Thiên thứ ba: Ngũ Giới Và Thập Thiện
Chương 1: Ngũ Giới Và Nội Dung Của Ngũ Giới
I. NGŨ GIỚI LÀ GÌ?
Một đoàn thể có tổ chức, có lý tưởng, có thành viên, phải có quy ước
hoặc hiến chương của tổ chức ấy. Một tổ chức kiện toàn hay không chỉ cần
xem các nội dung của quy ước hoặc hiến chương của nó có kiện toàn hay
không. Một tổ chức có thành tích biểu hiện trác việt hay không, cũng do
lý tưởng ở trong quy ước hoặc hiến chương định đoạt. Tất cả xã hội đều y
theo lý tưởng riêng chế định quy ước hoặc hiến chương, nhưng muốn biết
quy ước hoặc hiến chương có sinh ra được hiệu lực hay không còn phải xem
nhân viên trong tổ chức đối với quy ước hoặc hiến chương kia có bảo vệ
hoặc tuân hành hay không.
Trường học có học quy, đảng phái có đảng quy (điều lệ đảng), học sinh
có công ước tự trị. Cơ cấu huấn luyện có phép tắc học viên phải giữ,
đảng phái có phép tắc đảng viên phải giữ; quân nhân, trừ quân pháp quân
kỷ ra còn có phép tắc quân nhân phải giữ, thiếu sinh quân cũng có tín
điều của thiếu sinh quân. Suy ra các công ước của quốc tế cho đến Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc đều đồng một tính chất. Mục đích chẳng ngoài nói
về quyền lợi, nghĩa vụ và lý tưởng chung cùng theo đuổi của các phần tử
hợp thành tổ chức.
Nhưng trên thế gian, dù công ước nào hiến chương nào cũng chẳng tồn
tại mãi, cũng chẳng vĩnh cửu bất biến. Chỉ có giới luật của tín đồ tôn
giáo là ngoại lệ. Tính chất của giới luật, tuy cũng tương tự như hiến
chương công ước hoặc phép tắc phải giữ của tất cả các tổ chức xã hội,
nhưng một tôn giáo có thể chẳng suy và càng truyền càng rộng cũng phải
xem nội dung giới luật của tôn giáo ấy mà định. Từ khi có lịch sử đến
nay, nhân loại trên thế giới đã trải qua không biết bao nhiêu tôn giáo.
Nhưng, tôn giáo được nhân loại công nhận chỉ một số ít có thể đếm được.
Bởi vì công dụng của giới luật chẳng những phòng ngừa sự hư hỏng của tín
đồ, mà lại còn tăng tấn hạnh phúc của nhân loại đại chúng cho đến tất
cả chúng sinh. Bằng không, tự nhiên cũng bị đào thải.
Tuy nhiên trừ Phật giáo ra, không có một tôn giáo nào khác có thể
thích dụng với ý nghĩa của giới luật như nội dung của Phật giáo, song
chúng ta lại không thể phủ nhận bộ phận giới luật của tôn giáo khác cũng
có tác dụng.
Hai chữ Giới Luật là chữ Trung Quốc, ý nghĩa của hai chữ Giới Luật
cũng khác nhau. Giới là điều chẳng nên làm. Luật là điều nên làm. Giới
là chẳng nên. Luật là phải nên. Như vậy, Giới là sự gìn giữ của mỗi
người, Luật là hoạt động của đoàn thể. Vì thế trong Phạn văn, Giới gọi
là Thi la (Si la), Luật gọi là Tỳ nại da (Vinaya). Nhưng có lúc cũng đem
hai nghĩa giới luật dùng chung, cho nên cũng không cần cắt đôi hai chữ
giới luật ra định nghĩa.
Truớc tiên ta cần giảng chữ giới. Chữ giới nghĩa là điều không nên
làm thì đừng làm, cho nên cũng là một thứ hạn chế thuộc tiêu chuẩn đạo
đức. Như thông thường nói giới cờ bạc, giới hút sách, giới uống rượu
v.v… là một thứ hành vi câu thúc.
Chúng ta đã biết giới không phải là điều Phật giáo riêng có, các tôn
giáo khác cũng có giới quy hoặc giới mệnh. Nhưng giới của Phật giáo cùng
giới của tôn giáo khác chẳng hoàn toàn đồng nhau.
Chúng ta cần phải hiểu rõ một nguyên tắc là bất cứ tôn giáo cao cấp
nào hữu ích cho nhân loại, tôn giáo ấy đều chẳng thể trái với tiêu chuẩn
đạo đức của nhân lọai. Do đó, giới luật đươc chế ra cũng không sai biệt
nhiều. Tuy nhiên, giới luật của Phật giáo có nhiều cấp bực từ thấp đến
cao, dù là cấp bực thấp nhất cũng vượt lên trên tất cả tôn giáo. Trong
đó, ngũ giới là nền tảng của tất cả giới luật, nhưng giới mục của ngũ
giới không có xa lạ gì với sinh họat bình thường của con người. Thời cổ
đại ở Ấn Độ, các tôn giáo đều có ngũ giới nên đại thể đều tương đồng,
như 5 giới sau trong 10 giới của Cơ Đốc giáo cũng vậy. Nay phân biệt nêu
ra như sau:
1. Ngũ giới của Phật giáo: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu
2. Ngũ giới của Ma na Pháp điển: Không sát sinh, không vọng ngữ,
không trộm cắp, không phi phạm hạnh (không dâm), không tham sân.
3. Ngũ giới của Bao đạt dạ na Pháp điển: Không sát sinh, không vọng ngữ, không trộm cướp, nhẫn nại, không tham.
4. Ngũ giới của Tiền Đa Khư Da, Áo Nghĩa Thư: Khổ hạnh, từ thiện, chánh hạnh, không sát sinh, thật ngữ.
5. Ngũ giới của Kỳ na giáo: không sát sinh, không trộm cướp, không vọng ngữ, không dâm, ly dục.
6. Ngũ giới của Du già phái: không sát sinh, không vọng ngữ, không trộm cướp, không tà dâm, không tham.
7. Năm giới sau của Cơ Đốc giáo: Đừng giết, đừng trộm, đừng dâm, đừng vọng chứng, đừng tham của cải người khác.
Do sự so sánh ở trên có thể biết điểm đặc sắc của ngũ giới Phật giáo
là không uống rượu, các tôn giáo khác không có giới rượu, vì Phật giáo
trọng trí huệ, uống rượu khiến cho người ta say sưa hôn mê (tai hại của
rượu, tiết thứ 2, điều thứ 5 sẽ nói kỹ) vì thế không cho uống rượu. Tham
dục, tham sân của các tôn giáo khác nêu ra, không phải hành vi mà là
hiện tượng tâm lý, trong ngũ giới của Phật giáo thật đã bao gồm hết (sẽ
nói kỹ ở tiết thứ 2, điều thứ 5).
Từ xưa đến nay ở Trung Quốc có nhiều người chủ trương thuyết Nho
Thích Đạo tam giáo đồng nguyên, sớm nhất là thấy trong Lý Hoặc Luận của
Mâu Tử đời Hậu Hán đem ngũ giới của Phật giáo phối hợp với ngũ thường.
