Chương 3: Nội Dung Và Sự Đồng Dị Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni Giới
I. CHỈ TRÌ VÀ TÁC TRÌ
Giới luật là tiếng gọi chung của hai thứ loại biệt. Nói theo nghĩa
rộng, Tỳ kheo giới cũng bao quát Tỳ kheo luật. Nói theo nghĩa hẹp, giới
là giới, luật là luật; trong luật có bao hàm giới, nhưng trong giới
không bao hàm luật. Vì trong Tỳ ni (luật) tạng có Ba la đề mộc xoa (Biệt
giải thoát giới), còn Ba la đề mộc xoa không thể nhiếp hết Tỳ ni tạng.
Nói rõ hơn một chút, Tỳ ni bao gồm cả chỉ trì và tác trì, ba la đề
mộc xoa duy chỉ có chỉ trì. Vì thế trì luật bao hàm trì giới, trì giới
không bao hàm trì luật. Vì trì luật là việc cộng đồng của đại chúng
trong Tăng đoàn, còn trì giới là việc của mỗi cá nhân Tỳ kheo. Trì giới
gọi là chỉ trì không làm ác. Trì luật gọi là tác trì vì hay làm thiện.
Việc của Tăng đoàn phải do đại chúng trong Tăng đoàn cùng chung giải
quyết, cùng chung suy triển, cùng chung trợ thành, vì thế cần phải hòa
hợp ý kiến của đại chúng. Tổng hợp ý kiến của đại chúng hành sự tác
pháp, đây là tinh thần của trì luật, gọi là tác trì.
Trong Luật tạng quy định điều văn giới tướng là giới, là chỉ trì; quy
định các pháp yết ma là luật, là tác trì. Luật là giúp cho sự tiến hành
của giới, luật còn là người giám đốc của sự thực hành giới. Tỷ như
người muốn xuất gia trì giới, trước tiên phải cần pháp yết ma chứng
minh, cấp cho tư cách và thân phận của Tỳ kheo xuất gia. Điều văn của
giới, nếu trên sự thực hành gặp phải khó khăn cũng có thể dùng pháp yết
ma để nghiên cứu giải quyết. Nếu như phát hiện một Tỳ kheo nào hoặc sinh
hoạt của những Tỳ kheo nào vượt ra ngoài phạm vi của giới, liền phải
làm yết ma cử tội, chiết phục đuổi đi, cho đến diệt tẩn (trục xuất ra
ngoài Tăng đoàn). Vì thế, giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của
sinh hoạt Tỳ kheo, luật lại là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của
giới. Sinh hoạt của người Phật tử phải lấy giới làm chủ yếu, muốn giải
thoát sinh tử cần phải trì giới. Phật giáo muốn tồn tại lâu dài với thời
gian cần phải trì luật. Một Tỳ kheo chân chánh không thể không trì
giới. Một Tăng đoàn có triển vọng không thể không trì luật. Nếu như Tăng
đoàn không trì luật được thì Tỳ kheo trì giới cũng không được bảo hộ.
Theo nội dung của Tứ Phần Luật phân phối, 250 giới của Tỳ kheo và 348
giới của Tỳ kheo ni là chỉ trì, 20 thứ Kiền độ là tác trì. Trước là
giới, sau là luật; trong giới cũng có luật, trong luật cũng có giới; đây
là lấy điểm trọng yếu của nó, mà phân biệt.
Trên đây là điều mà Phật giáo Trung Quốc cần phải hiểu rõ, nhưng đáng tiếc là rất ít người hiểu được điều này.
II. TỲ KHEO GIỚI CÓ BAO NHIÊU?
Điều văn của Tỳ kheo giới trong các bộ Luật đều có thêm bớt, sự thêm
bớt chủ yếu là những giới thuộc về oai nghi; đến điều văn của giới trọng
và giới trọng bậc thứ, văn tự tuy có rộng nhiều hoặc sơ lược bất đồng,
song điều lệ của giới mục đại khái tương đồng, vì thế đều nói Tỳ kheo
250 giới.
Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới thông thường phân làm ngũ thiên, thất
tụ, cũng là 7 hạng tội danh của 5 thứ tội hạnh. Thật ra, 250 điều giới
tướng của Tỳ kheo lại có 8 loại điều văn, 5 thứ tội hạnh, 7 hạnh tội
danh, 6 thứ quả báo. Nay liệt kê trong biểu đồ như sau:
Vì những điều này là danh từ chuyên môn nên cần phải giải thích. Trên
biểu đồ này có dịch âm của Phạn văn cũng có dịch nghĩa của Phạn văn, vì
thế trước tiên cần phải đem âm nghĩa giới thiệu:
1. Ba la di, là dịch âm của Phạn ngữ: Pàràjika, cũng có
người dịch là Ba la thi ca, nghĩa là tội khí (bỏ ra ngoài Phật pháp), là
tội đoạn đầu (cắt đứt đầu), là tội thuốc không thể cứu.
2. Tăng già bà thi sa, là dịch âm của Phạn ngữ: Sanghàvasésa,
dịch là tội Tăng tàn, là người bị tàn phế, là người bị tàn phế trong
tịnh pháp của Tăng đoàn, tuy tàn phế mà còn có thể sám trừ để cứu.
3. Bất tịnh: Đây là không nhất định phạm tội danh của thứ tội danh
nào, có thể phạm Ba la di, có thể phạm Tăng tàn, có thể phạm Ba dật
đề,vì thế gọi là Bất định.
4. Ni tát kỳ ba dật đề: Đây là phức hợp ngữ của Phạn ngữ. Ni
tát kỳ nghĩa là tận xả, Ba dật đề nghĩa là đọa, hợp lại gọi là Xả đọa.
Đây là do giữ chứa đồ vật chẳng nên giữ, chẳng nên chứa, quên mang đồ
vật chẳng nên chẳng mang, trước phải đem món đồ ấy xả cho trong Tăng,
sau đó dùng phương pháp sám tội để sám hối Ba dật đề.
5. Ba dật đề, là dịch âm của Phạn ngữ: Pàyattika, lại có người dịch
là Ba dật đế ca và Ba dạ đề, có nghĩa là đọa, là chỉ cho tội đọa địa
ngục, vì ở đây không có vật để xả vì thế thông thường gọi là Đơn đọa.
6. Ba la đề đề xá ni, là dịch âm của Phạn ngữ:
Pràtidésaniya, có người dịch là Ba la xá ni, hoặc gọi tắt là Đề xá ni,
nghĩa là “Hướng bỉ hối”. Tỳ kheo có 4 điều giới đặc định, sau khi phạm
phải lập tức đối diện một người khác nói rõ lỗi lầm, vì thế còn gọi là
pháp Hối quá.
7. Thi sa ca la ni, là dịch âm của Phạn ngữ: Siksàkàrani,
cũng có người dịch là Thức xoa ca la ni, dị danh của Đột kiết la, nghĩa
là nên học hoặc phải học, vì thế thông thường gọi là Ưng đương học.
8. Diệt tránh: Ở trong Tăng đoàn có sự phân tranh, cho đến đối với
một vấn đề nào đó lúc hình thành hai phái bất đồng, ý kiến đối lập, thì
dùng pháp Diệt tránh để giải quyết. Sự diệt tránh trong Tăng đoàn gồm có
7 phương pháp, chỉ có trong pháp Diệt tránh mới có chế hai phái yết ma
của Tăng đoàn và lấy ý kiến của phái đa số làm ý kiến quyết định.
9. Thâu lan giá, là dịch âm của Phạn ngữ: Sthùlàayas,có thể
dịch là Đại chướng thiện đạo, đại tội, thô ác, thô quá (lỗi thô), hoặc
gọi là Trược trọng phạm; chủ yếu là do tội chưa thành của tội Ba la di
và Tăng tàn sinh ra, nhưng cũng có độc lập sinh ra, vì thế phân ra hai
loại: Tòng (Tha) sinh thâu lan giá và Độc đầu thâu lan giá; đẳng cấp
khinh trọng xem ở chương thứ 5 của thiên này.
