ-khưu
đi đòi cũng được. Nếu làm cả 2 oai nghi, thì chỉ đi đòi
được 3 lần, đứng đến 6 lần.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu đòi theo phép và Tỳ-khưu
điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (ànànattika) có 4 chi:
- Tỳ-khưu chỉ người hộ
(kappiyakàrakàsss abhikkhanoni ditthabhàvo).
- Người tay sai nói cho người hộ hay rồi cho Tỳ-khưu biết
nữa (dùtena appitatà).
- Ráng đi đòi, đi đứng quá luật định (taduttam vàyamo).
- Ðược y vì sự ráng sức ấy (tànavàỳamenapatilàbho).
Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm
Ưng xả đối trị.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học xin y nơi người không phải bà con
2) NGOẠ CỤ TRỘN VỚI CHỈ TƠ LẦN
THỨ NHÌ (kosiyavagga).
Có 10 điều học:
1/- Ngọa cụ trộn với chỉ tơ
(kosiya).
Tỳ-khưu làm ngọa cụ bằng lông cừu
trộn với chỉ tơ, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại tháp Aggàlava gần thành Àlavi do phe Lục sư dạy người
nấu tơ cho nhiều để làm ngọa cụ bằng chỉ tơ.
Chú giải:
dầu làm ngọa cụ có trộn một sợi chỉ cũng phạm Ưng xả
đối trị.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu làm trần thất, làm sáo
che, làm nệm, gối và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
người dạy (sànàtika) có 3 chi:
- Làm ngọa cụ trộn với chỉ tơ
(kosiyamissakabhàvo).
- Mình làm hoặc dạy người làm cho mình (attano atthàyasantha
tassa karanakàràpanam).
- Làm được (patilàbho).
Ðiều đủ 3 chi ấy mới phạm Ưng
xả đối trị.
Ðiều học này có 6 chỗ sanh tội
vì làm (kiriyà), không khỏi phạm vì tưởng (nosannàvimokkha),
vô ý cũng phạm (acittaka), phạm vì Phật cấm (pannattivajja),
thân nghiệp (kàyakamma), khẩu nghiệp (vacìkamma), có 3 tâm
(ticitta), 3 thọ (tissovedanà).
2/- Ngọa cụ lông cừu toàn màu
đen (suddhakàlaka).
Tỳ-khưu làm ngọa cụ lông cừu bằng
màu đen, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại phước xá Kùtàgàra, trong rừng Tuyết sơn gần thành tỳ
sa li (Vesàli) do phe Lục sư làm ngọa cụ bằng lông cừu bằng
đen.
3/- Ngọa cụ lông cừu là màu đen
hơn 2 phần (dvebhàga).
Tỳ-khưu làm ngọa cụ mà phải để
lông cừu đen 2 phần, lông trắnng 1 phần, lông cừu đỏ 1 phần,
thành 4 phần. Nếu không làm như thế rồi để lông cừu đen
nhiều hơn 2 phần, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do phe Lục sư làm ngọa cụ để lông cừu đen nhiều hơn 2 phần.
4/- Dùng ngọa cụ mới chưa đến 6
năm (Chabhassa).
Tỳ-khưu làm ngọa cụ mới phải
dùng cho đến 6 năm, nếu chưa đến 6 năm, rồi làm ngọa cụ
mới khác, phạm Ưng xả đối trị (trừ ra Tỳ-khưu có bịnh,
có Tăng cho phép).
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do chư Tỳ-khưu xin lông cừu rất nhiều để làm ngọa cụ.
5/- Làm tọa cụ
(nissidanasanthata).
Tỳ-khưu làm tọa cụ phải cắt lấy
chung quanh tọa cụ cũ một gan của đức Phật đem may chung với
tọa cụ mới, nếu không làm như thế, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do chư Tỳ-khưu bỏ rải rác tọa cụ.
6/- Thọ lãnh lông cừu (Elakaloma).