Sự phối hợp này có những ý kiến bất đồng như:
1. Thiên thai Nhân Vương Kinh Sớ phối hợp không sát sinh với nhân,
không trộm cắp với trí, không tà dâm với nghĩa, không uống rượu với lễ,
không vọng ngữ với tín.
2. Chỉ Quán quyển 6 phối hợp không sát sinh với nhân, không trộm cướp
với nghĩa, không uống rượu với lễ, không vọng ngữ với trí, không tà dâm
với tín.
3.Cách phối hợp thông thường là không sát sinh phối hợp với nhân,
không trộm cướp phối hợp với nghĩa, không tà dâm phối hợp với lễ, không
vọng ngữ phối hợp với tín, không uống rượu phối hợp với trí.
Nhưng ở đây, phương pháp phối hợp ngũ giới của Phật giáo với ngũ
thường của Nho giáo chỉ có thể nói về tiêu chuẩn đạo đức của nhân gian
có một xu thế tiếp xúc tương đối gần gũi, chứ chẳng nên nói là tuyệt đối
thích đáng. Chẳng nói giới nào khác, chỉ nói một giới không uống rượu
thôi, tuy gồm có tinh thần lễ và trí, song lễ và trí của Nho giáo chẳng
đồng với giới không uống rượu của Phật giáo, bởi trên thực tế Nho giáo
không cấm uống rượu.
Nói đến chỗ này, chúng ta có thể phân biệt sự ưu liệt cao thấp của
giới. Qua cái nhìn của Phật giáo, giới có thế giới (giới của thế gian
chế) và đệ nhất nghĩa giới (giới của Phật chế) chẳng đồng. Trừ giới của
Phật chế ra, tất cả đều là giới của thế gian chế. Sự bất đồng của Phật
giới và giới của thế gian là tại điểm xuất phát và mục đích khác nhau.
Các tôn giáo khác giữ giới là tuân theo ý chí của Thượng đế hoặc thánh
thần, như tín đồ Cơ Đốc giáo vâng theo 10 giới, bởi vì đó là mệnh lệnh
của Thượng đế tuyên bố, nên chẳng tuân giữ là chống lại Thượng đế, làm
cho Thượng đế nổi giận. Phật giáo không phải như vậy Phật giới tuy do
Phật chế, song tuân giữ là ở tại mỗi người, Đức Phật chế giới cũng là
căn cứ vào ý chí của chúng sinh chứ chẳng ép buộc người nào, giữ giới
chẳng phải vì Phật mà là ý chí tự do mỗi người muốn giữ. Như ăn cơm là
việc chính của mỗi người, ăn xong tự mình no, không ăn tự mình đói,
không quan hệ chút nào với người khác. Nhưng Đức Phật với tấm lòng đại
trí đại bi, dù chẳng thay thế chúng sinh ăn cơm được, Ngài cũng khuyên
nhủ và hướng dẫn chúng sinh ngu si đói khát đi ăn cơm (dụ cho giữ giới).
Đây là điểm bất đồng thứ nhất giữa Phật giới và giới của thế gian.
Thông thường, giới của thế gian, hơn phân nửa là thiên về một mặt.
Như tín đồ Cơ Đốc giáo giữ giới ( giới là giới của nghi thức giáo huấn )
là vì cầu được sự sủng ái của Thượng đế và hy vọng sau khi bỏ thân này,
được vào Thiên Quốc của Thượng đế. Mục đích giữ giới của họ chẳng vì
tạo thành hạnh phúc an lạc của nhân gian mà vì đạt ý muốn sinh lên trời,
vì thế thiên về hành vi bi thương hoặc nói là xuất thế (theo Phật pháp
nói giả sử họ được sinh lên trời cũng thật chưa là xuất thế). Do đó, họ
luôn luôn vì lý do Thiên Quốc mà phủ định sự hòa bình an lạc của nhân
gian, cho nên chiến tranh tôn giáo cũng do đây mà ra. Còn như Nho giáo
(thật ra Nho gia chẳng phải là Nho giáo, vì Nho giáo vốn chẳng thành tôn
giáo) đối với sự tuân giữ cương thường luân lý là tạo thành hạnh phúc
và hòa bình an lạc của nhân gian, song lại chẳng hướng về hình nhi
thượng hoặc xuất thế, vì thế nó thiên về hiện thực. Chỉ có sự tuân giữ
Phật giới của tín đồ Phật giáo vừa là tạo phước nhân gian cũng là tìm
cầu cảnh giới xuất thế, vì thế trên Phật giáo sử chỉ có ghi chép nhẫn
nhục và hy sinh chứ không có việc chiến tranh và đẫm máu, đây là điểm
bất đồng thứ hai của Phật giới và giới thế gian.
Thường thường giới thế gian chỉ có sự tuân giữ về hình thức nhưng
không có nhận được giới thể, thế nên không có phân biệt được giới tội và
tánh tội. Như 10 giới của Cơ Đốc giáo chẳng phải chỉ tín đồ Cơ Đốc giáo
có, Cơ Đốc giáo cho rằng Thượng đế chế ước cho nhân loại, bất luận tin
hay không tin đều ở trong phạm vi của chế ước này, người tin cố nhiên
phải giữ, người chưa tin cũng chẳng thể chăng giữ; nếu chẳng giữ, tội
lỗi cũng đồng với người đã tin. Phật giới không như vậy. Phật giới là do
Phật chế, sự thọ giới của đệ tử Phật phải là sự truyền thọ. Xét về sự
truyền thừa và nạp thọ giới thể, chỉ có người đã thọ giới rồi mới đem
giới truyền cho người khác được. Giới thể này là trực tiếp truyền từ Đức
Phật, thọ giới mà nhận được giới thể là nạp thọ Pháp thân Phật vào
trong tâm tánh của chính mình, vì Pháp thân Phật tiếp thông với Pháp
thân sẵn có của mọi người, vì dẫn đạo sự phát minh hoặc chứng ngộ tự
tánh là Phật của mỗi người. Thọ Phật giới rồi mà lại phá giới là đồng
với phá Pháp thân Phật, vì thế tội lỗi rất lớn. Người không có thọ giới
tuy làm ác nhưng chẳng phải phá giới, bản thân làm ác tuy là tội lỗi mức
độ tội lỗi lại không to, không nặng bằng người thọ giới phá giới. Đây
là biết pháp, phạm pháp thì tội hơn một bực, tánh tội của làm ác (vốn là
tội) lại thêm giới tội của phá giới. Trong Phật pháp, phá giới là phá
Pháp thân Phật (Tam thế chư Phật và tự tánh là Phật), vì thế mức độ của
giới tội lớn hơn tánh tội rất nhiều. Đây là điểm bất đồng thứ ba của
Phật giới và giới thế gian.