10. Đột kiết la, là dịch âm của Phạn ngữ: Duskrta, còn có người dịch
là Đột sắc cơ lý đa, Đột tất kiết lật đa, Độc kha đa. Trong đây gồm có
hai thứ tội danh là Ác tác của thân nghiệp và Ác thuyết của khẩu nghiệp.
Đây là những sơ suất lỗi lầm nhỏ trên cử chỉ và ngôn ngữ. Phạm vi của
nó rất rộng, trong giới bổn gọi là Chúng học giới.
Trong 10 thứ danh xưng của 8 loại điều văn, tội Ba la di không có
pháp hối trừ, còn bản thân của pháp Diệt tránh là một thứ phương pháp
giải quyết sự phân tranh. Nếu như nói giới là phương thuốc đề phòng sự
hư đốn của đạo Giải thoát, thì pháp sám hối là phương thuốc làm thanh
khiết của đạo Giải thoát. Chưa từng nhiễm ô hư đốn, phải nên ngăn ngừa;
nhiễm ô hư đốn rồi phải lập tức xử lý làm cho thanh khiết; đây là công
dụng của pháp sám hối. Nhưng không nên hiểu lầm, pháp sám hối không phải
là toàn năng hoặc vạn năng. Pháp sám hối đối với 4 tội Ba la di của
giới căn bản là thương mà không thể giúp, pháp sám hối đối với tánh tội
(bản lai là tội) cũng không có năng lực. Pháp sám hối chỉ có thể hối trừ
giới tội của sự phân giới, hoặc gọi là giá tội hoặc gọi là chế tội. Tỷ
như giết súc sinh là tánh tội trong Tỳ kheo giới, không được giết súc
sinh là giá tội. Tỳ kheo giết một súc sinh bị hai lớp tội, pháp sám hối
chỉ có thể trừ được giá tội, tánh tội vẫn phải bị quả báo bồi thường
sinh mạng. Điều này giống như một người vừa là đảng viên của một chính
đảng, đồng thời lại là quan chức của chính phủ, nếu ông ta phạm pháp
quốc gia, đương nhiên bị sự chế tài của kỷ luật đảng đồng thời cũng bị
sự chế tài của luật pháp quốc gia. Sự chế tài của kỷ luật đảng không
thay thế được cho sự chế tài của luật pháp quốc gia. Điều này đồng một
lý với pháp sám hối của Phật giới, vì thế chúng ta tuyệt đối không nên
cho rằng vì có pháp sám hối nên có thể mặc tình to gan lớn mật dám phạm
giới. Tuy nhiên, trong Tỳ kheo giới có những điều giới đồng có cả hai
tánh tội và giá tội, cũng có những điều giới chỉ có giới tội. Tánh tội
ắt có giá tội, song giá tội chưa hẳn có tánh tội. Đến như, những tội nào
là tội song trùng? Những tội nào là tội đơn nhất? Không phải là chỗ của
sách này tường thuật. Đại khái phạm các giới dâm dục trộm cướp, sát
sinh, vọng ngữ, hủy báng, đều gồm có tội song trùng của tánh tội và giá
tội, phạm giới thuộc về oai nghi chỉ có một thứ giá tội.
Đến số giới điều của Tỳ kheo giới, thông thường nói là 250 điều. Tứ Phần Luật và Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật đích xác điều là 250, và sự sắp xếp
thiên tụ cũng giống nhau, đều là : 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất
định, 30 tội Xả đọa, 90 tội Đơn đọa, 4 pháp Hối quá, 100 pháp Ưng đương
học (chúng học pháp của Căn Bản Hữu Bộ Luật hợp làm 43 điều, phân thành
100 điều), 7 pháp Diệt tránh.
Nhưng trong Ngũ Phần Luật có hơi bất đồng, cộng chung tính 259 giới: 4
tội khí, 3 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30 Xả đọa, 91 Đơn đọa (so với Tứ
Phần Luật thêm một điều giới khinh thầy, nhưng trong giới Bổn chỉ có 90
điều), 4 pháp Hối quá, 108 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt tránh.
