Thiên thứ năm: Sa Di Thập Giới Và Thức Xoa Lục Pháp
Chương 1: Xuất Gia Và Mục Đích Của Xuất Gia
I. XUẤT GIA LÀ GÌ?
Trong văn Bát giới đã có nói đến Bát giới là thọ trì từng ngày của
giới xuất gia Sa di, nhưng thọ trì Bát giới lấy người tại gia làm chủ
yếu, vì thế so với Sa di giới thiếu một điều giới “cầm giữ tiền bạc” nên
vẫn là một thứ giới tại gia. Giới xuất gia chân chính mở đầu từ Sa di
thập giới, Sa di không thọ thập giới không được kể là người xuất gia hợp
cách; vì thế, Sa di thập giới là cơ sở của xuất gia. Mục đích của giới
xuất gia là cầu đắc đạo Niết bàn giải thoát sinh tử. Ba đời chư Phật ở
tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia, không có Đức Phật
nào không xuất gia mà thành Phật, vì thế Sa di giới lại là cơ sở của đạo
Giải thoát. Xuất gia chẳng phải là điều Phật giáo phát minh trước nhất,
cũng chẳng phải chỉ Phật giáo mới có. Ở Ấn Độ, trước khi Đức Thế Tôn
Thích Ca giáng sinh đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa môn (Samana) có nghĩa
là dứt tâm, hoặc tịnh chí, là tên gọi chung của Ấn Độ đối với các loại
người xuất gia. Sau khi Phật giáo sáng lập, để phân biệt với Sa môn
ngoại đạo (như Sa môn Bà la môn) cho nên gọi người xuất gia của Phật
giáo là Sa môn Thích Tử, nghĩa là đệ tử xuất gia của Phật Thích Ca.
Quan niệm về hình thái tu hành gần như là hiện tượng chung của các
tôn giáo cao cấp trên thế giới. Mục đích tối cao của tôn giáo đều là tìm
cầu sự giải thoát ra khỏi nhục dục và sự tự tại của tâm linh. Vì thế,
một tôn giáo được gọi là tôn giáo, bất luận là thủ đoạn và phương pháp
như thế nào, sự tìm cầu của nó tất nhiên cũng là xuất thế.
Chính vì sự yêu cầu xuất thế, nên sinh hoạt xuất gia trên tinh thần cấm dục vẫn là trình tự tất nhiên của sự tu hành.
Do đó, trừ Hồi giáo ra, các tôn giáo cao cấp Đông phương, Tây phương
đều có bao hàm ít nhiều sắc thái xuất thế hoặc tư tưởng cấm dục.
Hình thái xuất gia, tuy các tôn giáo đều có, song xuất gia mà được
thật sự đạt đến cảnh giới giải thoát sinh tử thì chỉ có Phật giáo. Do vì
hình thái xuất gia tuy gần giống nhau, nhưng nội dung xuất gia hoàn
toàn bất đồng. Xuất gia theo các tôn giáo khác dù có lý do và phương
pháp tu trì của họ, song đó là điều dường như đúng mà sai, vì tu luyện
mù quáng, tự tìm khổ cực, không có căn cứ, cho đến xuất phát từ sự chấp
trước cuồng nhiệt và sự mê tín vô lý. Còn sinh hoạt tôn giáo của Phật
giáo là đặt nền móng trên nhân tánh từng cấp thăng hoa, là xuất phát từ
lý trí phán đoán quyết trạch, là từ trong cảnh giới đích thân chứng ngộ
của Phật lần lượt lưu xuất, chứ không phải là cấm dục cực đoan, mà là
căn cứ vào suối nguồn lý tánh thuận với sự đề cao nhân tánh mà tiếp
thông thấu suốt với sinh hoạt xuất gia. Vì thế, sinh hoạt xuất gia của
Phật giáo là đặt nền tảng quan hệ của nhân luân để làm thăng hoa từng
bậc, từ sinh hoạt tại gia của ngũ giới, bát giới, đến sinh hoạt xuất gia
của Sa di thập giới và Tỳ kheo giới. Ngũ giới đặt nền móng từ quan niệm
luân lý của xã hội loài người. Do đây, Phật giáo dù mong muốn mọi người
đều tin Phật, học Phật, nhưng tuyệt nhiên không ép buộc mọi người đều
phải xuất gia. Muốn biết người nào đã có thích nghi với sự xuất gia ở
trong Phật giáo hay không, chỉ cần xem người đó có tiếp thọ được tinh
thần của giới luật hay không (do quan niệm luân lý thăng hoa mà thành).