Khi Tỳ-khưu đi đường xa, nếu có
lông cừu phát sanh đến mình, rồi muốn cần dùng, thì được
phép lãnh, nếu có người hộ, được phép tự mình đem đi
xa lắm đến 3 do tuần. Ðem đi xá quá 3 do tuần, phạm Ưng xả
đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu thọ lông cừu đi xa quá 3 do tuần.
7/- Khiến Tỳ-khưu ni giặc lông cừu
(Elakalomadhovàpana).
Tỳ-khưu dạy Tỳ-khưu ni, không phải
bà con đi giặt, hoặc nhuộm, hoặc chải lông cừu, phạm Ưng
xả đối trị.
Ðiều này đức Phật cấm chế tại
Tịnh xá Nigrodhà gần thành Ca tỳ la vệ (Kàpilavatthu) do phe Lục
sư dạy Tỳ-khưu ni giặc lông cừu.
Chú giải: chỗ
sanh tội (Samutthàna) của 6 điều học trên đây như trong điều
học "ngọa cụ trộn với chỉ tơ" (kosiya).
8/- Thọ lãnh vàng bạc (Rùpiya).
Tỳ-khưu lãnh hoặc dạy người khác
lãnh vàng bạc hoặc vui thích ngay vàng hoặc bạc mà người cất
giữ cho mình phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại thành Vương xá (ràjagriha) do Tỳ-khưu Upananda thọ vàng bạc.
Chú giải:
vàng lá, vàng cục, bạc hình, bạc cục, bạc nén, bạc giấy...
hoặc các vật dụng để mua, bán, đổi thế cho vàng bạc cũng
đều gọi là vàng bạc là vật phải xả bỏ.
Ngọc ngà, châu báu, 7 thứ lúa, tớ
trai, tớ gái, ruộng vườn, trái, bông cây, đều là vật
phát sanh tội Tác ác.
Chỉ gai, vải bông các thứ đậu,
mè, thuốc, sữa, dầu,mật, nước mía ... đều là vật dụng
thọ lãnh được, không phạm.
Trong vật phải xả bỏ, Tỳ-khưu
thọ, hoặc dạy người lãnh cất cho mình, hoặc người cất
ngay trước mặt họ nói: "vật này là của ngài", hoặc
vật ấy để nơi kín, chủ chỉ dâng bằng thân, hoặc bằng
khẩu, hoặc ra dấu nói như vầy "bạc, vàng của tôi có
trong chỗ đó, bạc vàng ấy là của ngài". Nếu họ nói
như thế, Tỳ-khưu không ngăn cấm, bằng ra dấu hoặc bằng
khẩu cũng gọi là vui thích bạc vàng mà họ cất, phạm Ưng
xả đối trị.
Nếu đã phạm nên xả như vầy:
Aham bhate rùpiyam patiggahesim idam me bhate nissaggiyam imàham
sanghassa nissajàmi.
Nghĩa: Bạch đại đức Tăng, tôi
thọ bạc vàng rồi, bạc vàng ấy là của tôi phải xả, tôi
xin xả bạc vàng ấy đến Tăng.
Nếu có mặt người thế nơi đó,
cho Tăng nói với họ rằng "Người hãy biết vật
này". Nếu họ hỏi "Với của này, tôi phải đem vật
chi đến?" Tỳ-khưu không nên nói: "Phải đem vật chi
chi...", chỉ nên nói "đem vật nên dùng" (sữa, dầu,
mật). Nếu họ đem các vật ấy đến, các Tỳ-khưu nên chia
nhau dùng, trừ ra Tỳ-khưu đã thọ vàng bạc ấy, Tỳ khưu đã
thọ bạc vàng không nên dùng đến.
Nếu người thế họ không muốn lấy
vàng bạc ấy, Tăng nên nhờ họ rằng "Ngươi nên liệng
bỏ vật ấy đi". Nếu liệng trong một chỗ nào, hoặc họ
lấy đi, chẳng nên ngăn cản, nếu họ không chịu liệng Tỳ-khưu
ấy phạm Tác ác.
Không phải bạc vàng, tưởng là bạc
vàng, hoặc nghi, hoặc lãnh bạc vàng cho người khác, nhất
là thọ cho Tăng hoặc cho tháp, đều phạm Tác ác.