Thập Tụng Luật có 257 giới : 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định,
30 xả đọa, 90 Đơn đọa, 4 pháp Hối quá, 107 (Giới Bổn là 113) Ựng đương
học, 7 pháp Diệt tránh.
Tăng Kỳ Luật có 218 giới: 4 tội khí 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30
xả đọa , 92 đơn đọa, 4 pháp Hối quá, 67 Ưng đương học, 7 pháp Diệt
tránh.
Giải Thoát Giới Kinh có: 4 tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định, 30
Xả đọa, 90 Đơn đọa, 4 pháp Hối quá 96 Ưng đương học, 7 pháp diệt tránh,
cộng chung 246 giới.
Đến như văn tự của giới bổn lại có chỗ khác nhau, như Tứ Phần Giới
Bổn có đến 6 bổn do kiết tập giới pháp bất đồng. Trong bổn luật này,
giới điều của Ngũ Phần Luật nhiều hơn hết, giới điều của Tăng Kỳ Luật ít
hơn hết, con số sai biệt của nó phần nhiều tại trong giới oai nghi của
Ưng đương học, còn 7 hạng mục kia thêm bớt rất ít. Nhưng trừ 4 tội khí
và 13 Tăng tàn ra, thứ tự điều văn của các bổn sắp xếp trước sau cũng
không nhất trí. Đây là do cách nhìn của người biên tập các bộ mà ra. Đến
như thứ tự trước sau của Đức Phật chế giới, trừ 4 tội khí thấy nói rõ
trong Tăng Kỳ Luật, ngoài ra điều nào chế trước, điều nào chế
sau, ngày nay cũng không thể nào tra cứu được; thật ra, đây cũng không
phải là vấn đề trọng yếu.
Tỳ kheo giới rốt cuộc có bao nhiêu điều? Đây là vấn đề rất khó giải
đáp. Nhân vì trong luật chép là do sự thật đã từng phát sinh ở đương
thời mà chế, hễ có một sự kiện thì có một điều giới. Ngay trong đại hội
kiết tập Luật tạng (biên tập và tụng ca), căn cứ vào giới luật Ngài Ưu
Ba Ly đã từng nghe và nhớ được và biên tập ra Luật tạng thành văn lưu
truyền hậu thế. Về sau, trải qua sự phân chia các bộ phái của Phật giáo,
Luật tạng lại phân làm 5 bộ, tông chỉ tương đồng, nhưng nội dung có sự
chọn lựa lấy bỏ bất đồng. Nói tóm lại, Tỳ kheo giới chưa chắc nhất định
phải có đầy đủ 250 giới điều như trong Luật tạng, nhưng cũng chưa chắc
chỉ có 250 điều này, thậm chí có thể nói Tỳ kheo giới là vô lượng vô số,
vì tất cả oai nghi hành trì không có điều nào không thể không nằm trong
phạm vi của Tỳ kheo giới. Nhân đây cũng có người đem 250 giới gồm hết 8
vạn 4 ngàn tế hạnh, vì 4 oai nghi đi, đứng, nằm,ngồi, mỗi oai nghi bao
hàm 250 giới, thành 1.000 giới, qua lại ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại
mỗi đời có 1.000 giới thành ra 3.000 giới. Đem 3.000 giới phối với 3
nghiệp của thân (sát sinh, trộm cướp, dâm dục) và 4 nghiệp của miệng
(nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, ác khẩu) thành 2 vạn 1 ngàn
giới. Lại phối với 4 thứ phiền não: tham sân, si và đẳng phần, thành ra 8
vạn 4 ngàn giới.
Đây là một số lý toán pháp của huyền học, trên sự thật, tuy không
dùng phương pháp kế toán cố định này, nhưng điều có thể phát hiện để đem
sát nhập vào Tỳ kheo giới vẫn còn rất nhiều, thật ra có thể nói số của
oai nghi nhiều như cát bụi.