Thường thường, giới thế gian chỉ dạy người trừ bỏ hành vi phải ngăn
cấm mà chẳng hình thành được một hệ thống luận lý. Phật giới được xếp
vào một Tạng trong Tam tạng của Phật giáo, cùng với Kinh tạng, Luận tạng
đứng vững như cái đảnh ba chân và lấy Luật tạng chuyên môn nói về giới
làm then chốt cho Phật pháp trụ thế. Vì thế, có một hệ thống hoàn bị. Tỷ
như đem sự cấu thành của giới phân làm 4 khoa mục lớn là giới pháp,
giới thể, giới hạnh, giới tướng, nếu thiếu một thì chẳng được gọi là trì
giới. Giới pháp là pháp quy của Phật chế. Giới thể là một mạch truyền
thừa vô biểu sắc pháp của các sư truyền thọ cho nhau, đó là công đức sở
huân. Giới hạnh là do hành vi trì giới biểu hiện ra. Giới tướng là hiện
tượng sai biệt của hành vi trì giới biểu hiện ra. Nếu như chẳng đầy đủ
được 4 điều kiện ( thường gọi là 4 khoa), thì tuy không sát sinh, không
trộm cướp , cho đến không uống rượu, cũng chỉ được xem là giữ giới thế
gian mà chẳng phải là Phật giới, công đức giữ gìn giới thế gian là hữu
hạn. Đây là điều bất đồng thứ tư của Phật giới và giới thế gian.
Ở đây xin hỏi: Tin Phật, tại sao cần thọ giới?
Trong thiên quy y Tam Bảo đã nói về tính chất trọng yếu của tam quy.
Người tin Phật có quy y Tam bảo giống như sự ghi tên đăng ký của học
sinh nhập học, nhưng ghi tên đăng ký chẳng bằng đi học. Sau khi quy y
Tam bảo, nhận được Phật giới mới là bước đầu của con đường thành Phật.
Quy y Tam bảo chỉ là công đức chuẩn bị của sự học Phật, thành Phật mà
thôi. Lại vì trong quá trình học Phật là xa xôi diệu vợi, trình độ phát
tâm học Phật có cao thấp, vì thế chúng ta tin Phật và thọ Phật giới cũng
có nhiều thứ lớp. Thứ lớp của Phật giới tuy nhiều nhưng đều lấy ngũ
giới làm nền tảng. Ngũ giới tuy là từng lớp thấp nhất của Phật giới,
song như cất lầu trước chẳng xây móng thì ý muốn cất lầu rốt cuộc chỉ là
mộng tưởng. Vì thế có người nói :”Pháp ngũ giới là cha của ba đời chư
Phật, y ngũ giới mà sinh ra thập phương tam thế tất cả chư Phật”.
II. NỘI DUNG CỦA NGŨ GIỚI
Mục đích chế giới của Đức Phật là hi vọng đệ tử trì giới đúng như
pháp, tác dụng của sự trì giới đúng như pháp là làm tăng trưởng công
đức, nhưng công đức này được phát khởi, đều là do bi tâm nung đúc và
trưởng dưỡng. Xem mặt ngoài của ngũ giới thì thấy chỉ là tiêu cực chẳng
làm ác, mà không có tác dụng tích cực làm thiện. Thật ra chẳng phải vậy.
Nếu xét kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy giữ gìn ngũ giới thật đã là bao hàm vô
hạn bi tâm; bi tâm có thể hiểu là sự mở rộng của tâm đồng cảm; đây là
tâm đồng cảm suy từ mình đến người và đến tất cả chúng sinh. Nhân vì
mình không chịu bị người khác sát hại cho nên có giới không sát sinh.
Nhân vì chẳng chịu của cải tài sản của mình bị người trộm cướp, vì thế
biết người khác cho đến tất cả chúng sinh đều có tâm chẳng chịu bị trộm
cướp cho nên có giới không trộm cướp. Ba giới sau, cũng theo đây suy ra
mà biết. Do đó, chúng ta có thể nói công đức trì giới cố nhiên là do tín
ngưỡng và cũng do bi tâm nung đúc và trưởng dưỡng, công đức của Phật
lớn vô cực. Bi tâm của Phật cũng lớn vô cùng, ấy là đồng thể đại bi vậy.
Vì thế ở trong kinh Phật thường gọi ngũ giới là ngũ đại thí, trì ngũ
giới nếu trì đến triệt để chẳng những ngăn nơi “chỉ ác” mà còn làm đến
“hành thiện”: Không sát sinh mà phải hộ sinh phóng sinh, không trộm cướp
mà phải hành bố thí. Ba giới kia theo đây có thể biết. Nhưng bản ý của
ngũ đại thí là thí cái tâm không sợ hãi cho tất cả chúng sinh. Do ta trì
giới sát nên chúng sinh chẳng sợ giết hại. Do ta trì giới không trộm
cướp nên chúng sinh chẳng sợ ta trộm cướp. Do ta trì giới tà dâm nên
chúng sinh chẳng sợ ta dâm ô thân thuộc của họ. Do ta trì giới vọng ngữ
nên chúng sinh chẳng sợ ta lường gạt. Do ta trì giới không uống rượu nên
chúng sinh không sợ ta uống rượu mà điên cuồng quậy phá. Cho nên gọi
ngũ giới là ngũ đại thí.
Người sống trong thế giới hiện tại, không ai có uy lực tuyệt đối nắm
được cái không bị tai họa do sát, đạo, dâm, vọng gây ra. Chính vì thế mà
chúng ta đề xướng sự thọ trì ngũ giới; nếu như thêm nhiều người thọ trì
ngũ giới, nhân lọai xã hội bớt đi một phần sự uy hiếp của tai họa; mọi
người đều thọ trì ngũ giới, thế giới chúng ta sẽ trở thành Tịnh độ nhân
gian.
Điều quan trọng là ngũ giới của Phật giáo có thể mở rộng tâm đồng cảm
đến tất cả chúng sinh. Thọ trì ngũ giới có thể ban cho nhân loại sự vô
úy (không sợ), cũng tăng cho tất cả chúng sinh sự vô úy đây là điều mà
giới của thế gian chẳng bì kịp. Tỷ như giới không sát sinh của Cơ Đốc
giáo chỉ không giết người, mà chẳng cấm giết các động vật ngoài nhân
loại. Nho gia Trung quốc chủ trương mở rộng lòng nhân đến vật, nhưng lại
chẳng ngăn giết sinh vật khác. Sự lớn lao của công đức thọ trì Phật
giới là ở chỗ này, bởi vì trì một giới sát, thì ở trên phần của tất cả
chúng sinh đều được công đức bất sát. Cho nên, nếu nhân loại đều thọ trì
ngũ giới, chẳng những nhân loại được hòa bình an lạc, mà tất cả chúng
sinh cũng giải trừ được tai họa do loài người gây ra.
Ngũ giới là nền tảng của tất cả Phật giới, Phật tử tại gia sau khi
tiến vào cửa Phật đều phải nên thọ trì, vì thế thông thường gọi là Ngũ
giới tại gia.