Thể thức không phạm tội:
Họ dâng vàng bạc, hoặc cất để
trong nơi khuất mắt, hoặc trước mặt họ nói rằng "Vậy
này là vật dụng của ngài". Nếu Tỳ-khưu có tâm vui
thích muốn lấy rồi ngăn cản ra, bằng cách ra dấu, hoặc bằng
khẩu rằng "Vật ấy không nên", hoặc nếu không ngăn
cản bằng thân hay khẩu mà có tâm trong sạch, không vui
thích, tính rằng là "Vật không nên đến ta", cũng
được, không có tội.
Tỳ-khưu lấy, hoặc dạy người
ấy vàng bạc của người rớt trong chùa, hoặc trong chỗ
mình ở, tính rằng "Của người nào, thì người ấy hãy
lại lấy" như thế, và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này, phạm tội vì dạy
người (sànattika) có 3 chi:
- Vật ấy là vàng bạc, là vật
phải xả bỏ (Jàtarùparajatabhàvo).
- Về phần của mình (attudesikatà).
- Tự mình lãnh hoặc dạy người khác lãnh, hoặc người cất
giữ mà mình vui thích (patiggahanàdisu annatarabhàvo).
Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm
Ưng xả đối trị.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học làm mai dong, chỉ khác nhau là điều học này phạm
vì lãnh (siyà akiriyà) và phạm vì không làm là không ngăn cản
(siyà akiriyà) bạc vàng mà họ cất giữ cho.
9/- Mua, bán, đổi bạc vàng.
(Rùpiyasamvohàra).
Tỳ-khưu mua bán, đổi vàng bạc
là vật mà người dùng thế cho vàng bạc, phạm Ưng xả đối
trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do phe Lục sư mua, bán, đổi bạc vàng.
Chú giải:
chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều học trước.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) có 2 chi:
- vật đã đổi được hoăc của
mình đem đi đổi (yamattanodhane parivateti tassavà
dhanassavàrùpiyabhàvoceva).
- thành tựu được trong việc mua bán, đổi (parivatananca).
đều đủ 2 chi ấy phạm tội Ưng
xả đối trị.
10/- Mua, bán, đổi vật y, bát
(kayavikaya).
Tỳ-khưu mua, bán, đổi các vật nhất
là y vật thực với người thế phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Upananda đổi y.
Chú giải:
Tỳ-khưu nói với người thế "ngươi hãy cho vật
này", do vật này hoặc ngươi lấy vật này cho vật kia
cho tôi, lấy vật này, đổi lấy vật này như thế, phạm Tác
ác, nếu đổi được thì phạm Ưng xả đối trị.
Lấy vật của người gọi là mua,
đem của mình cho người gọi là bán, cho nên Tỳ-khưu đưa vật
của mình, lấy vật của người như thế, trừ ra hạng người
xuất gia (Sa-di), Tỳ-khưu dầu là của cha mẹ, nếu nói tiếng
"đổi", thì phạm Ưng xả đối trị.
Tỳ-khưu cho vật thực hoặc đồ gì
khác đến người thế rồi nói, người nên dùng vật này, rồi
đem vật kia đến cho tôi hoặc làm việc này cho tôi, hoặc
làm việc kia cho tôi rồi dạy lấy nước nhuộm hoặc vật khác
hoặc dạy đào đất, làm cỏ... Như thế phạm Ưng xả đối
trị. Nếu có vật phải xả, bằng không có vật xả thì sám
hối tội Ưng xả đối trị.
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu hỏi giá rằng: của giá
bao nhiêu hoặc muốn lấy vật gì nơi tay người ấy, nhờ kẻ
khác, dầu là bà con của chủ vật ấy tiếp đổi dùm, rằng
"ngươi hãy lấy của này, đổi vật kia lại cho ta",
hoặc nói không ra dấu, như người đi đường chỉ có gạo
mà muốn được cơm nên nói với chủ cơm rằng: "Ta có gạo,
không cần dùng, ta cần dùng cơm" như thế, chủ lấy gạo
đi, cho cơm lại Tỳ-khưu, và Tỳ-khưu điên, đều không phạm
tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) có 3 chi:
- của mình đem đi đổi hoặc của
người đổi lại (tesamlappiyavatthutà).