Giới luật xuất gia do quan niệm luân lý thăng hoa làm thành, đó là đạo
Niết bàn giải thoát sinh tử. Đây chẳng phải là sự siêu xuất sinh tử một
cách đột nhiên, mà là do nhân tánh của luân lý nhân gian hoặc sự thăng
hoa từng cấp của lý tánh hoàn thành. Vì nơi đây chẳng phải là vô căn cứ,
mà là đặt trên nền móng thăng hoa sinh hoạt tại gia của cái nhân sinh
tử; cuối cùng, do sự thoát xác để đạt đến cảnh giới Niết bàn siêu thoát
sinh tử. Điều này hoàn toàn bất đồng với hình thức và quan niệm của thần
giáo dựa vào lực lượng của Thượng đế cứu chuộc. Thượng đế cứu thế của
ngoại đạo là tố cáo sự mê tín của thần bí, cho đến tương tợ như ma thuật
hoặc ma túy của tính chất thôi miên, có thể chân chính đạt đến mục đích
giải thoát sinh tử được ư?
II. TÍNH CHẤT VÀ TÁC DỤNG CỦA SỰ XUẤT GIA
Trong Phật giáo, người xuất gia phân làm 5 hạng là Sa di, Sa di ni,
Thức xoa ma na, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Năm hạng này là 5 đẳng cấp, hoặc 5
loại. Người nam thọ thập giới rồi gọi là Sa di. Người nữ thọ thập giới
gọi là Sa di ni. Người nam thọ toàn bộ giới của giới xuất gia gọi là Tỳ
kheo ni. Thức xoa ma na là một quá trình của giai đoạn giữa, từ Sa di ni
đến Tỳ kheo ni. Mỗi một Sa di ni cần phải trải qua quá trình hai năm
Thức xoa ma na, mới có thể thọ giới Tỳ kheo ni và trở thành Tỳ kheo ni.
Đây chủ yếu là đề phòng người nữ lúc ở thế tục mang thai rồi đi xuất gia
nên mới quy định như thế, nhân vì thời gian của Sa di ni không hạn
định. Nếu người xuất gia lúc 18 tuổi thọ Sa di ni thập giới xong liền
thọ pháp Thức xoa ma na, trải qua 2 năm không có hiện tượng mang thai,
tập quen sinh hoạt xuất gia, đến 20 tuổi có thể thọ Tỳ kheo ni giới.
Về tính chất xuất gia, Phật giáo phân làm ba loại:
1. Thân tâm đều xuất gia: Thân thể trụ ở rừng núi, tự viện, là thân
xuất gia. Trong tâm không còn luyến, mộ khoái lạc của ngũ dục thế tục,
chẳng kể danh lợi được mất, là tâm xuất gia. Đây là phép tắc xuất gia
chân chính, cũng là bổn phận của người xuất gia.
2. Thân xuất gia, tâm chẳng xuất gia: có người tuy cạo tóc mặc tăng
phục, trụ tự viện, không cưới vợ, không lấy chồng, hoặc cũng giữ được
thân thanh khiết; song nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ
dục. Họ vì sinh hoạt cho đến vì danh vọng và địa vị xã hội mà xuất gia.
Đối với phương thức sinh hoạt của xuất gia tuy họ không cảm thấy hứng
thú, nhưng vì vấn đề sinh hoạt và sự bó buộc của quan hệ xã hội nên miễn
cưỡng xuất gia. Những hạng người này thật đáng thương xót, họ không
được cái thú vị của sinh hoạt hiện thực, cũng không được sự lợi ích của
Phật pháp, họ lại sẽ bị quả báo đời vị lai rất đáng sợ, do vì họ đối với
tín ngưỡng Phật giáo có vấn đề, nên sinh hoạt xuất gia của họ cũng
không thể hoàn chỉnh và có lỗi lầm. Vì thế, đây là một loại người xuất
gia bị Phật quở trách, rất thường thấy ở thời mạt pháp.