Ngũ giới tuy chỉ có 5 điều, song về chỗ vi tế của nó rất là phiền
phức. Như muốn được ngũ giới thanh tịnh, ta nên nghiên cứu thêm. Nay
lược thuật như sau:
Sự hủy phạm ngũ giới đều có khinh trọng. Tội trọng (nặng), chẳng cho
sám hối, vì thế gọi là bất khả hối. Tội khinh (nhẹ) cho sám hối, lại
phân làm 2 loại gọi là trung khả hối và hạ khả hối. Theo Đại thừa Bồ tát
giới, khi phạm tội trọng, nên thực hành Thủ tướng sám, nghĩa là ở trước
Phật lễ sám, được thấy hảo tướng, thấy hào quang, thấy bông hoa, thấy
Phật, Bồ tát đến xoa đầu, tội liền trừ diệt. Song, sám hối trừ tội, chỉ
trừ được tội phạm giới mà chẳng trừ được tánh tội, như phạm giới giết
người, giới tội đáng lẽ bị đọa tam đồ, nhưng nợ người một mạng vẫn phải
bồi thường, nhân duyên thành thục chắc chắn phải trả nợ báo. Nếu chẳng
nhập Vô dư Niết bàn, giả sử chứng quả A la hán, vẫn phải bồi thường
người một mạng, cho đến giết một con kiến, tánh tội vĩnh viễn chẳng
diệt. Giới trộm cướp cũng giống như vậy, giới tội của giới trộm cướp tuy
giống như giới sát sinh, nhưng tánh tội giới trộm cướp chỉ cần bồi
thường đúng giá đã trộm là có thể giải quyết xong.
Trong ngũ giới, bốn giới sát, đạo, dâm, vọng, đều có khả hối và bất
khả hối, một giới uống rượu dù phạm trong bất cứ trường hợp nào, đều là
khả hối. Bốn giới trước của ngũ giới đều có giới tội và tánh tội, giới
uống rượu chỉ có giới tội mà không có tánh tội. Vì thế gọi 4 giới trước
là tánh giới, giới uống rượu là giá giới. Tánh giới là trong Phật pháp
và thế pháp đều công nhận. Dù Phật chẳng chế giới, khi phạm sát sinh,
trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ là hành vi thuộc bản tánh, đều là tội ác, vì
thế chỉ có người thọ ngũ giới Phật giáo rồi chẳng được phạm.
Nói đến chỗ này cũng có người hoài nghi, chẳng thọ Phật giới làm việc
xấu chỉ có một lớp tánh tội, thọ Phật giới lại thêm một giới tội lớn
hơn. Vậy đâu cần thọ giới? Kỳ thật, thọ giới là vì trừ ác nghiệp, chẳng
lẽ sau khi thọ giới lại chuẩn bị tạo ác sao? Giả sử thật muốn tạo ác,
cũng có thể tùy thời xả giới, vạn nhất chưa kịp xả giới mà tạo ác
nghiệp, tuy sẽ bị đọa tam đồ, song rốt cuộc cũng có thể thành Phật. Nếu
như vĩnh viễn chẳng thọ giới, cũng sẽ vĩnh viễn không có khả năng thành
Phật, hạt giống nhân duyên nếu gieo thuần thục, chắc chắn sẽ có thu
hoạch. Xin đem sự trì phạm của ngũ giới trình bày như sau:
1. GIỚI SÁT SINH
Giới sát lấy giết người làm trọng, giết chúng sinh dị loại là khinh.
Giết người đủ 5 điều kiện thành tội thì không thể sám hối (bất khả hối):
1. Là người: Bị giết là người, chứ chẳng phải dị loại bàng sinh.
2. Tưởng là người: Có y giết người mà chẳng tưởng giết dị loại bàng sinh.
3. Có tâm giết: Có tâm giết người chứ chẳng phải cố ý ngộ sát hoặc vô tâm giết lầm người.
4. Lập phương tiện: Vận dụng phương pháp giết người.
5. Người chết: Người bị giết chắc chắn đã chết.
Thủ đoạn giết người nhiều vô cùng, nếu phân loại chẳng ngoài tự tay
giết, khuyên người tự sát, bảo người đi giết người. Hậu quả của giết
người có ba loại:
1. Ngay lúc giết người liền chết, phạm tội bất khả hối.
2. Ngay lúc giết không chết, về sau nhân đó mà chết cũng phạm tội bất khả hối.
3. Ngay lúc giết không chết, về sau cùng chẳng nhân đó chết, phạm tội trung khả hối.
Giết người chẳng hạn cuộc dùng dao, dùng súng, mà dùng bất cứ thủ
đoạn nào làm cho người chết đều gọi là giết người, đều mang tội giết
người.
Động cơ sát sinh chẳng ngoài 4 thứ, phạm tội cũng có sai biệt:
1. Vì giết người mà làm các phương tiện (như đào hầm, bỏ thuốc độc,
phóng hỏa, nhận nước,v.v…) khiến cho người chết, phạm tội bất khả hối,
phi nhân (người biến hóa) chết phạm trung khả hối, súc sinh chết cũng
phạm trung khả hối.
2. Vì giết phi nhân mà làm các phương tiện khiến cho phi nhân chết,
phạm trung khả hối; khiến cho người chết và súc sinh chết đều phạm tội
khả hối.
3. Vì giết súc sinh mà làm các phương tiện khiến cho người chết, phi nhân chết, súc sinh chết đều phạm tội hạ khả hối.
4. Làm phương tiện bất định: Chuẩn bị gặp ai giết nấy, khiến cho
người chết, phạm tội bất khả hối; phi nhân chết, phạm tội trung khả hối;
súc sinh chết, phạm tội hạ khả hối.
Bốn thứ động cơ đã nêu ở trên đều lấy bên đối tượng của động cơ đắc
tội, không lấy bên đối tượng bị giết đắc tội, tỷ như giết người lại giết
lầm phi nhân là tội trung, giết lầm súc sinh cũng là tội trung, là từ
phương tiện của sự giết người mà đắc tội. Nếu như làm phương tiện giết
người mà chưa đạt đến mục đích giết người, cũng chưa giết lầm phi nhân
và súc sinh, đắc tội trung khả hối.
Lấy đây suy ra, làm các phương tiện giết phi nhân và giết súc sinh, đều phạm tội hạ khả hối.
Phật cấm sát sinh, cho nên cũng cấm phá thai. Nếu giết thai nhi bằng
cách phá thai, thai nhi chết, phạm tội bất khả hối; thai không chết mà
mẹ chết , phạm tội trung khả hối ( cũng từ bên thai nhi làm phương tiện
giết mà đắc tội); mẹ con đều chết, phạm tội bất khả hối; mẹ con đều
không chết, phạm tội trung khả hối. Nếu vì giết mẹ mà phá thai, đắc tội
ngược lại với những điều nói trên.
Nhân vì giết người, người chết phạm tội bất khả hối; giết phi nhân,
phi nhân chết, phạm tội trung khả hối. Cho nên, đại sư Ngẫu Ích nói:”
Giết người tưởng là người, phạm tội bất khả hối. Giết người nghi là
người, cũng phạm tội bất khả hối. Giết người tưởng là phi nhân, phạm tội
trung khả hối. Giết phi nhân tưởng là người, phạm tội trung khả hối.