Ngược lại, trong 250 điều giới này lại có biết bao điều giới không
phổ biến, không thích ứng được với mọi thời mọi nơi. Thật ra, ngay trong
Đại Luật, Đột kiết la rất nhiều, mỗi một điều giới đều gồm có Đột kiết
la, cho đến ở trong một điều giới có mấy thứ Đột kiết la. Trong Giới Bổn
nêu ra Đột kiết la của Ưng đương học bất quá là liệt kê những điều lớn
mà thôi; ngoài ra, Đột kiết la chưa xuất hiện trong luật còn rất nhiều.
III. SỰ ĐỒNG DỊ CỦA TỲ KHEO GIỚI VÀ TỲ KHEO NI GIỚI
Đã giảng qua số điều giới của Tỳ kheo, bây giờ giảng đến Tỳ kheo ni
giới. Đoạn trên đã nói đại bộ phận của Tỳ kheo ni giới bổn đồng với Tỳ
kheo giới, nhưng vì sinh lý và tâm lý của người nữ và người nam có chút
bất đồng nên có những điều giới Tỳ kheo không thích ứng với Tỳ kheo ni
và Tỳ kheo ni cũng không thể không có những quy định đặc thù cho họ. Vì
thế, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới đã có đồng, cũng có khác.
Thông thường nói Tỳ kheo ni 500 giới, đây là một con số ước lượng.
Thật ra, điều văn trong 5 bộ luật bổn đều không đủ 500 giới, song căn cứ
vào trạng huống và nhu cầu thực tế đâu phải chỉ có 500 giới?
Tỳ kheo ni giới của Tứ Phần Luật gồm có 348 điều: 8 tội khí (4 giới
trước đồng với Tỳ kheo), 17 Tăng tàn (trong đó có 7 giới đồng với Tỳ
kheo), 30 Xả đọa (trong đó có 18 giới đồng với Tỳ kheo), 178 Đơn
đọa(trong đó có 69 giới đồng với Tỳ kheo), 8 pháp Hối quá (hoàn toàn
khác Tỳ kheo), 100 pháp Ưng đương học (2 giới đi lắc thân và tiểu tiện
trên rau cỏ tươi, đối với Tỳ kheo phạm Đột kiết la, Ni thì phạm Ba dật
đề, ngoài ra hoàn toàn đồng nhau), 7 pháp Diệt tránh (hoàn toàn đồng với
Tỳ kheo). Tính chung, đồng với Tỳ kheo giới 198 điều, khác Tỳ kheo giới
150 điều.
Tỳ kheo ni giới của Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật gồm có 354 điều: 8 tội khí, 20 Tăng tàn, 33 Xả
đọa, 180 Đơn đọa, 11 pháp Hối quá, 95 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt
tránh. Sự đồng dị của nó với Tỳ kheo giới đại khái cũng gần như Tứ Phần
Luật và có chút thêm bớt.
Tỳ kheo ni giới của Ngũ Phần Luật gồm có 377 giới (trong Giới Bổn
liệt kê 381 điều): 8 tội khi ( 4 giới trước đồng với Tỳ kheo)17 Tăng tàn
( trong đó có 5 giới đồng với Tỳ kheo), 30 Xả đọa ( trong đó có 18 giới
đồng với Tỳ kheo), 207 Đơn đọa (Giới Bổn liệt kê 210, trong đó có 68
giới đồng Tỳ kheo),8 pháp Hối quá hoàn toàn khác Tỳ kheo, 100 pháp Ưng
đương học (đại tiểu tiện trên rau cỏ tươi, Ni phạm Ba dật đề, ngoài ra
đều đồng với Tỳ kheo), 7 pháp Diệt tránh ( hoàn toàn đồng Tỳ kheo). Tính
chung đồng với Tỳ kheo 210 giới, khác với Tỳ kheo 176 giới.