- chủ của ấy là người thế (asahadhàmmikatà).
- đổi như các đã nói (kàyavikkaỳapajjanam).
Đều
đủ cả 3 chia ấy mới phạm Ưng xả đối trị. Chỗ
phạm tội như trong điều học thọ lãnh vàng bạc.
3. BÌNH BÁT LẦN THỨ BA
(pattavagga).
Có 10 điều học.
1/- Bình bát dư (patta): Bình bát
chưa
gởi, chưa nguyện gọi là bình bát dư. Tỳ-khưu cất giữ bình
bát dư ấy lâu lắm đến 10 ngày, nếu cất giữ quá 10 ngày
phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do phe Lục sư cất giữ nhiều bình bát.
Chú giải:
Bình bát có 2 thứ: bình bát sắt và bình bát đất vừa cho
Sa-môn dùng nên mới nguyện và gởi.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathina).
2/- Bình bát chưa nứt bể đến 5
chỗ: (Onapancabhanna): Bình bát nứt bể 2 ngón tay gọilà nứt
bể 1 chỗ, Tỳ-khưu có bình bát nứt bể chưa đẻ 5 chỗ,
nghĩa là có nứt bể chưa đủ 10 ngón tay, rồi đi xin bình
bát mới nơi người thế không phải bà con, nơi người không
có yêu cầu, nếu xin được, phạm Ưng xả đối trị.
Điều
học này đức Phật cấm chế tại Nigrodha tịnh xá gần
thành Ca tỳ la vệ (Kaoilavatthu) do chư Tỳ-khưu xin bình bát mới
nhiều.
Chú giải:
Tỳ-khưu phạm Ưng xả đối trị phải xả bình bát trước mặt
5 vị Tỳ-khưu trở lên, 5 vị Tỳ-khưu thế mặt cho Tăng ấy
là người đổi bình bát. Nên đem bình bát của người cao hạ
đem dâng cho vị thấp hạ, đổi theo thứ tự, lần xuống
như thế, cho đến Tỳ-khưu ngồi sau cuối cùng chư Tăng, rồi
lấy bình bát của Tỳ-khưu này, cho Tỳ-khưu vừa xả ấy và
nói "bình bát của ngài, ngài hãy dùng cho đến bể và
không bỏ, không nên cho ai".
Thể thức không phạm tội:
Tỳ-khưu có bình bát nứt hoặc bể,
xin nơi bà con, nơi người có yêu cầu của mình, nơi bà con
và người có yêu cầu của Tỳ-khưu khác, xin cho vị khác hoặc
kiếm do của mình và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người khác (anànattika) có 4 chi:
- Bình bát nên nguyện, nứt bể
chưa đủ chỗ. (onapancahamdanattà).
- Xin cho mình (attuddesikatà).
- Xin nơi ngườikhông phải bà con, không có yêu cầu
(agatavinnattità).
- Xin được (patilàbho).
Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm
tội Ưng xả đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong
điều học "khiến Tỳ-khưu ni giặt lông cừu"
(ekaloma dhovàpana).
3/- Thuốc chữa bịnh (Bhesajja).
Tỳ-khưu lãnh 1 trong 5 thứ thuốc
là: sữa lỏng, sữa đặc, dầu, mật ong, nước mía, chỉ
được phép để dành dùng lâu lắm là đến 7 ngày, nếu quá
7 ngày, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do chư Tỳ-khưu cất giữ thuốc ấy lâu ngày.
Chú giải: Tỳ-khưu cất giữ
1 trong 5 thứ thuốc ấy đến mặt trời mọc ngày thứ 8, phạm
Ưng xả đối trị. Kể theo mỗi thứ thuốc, nếu đựng chung
trong 1 chỗ phạm 1 tội. Thuốc xả rồi, dùng thoa, xức được,
uống không được.