Giết phi nhân nghi là người, phạm tội trung khả hối. Giết phi nhân tưởng
là phi nhân, phạm tội trung khả hối”.
Giết cha mẹ, giết A la hán là phạm tội nghịch phải đọa địa ngục vô
gián. Cho đến tội cực trọng trong giới sát sinh cũng có phân biệt: Giết
cha mẹ tưởng là cha mẹ, phạm tội nghịch; giết cha mẹ nghi là cha mẹ,
cũng phạm tội nghịch; giết cha mẹ tuởng là chẳng phải cha mẹ (như người
từ thuở bé xa cách cha mẹ chẳng biết cha mẹ sinh ra mình là ai), chẳng
phạm tội nghi nhưng phạm tội bất khả hối. Như người bị giết chẳng phải
cha mẹ mà tưởng là cha mẹ (như từ thuở bé làm con nuôi của người mà
không biết) hoặc hoài nghi là cha mẹ thì chẳng phạm tội nghịch, nhưng
phạm tội bất khả hối. Giết A la hán cũng chiếu theo giết cha mẹ mà biết.
Song, cũng có thuyết nói dầu chẳng tưởng là A la hán, giết cũng phạm
tội nghịch. Nếu như kẻ giết người tự mình chết trước, người bị giết chết
sau, thì phạm tội khả hối chứ chẳng phải bất khả hối. Bởi vì người chết
giới thể cũng xả (ngũ giới thọ trì suốt đời này thôi), cho nên chỉ
trước lúc chưa chết đắc tội phương tiện giết người, chẳng đắc tội đã
toại ý giết người, sau khi chết là đã xả giới cũng không có giới tội,
người bị giết tuy do kẻ kia giết chết song lại chết sau hung thủ thì
hung thủ không có giới tội giết người.
Sát sinh lấy tâm làm chủ, vô ý giết chẳng phạm tội trọng, vì thế đùa
giỡn đánh người, người bị đánh nhân đó mà chết, chẳng phạm tội trọng,
chỉ phạm tội khả hối. Giết lầm ngòai ý muốn không phạm. Nếu chẳng cẩn
thận để đến nỗi giết lầm người khác chết thì phạm tội trung khả hối. Nếu
si cuồng tâm lọan, đau khổ quẫn trí, chẳng tự chủ được mà giết người,
không phạm.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, giết phi nhân rất ít thấy, ít
nghe; giết người chẳng phải là việc tầm thường; nếu chẳng phải là đồ tể
thì mỗi ngày cũng không giết heo, giết bò. Giới sát sinh chúng ta dễ
phạm nhất là đối với loài bàng sinh, động vật nhỏ bé như trùng kiến.
Có người viết thư hỏi tôi: Trong nhà có trùng kiến phải xử trí thế
nào? Lúc quét tước chắc chắn là giết hại chút ít, giết hại như thế có bị
coi là phá giới sát sinh hay không? Hay là quy lỗi về nghiệp báo của
trùng kiến phải chịu như thế ? Đây thật là một vấn đề lớn, vì bảo vệ tài
sản sinh sống của tự thân con người nên phải đuổi trừ trùng kiến phá
họai, vì hộ trì giới thể thanh tịnh lại chẳng được cố ý giết hại trùng
kiến. Nhưng trùng kiến tổn hại đối với người, cần phải đuổi trừ, lúc
đuổi trừ chẳng được có tâm sát hại, phải làm cẩn thận, nếu đã làm hết
khả năng hộ sinh rồi, lỡ có giết lầm hại lầm, phải tự trách tâm mình,
sinh lòng hối hận, phát bi nguyện, nguyện cho chúng nó sinh vào loài
thiện, nguyện cho chúng nó sẽ được thành Phật thì mới có thể khỏi tội
sát sinh. Điều này có nói trong luật, như Thập Tụng Luật quyển 11 ghi
chép Đức Phật đích thân trừ côn trùng nơi giường nệm của chư Tăng. Theo
Thập Tụng Luật quyển 37, nhân vì trong nhà tắm ẩm thấp sinh trùng, Phật
nói:”Phải quét dọn cho sạch”. Nhưng điều quan trọng nhất là không cho
trong nhà cửa sinh trùng kiến, thường phải giữ cho khô ráo sạch sẽ, vừa
hư phải sửa ngay, những lỗ dưới chân tường phải lấp lại sớm, chỗ dễ sinh
trùng trước lúc chưa sinh phải xịt thuốc sát trùng phòng ngừa. Nếu sau
khi đã sinh trùng, vì trì giới phải cẩn thận đuổi trừ, chẳng được dùng
thuốc sát trùng để giết hại. Bằng không, giết một côn trùng đắc một tội
hạ khả hối, giết ngàn vạn côn trùng thì đắc ngàn vạn tội hạ khả hối.
Nhưng muốn được giới sát sinh tuyệt đối thanh tịnh phải đến Sơ quả Tiểu
thừa trở lên, vì Sơ quả cày đất, côn trùng cách lưỡi cày 4 tấc, phàm phu
làm chẳng được.
Do vì trì phạm của giới hoàn toàn ở nơi tâm, cho nên đối với tội sát
trùng phân biệt ra sáu trường hợp : Có trùng, tưởng có trùng, phạm tội
căn bản tiểu khả hối; có trùng nghi có trùng, cũng phạm tội căn bản tiểu
khả hối; không trùng tưởng có trùng, phạm tội phương tiện tiểu khả hối;
không trùng nghi có trùng, cũng phạm tội phương tiện tiểu khả hối; có
trùng, tưởng không trùng, không phạm; không trùng, tưởng không trùng,
không phạm. Ngoài ra, chẳng được đánh người, chẳng được đánh súc sinh,
cho đến trùng kiến đem tâm giận hờn đánh đập đều đắc tội.
Chỗ này người đọc còn có một nghi vấn đó là giữ giới sát có cần phải
ăn chay hay không? Theo luật chế, từ ngũ giới đến Tỳ kheo giới không bắt
buộc phải ăn chay. Chẳng ăn cá thịt là quy định của Đại thừa Bồ tát
giới, trì giới không sát sinh của ngũ giới chẳng được tự mình sát sinh,
chẳng được khuyên người hay bảo người sát sinh. Cho nên chính mình chẳng
được giết gà, vịt, cá, tôm nếu như mua đồ đã làm rồi thì chẳng bị sự
cấm đoán của ngũ giới.
Đương nhiên, nếu như có thể phát tâm ăn chay lại càng tốt. Ăn chay là
đức tính tốt đẹp của Phật giáo Đại thừa, ăn chay là sự biểu hiện cụ thể
của tinh thần giới sát tiến thêm một bước, cho nên tôi hy vọng người
thọ ngũ giới rồi tốt nhất là ăn chay, bằng không thì cũng chẳng ngại gì.