Tỳ kheo ni giới của Thập Tụng Luật gồm có 354 điều: 8 tội khí (4 giới
trước đồng Tỳ kheo), 17 Tăng tàn (có 7 giới đồng Tỳ kheo), 30 Xả đọa (
có 19 giới đồng Tỳ kheo), 178 Đơn đọa (có 71 giới đồng Tỳ kheo), 8 pháp
Hối quá (hoàn toàn khác Tỳ kheo), 106 pháp Ưng đương học, 7 pháp Diệt
tránh.
Tỳ kheo ni giới của Tăng Kỳ Luật gồm có 290 điều: 8 tội khí, 19 Tăng
tàn, 30 Xả đọa, 141 Đơn đọa, 8 pháp Hối quá, 77 pháp Ưng đương học, 7
pháp Diệt tránh.
Giải Thoát Giới Kinh chỉ có một quyển, trong đó chỉ có Tỳ kheo giới, không có Tỳ kheo ni giới. Nhưng trong Ni giới của 5 quyển luật nêu ra cũng lấy số điều giới của Ngũ Phần Luật nhiều hơn hết, số điều giới của Tăng Kỳ Luật ít hơn hết. Nhưng tối đa chỉ có 377 điều, chỗ gọi Tỳ kheo ni 500 giới bất quá là con số ước lược đại khái mà thôi!
Hành Sự Sao quyển 1, trung, căn cứ Luận Minh Liễu nói: “Bốn
vạn hai ngàn phước hằng hà sa chảy”, có nghĩa là giới có 4 vạn 2 ngàn.
Nhưng cũng đem hai bộ Tăng Ni chia riêng ra theo thống kê: “Tỳ kheo giới
ước lược 250, bậc trung thì có 3 ngàn oai nghi, 6 vạn tế hạnh, rộng
nhiều thì vô lượng. Tỳ kheo ni giới 348 giới, bậc trung thì 8 vạn oai
nghi, 12 vạn tế hạnh, rộng nhiều cũng vô lượng”. Đây đều là pháp thống
kê theo số lý huyền học, trên thực tế cũng chưa hẳn cố định như thế.
Ba la di và Tăng già bà thi sa của Tỳ kheo giới, trong các bộ luật
đều đồng là 4 tội khí, 13 Tăng tàn, Tỳ kheo ni giới từ Tăng già bà thi
sa, các bộ luật bổn có chỗ bất đồng. Tứ Phần Luật là 17 Tăng tàn, Căn
Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật là 20 Tăng tàn, Ngũ Phần Luật cũng là
17 Tăng tàn. Tăng Kỳ Luật có 19 Tăng tàn. Đây là chỗ bất đồng của Tỳ
kheo và Tỳ kheo ni giới.
Tỳ kheo giới cộng phân ngũ thiện, thất tụ; Tỳ kheo ni giới không có
pháp bất định; chỉ có ngũ thiên, lục tụ. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ:
Tỳ kheo cùng người nữ, thân xúc chạm nhau bất luận là lớn nhỏ, chết
sống, bất luận phần trên thân phần dưới thân, hễ cố ý để thịt da xúc
chạm nhau đều phạm Tăng tàn. Tỳ kheo ni cùng người nam thân xúc chạm
nhau phải là người thành niên biết rõ đối với mình có tâm nhiễm ô, từ
đầu gối trở lên, từ mắt trở xuống; cổ tay trở lên, cố ý xúc phạm, phạm
tội Ba la di. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo biết Tỳ kheo kia có tội thô ác như 4 tội khí, 13 Tăng tàn, mà
vì người kia che dấu không cử tội phạm Ba dật đề. Tỳ kheo ni biết Tỳ
kheo ni kia phạm Ba la di không tự trình bày, chẳng ở trước Tăng đoàn cử
tội thì phạm Ba la di. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo cố chọc âm (như ngày nay người ta nói là thủ dâm) xuất tinh,
phạm tội Tăng già bà thi sa, Tỳ kheo ni cố chọc âm xuất tinh (là chỉ cho
chất nước nhờn ở trong âm đạo. Người nữ khởi niệm dâm, làm việc dâm, âm
đạo bị vật xúc chạm đều có hiện tượng chảy nước. Luận Tát Bà Đa quyển 3
nói: “Người nữ xuất tinh không dễ như người nam”), phạm tội Ba dật đề. Ngũ Phần Luật quyển 12 nói: “Tỳ kheo ni lấy tay vỗ
âm hộ, phạm Ba dật đề; chảy đồ bất tịnh, phạm Thâu lan giá. Tăng Kỳ
Luật quyển 40 cũng nói: Tỳ kheo ni dùng nước tống vào âm đạo, dùng vật
đút vào âm đạo vì thỏa dục, phạm Thâu lan giá, xuất tinh cũng phạm Thâu
lan giá. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ (chú ý: Người nam thủ dâm quá
nhiều sẽ thành bệnh lao, hoặc thần kinh suy nhược, di tinh. Người nữ
chọc âm quá nhiều sẽ sinh bệnh bạch đái, bướu tử cung, sa tử cung, kinh
nguyệt không đều).