Cả 5 thứ thuốc ấy, nếu đã giao
cho người chưa thọ Tỳ-khưu giới (Sa-di, thiện tín) trong 7
ngày được lại dùng không phạm. Tỳ-khưu đã thọ rồi,
tính dùng, rồi mới để cho quá 7 ngày mới phạm Ưng xả đối
trị, nếu không tính uống để thoa xức, dầu quá 7 ngày cũng
không phạm tội.
4/- Y tắm mưa (Vassikasàtikà): Còn
1
tháng hết mùa nóng, kể từ 16 đến cuối tháng 5, trong nữa
tháng ấy là hạn định cho Tỳ-khưu phải kiếm y tắm mưa, từ
ngày mùng 1, đến trăng rằm tháng 6, trong nửa tháng này, Tỳ-khưu
phải kiếm và làm cho xong y tắm mưa và mặc cũng được, nếu
kiếm, làm, hoặc sái thì giờ đã định, phạm Ưng xả đối
trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do phe Lục sư kiếm làm, mặc y tắm mưa trước thì giờ đã
định.
Chú giải:
Thể thức không phạm tội: Tỳ-khưu có y bị trộm cướp hoặc
mất và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika - Pariyesanàpatti) (phạm tội vì cách
xin) có 3 chi:
- Y tắm mưa của mình .
- Tìm kiếm ngoài hạn kỳ.
- Xin được.
Navàsanàpatti (phạm tội vì cách
mặc
ngoài hạn định) có 4 chi:
- Không có hư mất.
- Tỳ-khưu không có y đều đủ.
- Y tắm mưa của mình.
- Mặc ngoài hạn kỳ.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học "khiến Tỳ-khưu ni giặt lông cừu".
5/- Đòi y (cìvaràcchindana).
Tỳ-khưu đã cho y đến vị khác, rồi
giận đòi lại hoặc dạy kẻ khác đòi lại, đòi y được
phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Upananda cho y đến Tỳ-khưu rồi giận đòi lại.
Chú giải: Không
phải Tỳ-khưu tưởng là Tỳ-khưu, Sa-di tưởng là Tỳ-khưu
hoặc nghi, hoặc biết là Sa-di rồi đòi lại hoặc cho các y
phục tùng khác đến Tỳ-khưu, rồi đòi lại thì phạm Tác
ác.
Thể thức không phạm tội:
Người được y vui, hoặc giận rồi
trả lạivà Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) có 5 chi:
- Y có thước tấc nên gởi
(vikkappanupaga pacchimacìvaratà).
- Chính tay mình cho (sàmamdinnatà).
- Tưởng là của mình (sakkha sannatà).
- Người đi theo là Tỳ-khưu (Upasampannatà).
- Chính mình đòi hoặc dạy kẻ khác đòi y vì giận
(kodhavasena acchintanamvà acchindàpanamvà).
Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm
Ưng xả đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong điều
học trộm cắp (adinnàdàna samutthàna) chỉ khác nhau là điều
này thuộc về thọ khổ.
6/- Xin chỉ nơi người không phải
bà con. (suttavinnatti).
Tỳ-khưu xin chỉ nơi người thế
không phải bà con, không phải người có yêu cầu đem cho thợ
dệt y, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Trúc Lâm tịnh xá (Velivana) gần thành Vương xá
(Ràjagaha).
Chú giải:
khi thợ dệt sắp sửa dệt, phạm Tác ác, mội lần dệt phạm
Tác ác.
Thể thức không phạm tội:
Xin chỉ để may vá các thứ y hoặc
cho thợ dệt bà con hoặc có người yêu cầu, xin cho kẻ
khác, kiếm do của mình và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người (anànattika) có 3 chi:
- Xin chỉ để dệt
- Cho mình
- Cho người thợ dệt và xin chỉ nơi người không phải bà
con hoặc không phải người có yêu cầu.
Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm
tội Ưng xả đối trị. Chỗ sanh tội (samutthàna) như trong
Điều học "khiến Tỳ-khưu ni giặt lông cừu".
7/- Thợ dệt (Mahapesakàra).