2. GIỚI TRỘM CƯỚP
Giới trộm cướp, nếu như giới thiệu tường tận thì đó là một giới phiền
phức hơn hết trong ngũ giới. Ở đây chúng ta chỉ nói đại yếu.
Trộm cướp là hành vi chẳng cho mà lấy.
Sự hủy phạm của giới trộm cướp có chia khinh trọng. Đủ 6 điều kiện sau đây thành tội bất khả hối:
1. Tài vật của người khác.
2. Biết rõ tài vật của người chẳng phải của mình.
3. Tâm trộm: Khởi niệm trộm cướp, cũng là trước có dự mưu trộm cướp.
4. Tìm cách lấy: Nhờ các phương pháp đạt thành mục đích trộm cướp.
5. Giá trị 5 tiền: Vật trộm cướp trị giá 5 tiền. Đây là Đức Phật
chiếu theo quốc pháp của nước Ma Kiệt Đà ở Ấn Độ đương thời mà chế, quốc
pháp định trộm cướp 5 tiền trở lên thì phạm tội chết. Vì thế, Phật chế
định Phật tử trộm cướp 5 tiền trở lên cũng thành tội trọng bất khả hối.
Năm tiền có giá trị bao nhiêu thật là khó định, căn cứ theo sự biên khảo
của Đại sư Độc Thể cuối đời nhà Minh, 5 tiền tương ứng với 3 phân 1 ly,
2 hào bạc; căn cứ theo sự nghiên cứu của Đại sư Ngẫu Ích, 5 tiền là 8
phân bạc.
6. Lìa chỗ cũ: Dời tài vật đã trộm cướp ra khỏi vị trí cũ của nó.
Nhưng trong đây gồm có: Di động vị trí, biến đổi hình trạng, thay đổi
màu sắc v.v… Hễ đem tâm trộm cướp khiến cho chủ của tài vật khởi ra ý
tưởng mất tài vật thì đều gọi là ly bổn xứ (lìa chỗ cũ).
Bất luận người ta không cho mà tự mình lấy hoặc bảo người khác lấy,
đều là trộm cướp; lấy được tang vật 5 tiền trở lên thành tội bất khả
hối.
Nếu như chủ tài vật không đồng ý, bất luận thủ đoạn nào, gạt lấy,
trộm lấy, cướp lấy, dùng sức mạnh chiếm, bòn rút, hễ đủ 6 điều kiện kể
trên đều thành tội trọng bất khả hối. Trừ lợi nhuận hợp lý ra (Ngũ giới
Ưu bà tắc trừ các ác luật nghi như: chẳng được chài lưới, săn bắn, bán
rượu, đồ tể, bán thuốc độc, buôn lậu, mãi dâm, cờ bạc,v.v…, có thể buôn
bán hoặc canh tác), chẳng được âm mưu lấy tài vật của người.
Không luận là trên hay dưới mặt đất, mặt nước, trong nước, chỗ cao,
chỗ thấp, trên cây, trong không, động vật, thực vật, khoáng vật, trong
hành động, trong tĩnh chỉ, tất cả tài vật bất luận thuộc chủ quyền của
quốc gia, của tư nhân, của tôn giáo đều chẳng được trộm cướp. Trừ phi là
vật phấn tảo (vật ném bỏ, như rác) không có chủ, lấy không tội. Nếu đem
tâm trộm cướp trộm người, mang người trên vai, hai chân rời đất, pham
tội bất khả hối; có tâm dụ dỗ người đem bán, khiến cho người đó đi qua
hai bước, cũng phạm tội bất khả hối.
Thử nêu ra vài trường hợp:
Nếu đem tâm trộm cướp, trộm cướp động vật bốn chân như trâu, bò, lừa,
ngựa dùng dây dắt đi, đi qua bốn bước, phạm tội trọng bất khả hối.
- Trong nước có bè gỗ, có tâm trộm cướp muốn giữ lại một phần khiến cho nó lìa bè trị giá 5 tiền, phạm tội bất khả hối.
- Vật trong nước, trộm lấy lìa mặt nước, hoặc nhận chìm xuống đáy, trị giá 5 tiền, thành tội bất khả hối.
- Không trung nếu chim có chủ ngậm vật của người khác bay, có tâm
trộm cướp chờ lấy, phạm tội trung khả hối; lấy được trị giá 5 tiền, phạm
tội bất khả hối.
Nếu có chim rừng ngậm vật bay, có tâm trộm cướp chờ lấy, phạm tội hạ
khả hối; lấy được, phạm tội trung khả hối (đây chẳng phải là vì một vật
đắc tội, mà vì có tâm trộm cướp nên bị kết tội).
- Có tâm trộm cướp xá lợi, phạm tội trung khả hối (vì xá lợi không
tính được trị giá). Tâm cung kính lấy xá lợi không phạm (trong Luật và
Kinh A Hàm,, nguyên nghĩa của Xá lợi là hài cốt. Ngày nay tương truyền
hài cốt thiêu rồi được hạt cứng chắc gọi là hạt Xá lợi).
- Kinh sách, pháp khí, tất cả đồ dùng của Tam bảo, tài vật trang
nghiêm đều không được trộm, nếu trộm trị giá 5 tiền đều phạm tội bất khả
hối.
- Tất cả thuế chẳng được lậu, nếu lậu thuế trị giá 5 tiền thành tội
bất khả hối. Nói chung, các thứ thuế được pháp lệnh của nhà nước quy
định cho đến trong các bưu kiện ngày nay, thư tín gửi kèm trong vật ấn
loát hoặc dùng vật ấn loát để đạt thành mục đích thư tín, hoặc gửi tiền
trong thư tín bình thường, đều gọi là trốn thuế, đều phạm giới trộm
cướp, giá trị 5 tiền thành tội bất khả hối.
Đại sư Hoằng Nhất giỏi về thư pháp, người đến cầu xin chữ viết của
Ngài rất đông. Có một lần đệ tử tại gia của Ngài gửi Ngài một tập giấy,
xin Ngài viết chữ, Ngài viết xong những chữ phải viết, giấy còn dư, Ngài
không biết phải xử lý thế nào để khỏi phạm giới chẳng cho mà lấy. Ngài
bèn viết thư hỏi vị đệ tử tại gia ấy. Do đây có thể thấy được sự trì
giới nghiêm cẩn của Đại sư Hoằng Nhất.
Trong mười pháp giới, chỉ có Phật mới là trì giới rốt ráo thanh tịnh, đến Sơ quả Tiểu thừa mới đoạn hẳn được tội cố trộm cướp.
Phạm vi của giới trộm cướp bao quát ở trong sự tổn hại tài vật của
người khác, đây là loại ác tác “tổn người chẳng lợi mình”. Nếu như có
tâm làm cho tổn thất tài vật của kẻ khác đang mong được, bất luận là
dùng thủ đoạn nào, chỉ cần trở thành sự thật, nếu tài vật tổn hại trị
giá 5 tiền thì đắc tội trọng bất khả hối.