Tỳ kheo ăn ngũ tân như tỏi…phạm tội Đột kiết la, Tỳ kheo ni phạm Ba dật đề. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo dùng hương xoa chà thân, phạm tội Đột kiết la, tỳ kheo ni phạm Ba dật đề. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Tỳ kheo đi lắc thân phạm tội Đột kiết la. Tỳ kheo ni phạm tội Ba dật đề. Đây là chỗ bất đồng của hai bộ.
Những chỗ đồng dị tương tợ như thế còn rất nhiều, còn có biết bao
nhiêu điều chế riêng cho mỗi bộ của 2 bộ Tăng Ni, ở đây không thể nêu ra
hết.
Chỗ bất đồng lớn hơn hết của Tỳ kheo ni giới là Bát kỉnh pháp. Bát
kỉnh pháp là pháp Tỳ kheo ni xuất hiện sớm hơn hết; bà Đại Ái Đạo cùng
500 phụ nữ dòng họ Thích xuất gia là tiếp thọ Bát kỉnh pháp của Phật chế
mà thành Tỳ kheo ni. Về sau tuy có 500 điều Tỳ kheo ni giới, Tỳ kheo ni
ngoài việc thọ 500 giới còn phải trì Bát kỉnh pháp và lấy Bát kỉnh pháp
làm giới trọng tâm của Tỳ kheo ni giới. Tứ Phần Luật gọi là Bát kỉnh
pháp là tám pháp không được vượt qua, lại có người gọi là tám pháp không
được vượt qua, lại có người gọi là tám pháp không được vi phạm. Đây là
pháp Tỳ kheo ni không được không trì, cũng không thể không trì. Nay đem
Bát kỉnh pháp ghi trong Tứ Phần Luật Tỳ Kheo ni Kiền Độ, sao lục như sau:
1. Tuy là Tỳ kheo ni trăm tuổi, thấy Tỳ kheo mới thọ giới phải
đứng dậy đón rước lễ bái và trải tòa sạch sẽ mời ngồi. Pháp này phải tôn
trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
2. Tỳ kheo ni không nên mạ lỵ, quở trách Tỳ kheo, không nên nói lời
phỉ báng là phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Pháp này phải tôn trọng,
cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
3. Tỳ kheo ni không nên cử tội, tác ức niệm, tác tự ngôn cho Tỳ kheo,
không nên ngăn người khác tìm tội, ngăn thuyết giới, ngăn tự tự. Tỳ
kheo ni không được quở Tỳ kheo, Tỳ kheo được quở Tỳ kheo ni. Pháp này
phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
4. Thức xoa ma na học giới rồi, đến Tỳ kheo Tăng xin thọ đại giới.
Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt
qua.
5. Tỳ kheo ni phạm tội Tăng tàn, phải ở trong 2 bộ Tăng nửa tháng
hành ma na đỏa (nghĩa là ý hỷ, hoặc duyệt chúng). Pháp này phải tôn
trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
6. Tỳ kheo ni mỗi nửa tháng phải cầu xin Tỳ kheo mà kiết hạ an cư.
Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt
qua.