3. Tâm xuất gia, thân chẳng xuất gia: Đây là Bồ tát đã chứng thánh
vị, các Ngài không tham luyến cái vui ngũ dục, vì hóa độ chúng sinh nên
thường hóa hiện thân phận người tại gia có vợ sinh con, như các Ngài:
Duy Ma, Hiền Hộ. Các Ngài tuy ở tại gia có vợ con, nhưng tâm các Ngài
không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh sáng suốt.
Nhưng đây không phải là phép tắc thông thường của xuất gia, nên chẳng
thể thành phương thức của sinh hoạt xuất gia.
Phương thức sinh hoạt xuất gia của Phật giáo cũng có tác dụng nhiều tầng:
1. Vì lý do liễu sinh thoát tử mà có: Đây là đặt nặng sự hướng về tinh thần xuất thế mà có yêu cầu của sinh hoạt xuất gia.
2. Vì lý do cảnh tỉnh và dẫn dắt thế tục mà có: Đây là vì đối trị
những người mê luyến trong trận đồ thanh sắc, chìm đắm say sưa trong
biển ngũ dục mà mở ra pháp môn thức tỉnh và giải độc.
3. Vì lý do Phật pháp trụ ở thế gian mà có: Đây là để ý vào sự kiến
lập Tăng đoàn mong có quy luật để vĩnh cửu triển khai và nối tiếp nhiệm
vụ hoằng dương Phật pháp.
Nhưng đã xuất gia trong Phật pháp, tuyệt đại đa số phải có toàn bộ
tác dụng của ba thứ: Đối với chính mình là cầu giải thoát sinh tử, đối
với người khác là vì cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, đối với Phật giáo là vì
trụ trì hoằng dương. Ba điều này thiếu một thì không hoàn mỹ, xuất gia
mà không tự cầu thoát sinh tử thì chẳng cần xuất gia. Xuất gia mà không
cảnh tỉnh dẫn dắt thế tục, ấy là trái với tinh thần Phật pháp giáo hóa
thế gian. Xuất gia mà chẳng trụ trì Phật pháp, ấy là cô phụ lớn lao cái
ân của Phật.
III. MỤC ĐÍCH CỦA XUẤT GIA
Có người quan niệm ý nghĩa của xuất gia gần như đồng với tự sát. Ở
trên sự nghiệp tình ái kim tiền, danh vị bị đã kích quá nặng, gặp sự
thất bại chẳng thể vãn hồi, vì thế tâm ý lạnh lẽo, không còn có dũng khí
đối diện với hiện thực. Lúc không còn muốn phấn đấu nữa, thì con đường
thứ nhất rất giản đơn là dùng phương pháp tự sát kết thúc cái sinh mạng
không biết phải làm sao. Con đường thứ hai tuy không giản đơn nhưng cũng
rất dễ là lánh vào cửa Phật, cạo tóc xuất gia làm bạn với mõ chuông cho
qua kiếp sống tàn. Quan niệm này tuyệt đối không phải là Bản lai diện
mục của xuất gia Phật giáo, nhưng cũng không thể phủ nhận thật có những
nhân vật như thế đi vào cửa Phật xuất gia. Những nhân vật này đi vào cửa
Phật không có sự kiến lập lớn lao và cũng không đến nỗi có sự phá hoại
lớn lao, nhưng trên xã hội, sự kỳ thị đối với Tăng lữ của nhà Phật là do
những người này mà ra. Thật ra, đệ tử xuất gia thời Phật còn tại thế đa
số là Tỳ kheo ở nhân gian, chỉ một thiểu số ở núi rừng là Tỳ kheo A lan
nhã chuyên trì giới và tu thiền. Tỳ kheo ở nhân gian là người xuất gia
lấy sự hành hóa nhân gian làm chủ yếu. Người xuất gia vốn giải thoát
sinh tử cố nhiên phải tu thiền, tu thiền cố nhiên là liễu sinh thoát tử,
song nếu tham đắm cái vui thiền định thế gian thì trái lại, nhân vì tu
tập thiền định mà làm chướng ngại pháp môn giải thoát sinh tử.