Sự khinh trọng của giới trộm cướp được phân biệt như sau: Trộm tài
vật trị giá 5 tiền hoặc quá 5 tiền, phạm tội trọng bất khả hối. Trộm
chẳng đủ 5 tiền, phạm tội trung khả hối. Làm phương tiện trộm cướp mà
chưa đạt thành mục đích trộm cướp, phạm tội hạ khả hối. Lậu thuế hoặc
tổn hại, tội đồng với trộm cướp.
Theo Phật pháp, chẳng được viện lý do như đói khát, tật bệnh, thiên
tai, hoạn nạn, hiếu dưỡng cha mẹ, cung cấp vợ con để làm trộm cướp. Nếu
làm trộm cướp đều thành tội. Như có khó khăn, có thể cầu xin nhận của
người bố thí thì không tội. Mượn mà không trả cũng phạm tội trộm cướp.
Nhưng trong giới trộm cướp cũng có khai duyên như tưởng là vật của
mình mà lấy, được đối phương đồng ý, hoặc vì tình cảm thân thiết biết
người kia ắt đồng ý mà lấy, tạm thời dùng mà lấy, cho rằng người ta bỏ
mà lấy, hoặc nhân tâm si cuồng đau khổ quẫn trí mà lấy thì không tội.
3. GIỚI TÀ DÂM
Trừ sự quan hệ nam nữ giữa vợ chồng, tất cả những sự quan hệ nam nữ
không được pháp luật quốc gia hoặc đạo đức xã hội thừa nhận đều gọi là
tà dâm.
Kinh Viên Giác nói:”Như các thế giới tất cả chúng sinh, loài
sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài sinh bằng sự ẩm thấp, loài
hóa sinh đều do dâm dục mà chánh tính mạng”. Đủ biết sự tồn tại của
chúng sinh đều do dâm dục. Nếu muốn phàm phu chúng sinh đều đoạn dứt dâm
dục, ấy là điều chẳng thể được. Chúng sinh tu chứng đến tam quả A na
hàm mới dứt hẳn được dâm dục. Tu thiền định, nhập Sơ thiền trở lên mới
phục được dâm dục. Chúng sinh Dục giới, dù đến cõi trời thứ sáu vẫn còn ở
trong dâm dục, tại thế giới loài người rất khó ngăn tuyệt. Đức Phật
thiết lập giáo pháp cố nhiên mong muốn tất cả chúng sinh đều ly dục,
song đây là việc không thể hoàn toàn được. Vì thế, Ngài khéo bày phương
tiện cho đệ tử tại gia sinh họat vợ chồng một cách chính đáng.
Thật ra, sự an lập của thế gian do sự hòa hợp nam nữ vợ chồng. Sinh
hoạt vợ chồng bình thường chẳng mang đến bi kịch xã hội. Vấn đề quan hệ
nam nữ bất bình thường tạo thành bi kịch xã hội. Nếu như mọi người đều
an phận trong sinh họat gia đình một vợ một chồng, thì báo chí của chúng
ta chẳng nêu lên những trường hợp như: Gian dâm bị giết, giết nhau vì
tình, hiếp dâm, dụ dỗ, thông dâm, đồng lòng thông dâm phá hoại gia đình,
v.v… Vì tạo thành sự hòa bình an lạc cho nhân gian nên Đức Phật chế
định tà dâm cho nam nữ tín đồ tại gia.
Giới tà dâm đủ 4 điều kiện thành tội trọng bất khả hối:
1. Không phải vợ chồng: Chẳng phải vợ chồng mình đã kết hôn.
2. Có tâm dâm: Thích hành dâm như đói được ăn như khát được
uống. Bằng không, phải như lưới sắt nóng quấn thân, hoặc cổ đeo tử thi
sình thúi.
3. Đúng chỗ là ở miệng, đường tiểu tiện (âm đạo) và đường đại tiện mà hành dâm.
4. Sự toại: Tạo thành sự thật hành dâm. Hai căn (bộ sinh dục)
của nam nữ tiếp xúc và nhập vào nhau một chút như hạt mè, thành tội
trọng bất khả hối.
Nếu ngũ giới nam trừ vợ mình ra, đối với người nữ, chẳng phải người
nữ, súc sinh cái ở ba chỗ (tức là miệng, âm đạo, đường tiểu tiện) hành
dâm; hoặc đối với người dâm chẳng phải người nam, súc sinh đực và huỳnh
môn (người bị thiến), hoặc người hai tánh âm dương bất toàn ở hai chỗ
(miệng và đường đại tiện) hành dâm, người hai hình (có lúc biến thành
nam có lúc biến thành nữ) phi nhân hai hình, súc sinh hai hình, ở ba chỗ
hành dâm, phạm tội trọng bất khả hối. Hai thân hòa hợp mà chưa hành
dâm, nửa chừng ngưng lại phạm tội trung khả hối. Trừ ba chỗ của nữ tánh,
hai chỗ của nam tánh, ở các bộ phận khác hành dâm tội đều khả hối.
Trong lúc ngủ say, ba chỗ của nữ tánh, hai chỗ của nam tánh hành dâm
cùng phạm tội trọng bất khả hối. Nơi ba chỗ của người nữ chết, hai chỗ
của người nam chết mà hành dâm, nếu tử thi chưa hoại hoặc hơn phân nửa
chưa hoại cũng phạm tội trọng bất khả hối. Nếu tử thi hoại phân nửa hoặc
hơn phân nửa, hoại tất cả, cho tới chỉ còn bộ xương mà hành dâm, đều
phạm tội hạ khả hối.
Trong Kinh Ưu bà tắc Ngũ Giới Tướng nói:”Nếu Ưu bà tắc cùng dâm nữ
hành dâm không trả tiền, phạm tà dâm bất khả hối, trả tiền thì không
phạm”. Đây là nói người nam tại gia thọ ngũ giới bỏ tiền ra hành dâm với
dâm nữ chẳng phạm giới. Đây là do ở Ấn Độ, đối với quan hệ nam nữ rất
tùy tiện, người nam bỏ tiền ra hành dâm với người nữ là việc thông
thường, vì thế không cấm. Song, trong Đại thừa Bồ tát giới, nếu chẳng
phải là Bồ tát Địa thượng (bậc Sơ địa trở lên) vì nhân duyên nhiếp hóa
chẳng được có hành vi này. Trong quan niệm tập tục của người Trung Quốc
hiện nay, hành vi bỏ tiền ra hành dâm với dâm nữ chẳng phải là gương tốt
của các bậc thánh nhân quân tử. Chúng ta đã tin Phật, học Phật, lại là
người đã thọ ngũ giới, ta cũng nên coi đó là tà dâm.
Người thời nay vì lý do ngừa thai hoặc phòng độc, có dùng bao cao su
và vòng an toàn, tuy bộ sinh dục của nam nữ không tiếp xúc trực tiếp
nhau, song cũng hưởng thụ được cái khoái lạc của hành dâm, nên nam nữ
không phải là vợ chồng mà hành dâm cũng coi là đồng với tà dâm. Trong
luật có ghi rõ : Bất luận có ngăn cách (như dùng bao cao su hoặc vòng an
toàn ) hoặc một bên có ngăn cách, hoặc hai bên đều có ngăn cách, chỉ
cần hai bộ sinh dục nhập vào nhau một chút như đầu sợi lông (cũng gọi là
như hạt mè) tức thành tội trọng bất khả hối. Bất luận là làm bên trong
xuất tinh bên ngoài, hoặc làm bên ngoài xuất tinh bên trong, đều phạm
tội trọng bất khả hối.