7. Tỳ kheo ni không nên ở chỗ không có Tỳ kheo mà kiết hạ an cư. Pháp
này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không được vượt qua.
8. Tỳ kheo ni tăng an cư xong phải qua trong Tăng cầu 3 việc tự tứ,
Tỳ kheo Tăng đối với Ni tùng hạ thấy, nghe, nghi (tội hạnh được biết từ
ba tình hình thấy, nghe, nghi này đâu có thể tùy ý nói ra, gọi là Tam sự
tự tứ). Pháp này phải tôn trọng, cung kính, tán thán, suốt đời không
được vượt qua.
Trên thực tế, Tỳ kheo ni Trung Quốc ngày nay, dẫu cho người có đạo
tâm lắm đi nữa cũng chỉ trì được hai ba điều trong Bát kỉnh pháp mà
thôi. Ngoài ra đều là có quan hệ đến vấn đề của pháp yết ma hoặc pháp
tác trì, vốn không làm sao tuân hành đúng như luật, do vì Bát kỉnh pháp
trên Phật giáo sử Trung Quốc đến nay còn không tìm ra căn cứ xác thật
của sự thực hành đúng như luật.
Thức xoa ma ni Trung Quốc dường như chưa từng có. Mỗi nửa tháng qua
trong Tỳ kheo Tăng cầu giáo thọ, ngay từ đời Đường, Luật sư Nam Sơn Đạo
Tuyên cũng đã nói: “Trong thời gần đây, phần nhiều chỉ thực hành pháp
lược, bởi do pháp quảng bậc Thượng tọa có đức khó đủ”. Ni xin Tỳ kheo
giáo thọ có hai phương pháp quảng và lược. Pháp quảng là sau khi nhận
lời Tỳ kheo ni tăng thỉnh, trong Tỳ kheo tăng phải sai một vị Thượng tọa
có đức sang chùa Ni giáo giới. Pháp lược là Ni tăng sai người đến
thỉnh, trong Tỳ kheo Tăng chỉ nói: “Trong chúng đây không có người giáo
hóa Ni, Ni chỉ tự cẩn thận chớ phóng dật”. Nói một lần là như thế, Ni
đáp: “Y giáo phụng hành”, kế là xong pháp lược. Đời Đường đã chưa thực
hành pháp quảng, đến đời Tống, Luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu nói: “Ngày
nay hai pháp quảng lược đều bỏ, chỉ có thể nghe biết, dùng để tương lai
học tập thôi”.
Đến như Tỳ kheo Ni phải ở trong hai bộ tăng Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni
xuất tội Tăng tàn, nhân vì Tỳ kheo Ni Trung Quốc thọ Cụ túc giới luôn
luôn đều trực tiếp từ trong một bộ tăngTỳ kheo cầu, thì trong 2 bộ tăng
xuất tội Tăng tàn đương nhiên sẽ là điều không thể thấy. Kiết hạ, an cư
và giải hạ, tự tứ ngày nay ở Đài Loan đã có Đại Đức tiến hành, song đáng
tiếc là Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đồng an cư tại một chùa, đồng tại một
chùa tác pháp vẫn không phải là điều luật chế chấp thuận? Tỳ kheo Ni
không được ở chỗ không có Tỳ kheo an cư, nhưng cũng không được cùng Tỳ
kheo đồng ở một chùa an cư mà là ở gần chỗ Tỳ kheo an cư, đó là để tiện
cho mỗi nửa tháng qua trong Tỳ kheo Tăng thỉnh người giáo thọ. Do đây
kiểm thảo lại, các chị em Tỳ kheo Ni có đại tâm, phát đại nguyện có cảm
tưởng thế nào? Cứ để nó hỗn loạn như thế, hay là ngẩng đầu lên nỗ lực
chấn hưng? Điều này có quan hệ với mạng mạch của Phật giáo; lại là sự
nghiệp lớn và vấn đề lớn có quan hệ đến tiền đồ của chị em Tỳ kheo Ni
nữa!