Người thế không phải bà con,
không có yêu cầu, họ cho thợ dệt y để dâng đến Tỳ-khưu.
Nếu Tỳ-khưu đi nói với thợ, cho họ dệt y tốt hơn rồi
thưởng thêm, được y thì phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do Tỳ-khưu Upananda nói với thợ dệt cho tốt rồi thưởng thêm.
Chú giải:
Tỳ-khưu nói với thợ dệt. "người hãy dệt cho dài, cho
lớn, cho mịn, cho tốt, khéo", như thế rồi đem vật chi
chẳng hạn cho thợ (hoặc cho vật thực), nếu thợ dệt thêm
chỉ rồi theo lời dạy, trong mỗi lần dệt phạm Tác ác, dệt
xong đem về phạm Ưng xả đối trị.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học trên, nhưng đây có 4 chi:
- Tỳ-khưu dạy thợ dệt của thí
chủ không phải bà con,không có yêu cầu
(vikappamàpajjanatà).
- Cho mình (attuddesikatà).
- Thợ dệt thêm chỉ theolời Tỳ-khưu (suttavaddhamma).
- Ðược y (cìvarapatilàbho).
8/- Cất giữ y quá hạn kỳ
(Accekacìvara).
Còn 10 ngày nữa đến kỳ lễ tự
tứ, là từ ngày mùng 5 tháng 9 nếu thí chủ muốn dâng y nhập
hạ gấp đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nên thọ để dành đến hết
hạn kỳ giữ y, nếu để cho quá hạn, phạm Ưng xả đối trị.
Hạn kỳ giữ y ấy như vầy: nếu
đã nhập hạ rồi không được thọ lễ dâng y, hạn kỳ giữ
y chỉ có 1 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 đến rằm tháng 10,
nếu có thọ lễ dâng y thì hạn kỳ giữ y có 5 tháng, kể từ
16 tháng 9 đến rằm tháng 2 năm sau (5 tháng ấy gọi là hạn
kỳ giữ y).
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do chư Tỳ-khưu không dám lãnh y gấp vì chưa có lịnh cho.
Chú giải:
Y gấp vì người mắc đi chinh chiến, người có bịnh, hoặc
phụ nữ sắp sanh sản, hoặc có người đức tin mới xin dâng
y đến Tăng trong ngày mùng 5 tháng 9. Y như thế Tỳ-khưu thọ
rồi nên để dành cho sự dứt hạ sẽ đem dâng lại cho Tăng.
Nếu gởi, không nguyện cũng được, nếu cất giữ cho quá kỳ
giữ y, phạm Ưng xả đối trị. Y ngoài kỳ hạn ấy, kể từ
ngày 16, nếu không được thọ lễ dâng y thì được phép cất
giữ đến rằm tháng 10 (trong 1 tháng), tháng 2 năm sau (trong 5
tháng) gọi là hạn kỳ.
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học lễ dâng y lần thứ nhất (pathamakathina) chỉ khác
nhau là điều học này có 4 chi:
- Y dâng cúng gấp có thước tấc,
dầu nhỏ hơn hết là vừa gởi nguyện (Accekacìvarassa
attanosantakatà).
- Y phát sanh từ ngày mùng 5 táng 9 (uppannabhàno).
- Y không được gởi, không được nguyện (anadhitthita
avikappitatà).
- Qua khỏi hạn kỳ giữ y ( cìvarakàlàtikkamo).
Ðều đủ cả 4 chi ấy mới phạm
tội Ưng xả đối trị.
9/- Chổ nguy hiểm (Sàlanka).
Tỳ-khưu nhập hạ trong rừng là nơi
có điều lo sợ, khi ra hạ rồi, còn trong tháng là (1 tháng) từ
16 tháng 9 đến rằm tháng 10, nếu muốn để 1 trong 3 y nào
trong xóm, chỉ được phép để trong 1 tháng ấy, khi có cớ
đi khỏi nơi ấy được phép lìa xa y ấy chi trong 6 đêm, xa
lìa quá 6 đêm thì phạm Ưng xả đối trị, trừ ra có Tăng
chứng nhận cho.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do chư Tỳ-khưu để y trong xóm quá 6 đêm,làm cho y phải hư mất.