Vì thế, người xuất gia Phật giáo lấy sự cầu trí huệ làm mục đích thứ
nhất, đem trí huệ giáo hóa nhân gian làm nhiệm vụ chủ yếu bậc nhất. Đến
như trì giới làm một phương pháp đoạn tuyệt cái nhân sinh tử; song, chỉ
trì giới mà chẳng nhàm lìa sinh tử, thì công đức trì giới chỉ có thể
được quả báo nhân thiên, chớ chẳng thể liễu sinh thoát tử. Như chỉ cầu
tự mình giải thoát mà không trợ giúp cho người khác giải thoát, tối đa
thành A la hán chứ không thể thành Phật. Trong phương pháp tu trì của
Phật giáo, ba môn học Giới, Định, Huệ đều được coi trọng. Mục đích của
trì giới và tu định là để sinh huệ. Công dụng của huệ là chỉ đạo tự mình
tu giới, định, và độ người khác giải thoát, vì thế trong ba môn không
thể thiếu một môn và lấy huệ làm trung tâm. Đây là một điểm sẽ được thảo
luận kỹ càng trong văn nói Bồ tát giới thiên thứ bảy.
Người xuất gia buông bỏ tất cả thấy suốt tất cả, không tranh thị phi,
không phân biệt nhân ngã, trường đoản, vì thế rất khó được. Nhưng cũng
vì thế mà bị một số người hiểu lầm cho rằng đây là biểu hiện của tư
tưởng tiêu cực. Kỳ thật, người xuất gia của Phật giáo chính mình buông
bỏ, thấy suốt, và dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, ấy là tích cực.
Tội ác và họa loạn của nhân gian đâu chẳng phải toàn là do người buông
không xuống, thấy không suốt mà tạo ra ư? Người xuất gia chúng ta một
bên dạy chính mình và một bên dạy người khác buông bỏ, thấy suốt, đồng
thời cũng dạy chính mình và người khác lập tức đảm đương. Danh lợi, tư
dục, cần phải buông bỏ, thấy suốt; cứu người giúp người cần phải lập tức
đảm đương. Đây có thể kể là tiêu cực được ư?
Vì thế, mục đích xuất gia của Phật giáo: Một là tự mình cầu giải
thoát, hai là trợ giúp người khác giải thoát, và lấy việc tự cứu mình
cứu người đồng được giải thoát làm mục đích.
Phật giáo có một câu cổ huấn: “Xuất gia là việc của bậc đại trượng
phu, chẳng phải việc quan tướng có thể làm được”. Tôi xin giải thích như
vầy: Quan tướng là điển hình của hào kiệt, đại trượng phu là điển hình
của Thánh Hiền. Hào kiệt dựa vào khí thế mà thành. Thánh Hiền bám vào
khí chất mà thành. Khí chất của Thánh Hiền có thể hàm dung khí thế của
hào kiệt, trong khi khí thế của hào kiệt chưa chắc có khí chất của Thánh
Hiền. Người xuất gia của Phật giáo lấy Phật làm điển hình để noi theo.
Phật vì giải thoát cái khổ sinh tử của chúng sinh và giải đáp câu đố
sinh tử cho chúng sinh mà xuất gia tu chứng. Mục đích của người xuất gia
trong Phật giáo, trên nguyên tắc là giống như Phật: Ra khỏi nhà thế
tục, lìa bỏ vợ con, là đi ra khỏi cái nhà khổ hải của cái khổ sinh tử và
cũng là vì trợ giúp người khác cho đến tất cả chúng sinh cũng ra khỏi
được cái nhà khổ hải của cái khổ sinh tử. Vì thế trong Phật giáo, tốt
nhất là nên xuất gia vào lúc tuổi trẻ, sức lực còn cường tráng. Nếu vì
thất bại trên đường tình ái và sự nghiệp mà xuất gia, Phật giáo tuy
không cự tuyệt song cũng không cổ động và không thể nào nhiệt liệt hoan
nghinh những kẻ ấy.