Chú giải:
Khi có đều đủ 4 chi, đức Phật cho phép gởi 3 y trong xóm
được 4 chi là:
- Tỳ-khưu nhập hạ ngày 16 tháng
6 và được làm lễ tự tứ (Pavàranà).
- Từ 16 th1ng 9 đến rằm tháng 10
- Chỗ ở trong rừng xa xóm, ít lắm là 500 cây cung (lối
ngàn thước tây).
- Chỗ ở trong rừng có điều lo sợ, nghĩa là trong chùa hoặc
nơi gần chùa là chỗ ở, chỗ ăn, chỗ ngồi của bọn cướp,
thấy rõ rệt, chỗ ở có điều lo sợ là trong chùa hoặc nơi
gần chùa, bọn cướp giựt đánh phá người cũng thấy rõ.
Ðều đủ cả 4 chi như thế, Tỳ-khưu
được phép gởi tam y trong xóm chỉ trong 1 tháng. Nếu hữu sự,
Tỳ-khưu muốn đi khỏi nơi ấy, chỉ nên xa lìa tạm lâu lắm
là 6 đêm, nếu xa lìa quá 6 đêm, qua đêm thứ 7 mặt trời mọc
lên, phạm Ưng xả đối trị (trừ ra Tỳ-khưu có bịnh, có Tăng
cho phép xa lìa tam y).
Chỗ sanh tội (samutthàna) như
trong
điều học lễ dâng y lần thứ nhì (ditiyakathina).
10/- Đoạt lợi về cho mình
(Parinata).
Tỳ-khưu biết rằng: lợi ích mà
thí chủ họ sẵn dành để dâng đến Tăng rồi đoạt về
cho mình, phạm Ưng xả đối trị.
Ðiều học này đức Phật cấm chế
tại Kỳ viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sàvatthi)
do phe Lục sư đoạt y về cho mình, phạm Ưng xả đối trị.
Chú giải:
Tỳ-khưu biết rằng lợi ích của Tăng là 4 vật dụng họ để
dâng cho Tăng, bằng lời "chúng ta sẽ dâng y đếnTăng"
Tỳ-khưu biết như thế rồi đoạt về cho mình, trong mỗi lời
nói khuyên người dâng đến mình ấy, phạm Tác ác, nếu đoạt
được thì phạm Ưng xả đối trị.
Lợi mà thí chủ đã dâng choTăng,
rồi Tỳ-khưu nghi, tính đoạt về cho mình, lợi mà họ dâng
đến 1 Giáo hội, tính đoạt về 1 Giáo hội khác, hoặc cho
tháp, như thế phạm Tác ác. Lợi mà họ tính dâng cho 1 tháp
rồi đoạt về cho tháp khác, hoặc đoạt về cho Tăng, cho Tỳ-khưu,
hoặc lợi mà họ để dâng cho Tỳ-khưu, rồi tính đoạt về
cho Tỳ-khưu hoặc cho chỗ khác, hoặc lợi mà họ chưa dâng,
Tỳ-khưu tưởng đã dâng, nghi đoạt về cho mình cho người
khác, đều phạm Tác ác (trong khi nói).
Thể thức không phạm tội:
Lợi của họ đã dâng rồi, Tỳ-khưu
tưởng chưa dâng rồi nói họ dâng cho mình, cho ngườikhác,hoặc
thí chủ hỏi "tôi nên dâng cho ai?" Tỳ-khưu đáp
"Ngươi có đức tin nơi nào nên dâng đến nơi ấy" nói
như thế, và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này không phạm tội vì
dạy người khác (anànattika) có 3 chi:
- Lợi mà thí chủ đã dâng đến
Tăng rồi (sanghe parinatabhàvo).
- Ðã biết rồi mà còn về đoạt về cho mình
(attanoparinnàmanam).
- Ðược lợi (patilàbho).
Chỗ sanh tội (samutthàna) cũng như
trong điều học trộm cắp (sikkhàpada adinnàdànà samutthàna).
-ooOoo-