Người nữ đem ba chỗ (miệng, âm đạo, đường đại tiện) thọ nhận người
nam, chẳng phải người nam, súc sinh đực, người hai hình, phi nhân hai
hình, súc sinh hai hình và huỳnh môn hành dâm mà có cảm thọ khoái lạc
đều phạm tội trọng bất khả hối. Bất luận lúc ngủ hay lúc thức, cho đến
bị sức mạnh cưỡng hiếp, ba chỗ thọ nhận hành dâm hễ có một niệm cảm thọ
khoái lạc đều thành tội trọng bất khả hối. Người nữ do phiền não dâm
dục, ở trên tử thi của người nam hành dâm, nếu tử thi chưa hoại hoặc
hoại hơn phân nửa, phạm tội trung khả hối. Người nữ do phiền não dâm dục
lợi dụng khí vật đút vào trong nữ căn (âm đạo) (người đời nay gọi là
thủ dâm) cảm thọ khoái lạc, phạm tội hạ khả hối.
Có ngăn cách cùng không ngăn cách theo trên có thể biết.
Phạm giới đều tại nơi tâm, nếu như không có tâm tà dâm thì không chủ
động đi phạm giới tà dâm, rủi bị cường lực cưỡng bức mà bị gian ô, nếu
lúc đó không có chút cảm thọ khoái lạc thì không phạm giới. Điều này ở
thời Đức Phật có mấy vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đắc quả A la hán, hoặc nhân
lúc ngủ say hoặc nhân trong bệnh khổ cũng bị dâm nữ hoặc bọn dữ hiếp
dâm, nhưng vì A la hán đã ly dục nên hẳn là không thọ khoái lạc, vì thế
chẳng phạm giới.
Do đó giới dâm cũng có khai duyên. Nếu bị oan gia bức bách mà không cảm thọ khoái lạc thì không phạm.
Phạm vi của tà dâm không những chẳng được cùng nam nữ ngoài vợ chồng
phát sinh quan hệ không chính đáng, giả sử là vợ chồng cũng có sự hạn
chế: Ngày kỷ niệm Phật, Bồ tát, mỗi tháng 6 ngày trai chẳng được hành
dâm, ngày sinh nhật của cha mẹ, ngày chết của thân thuộc như cha mẹ, anh
em, chị em v.v…chẳng được hành dâm. Trong thời kỳ kinh nguyệt, thời kỳ
mang thai trước khi sinh, sau khi sinh chẳng được hành dâm ở chỗ
khác.Trừ ban đêm ở trong phòng ngủ ra, chẳng được hành vào lúc khác, nơi
khác. Tốt nhất là phải làm cho được điều này: Lúc con cái thành niên
phải thực hành tiết dục; sau khi con cái được dựng vợ gả chồng, phải
thực hành cấm dục.
Do đó, tội lỗi của tà dâm, phân làm 3 phẩm: Cùng với lục thân (mẹ
con, chị em, cha con, anh em) hành dâm, là phạm thượng phẩm tội. Cùng
tất cả nam nữ ngoài vợ chồng tà dâm là phạm trung phẩm tội. Cùng với vợ
mình hành dâm chẳng phải lúc chẳng phải đạo là phạm hạ phẩm tội. Theo sự
khinh trọng của ba phẩm này phân biệt bị đọa tam đồ. Nhưng trong tất cả
giới tà dâm, phá phạm hạnh của người tịnh giới là tội nặng hơn hết.
Người tịnh giới tức đệ tử Phật đã thọ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa
ma na, Sa di, Sa di ni, cho đến người thọ trì Bát quan giới trai, trong
ngày trai của họ phá tịnh giới cũng gọi là ô phạm hạnh, song phải là
lần thứ nhất phá. Nếu đã từng thọ giới, mà trước đã bị người khác phá
hủy rồi sau lại cùng người hành dâm, thì chẳng thành tội phá giới tịnh
giới mà là tội tà dâm. Nếu chẳng thọ ngũ giới lại phá tịnh giới của
người khác, tuy chưa thọ Phật giới nên không có phạm giới tội, song vĩnh
viễn không được cầu thọ tất cả Phật giới, vĩnh viễn bị bỏ ra ngoài biển
lớn Phật pháp, vì thế gọi phá tịnh giới là Biên tội.
Giới tà dâm vốn cũng phiền toái, như chẳng được nói lời thô ác dâm
dục và các chi tiết nhỏ nhặt phòng ngừa không thể kể hết, chỉ mong mọi
người tự nhiếp tâm tự trọng. Thông thường, nam nữ đã kết hôn, đã có sinh
hoạt bình thường của vợ chồng, trì giới tà dâm rất dễ.
4. GIỚI VỌNG NGỮ
Vọng ngữ là lời nói dối trá thiếu thành thật. Ngày nay trong thế giới
của chúng ta, xã hội của chúng ta, và ngay cả cá nhân chúng ta đều đầy
dẫy sự vọng ngữ.
Thời cổ đại, vọng ngữ chỉ truyền trong một phạm vi giới hạn, người bị
gạt chẳng đến nỗi nhiều. Nhân loại ngày nay có các phương tiện truyền
thông như : báo chí, điện thoại, truyền thanh, truyền hình làm công cụ
truyền bá, chỉ cần vận dụng khéo léo, thì sức mạnh của vọng ngữ không
còn giới hạn, chỉ một lời nói dối cũng có thể dối gạt loài người toàn
thế giới.
Sự vọng ngữ của thời xưa chỉ hạn cuôc nơi lời nói, ngày nay trừ ngôn
ngữ tiếp xúc ra, còn có văn tự của kỹ thuật ấn loát mới phát minh sau
này làm môi giới. Ngôn ngữ nói ra liền tiêu mất, văn tự chẳng những dối
gạt người một thời, một nơi, mà còn tung hoành vượt cả thời gian và
không gian nữa.
Chúng ta có thể nói chắc rằng: Mỗi ngày mở báo ra, trong báo có rất
nhiều vọng ngữ, từ sự đàm thoại của người hiện đại đến sự quảng cáo của
thương nghiệp, ai bảo chứng được ý hướng của họ có bao nhiêu phần chân
thật? Đặc biệt là sự thêu dệt của báo chí dưới ngòi bút của ký giả, tuy
chẳng nói là hoàn toàn bịa đặt, song có rất nhiều tình tiết đặt ra từ sự
tưởng tượng và suy diễn của bộ óc thông minh của loài người
Vì thế ngày nay đề xướng giới trừ vọng ngữ là điều tuyệt đối cần kíp.
Trong Phật giáo, chia vọng ngữ ra làm 3 lọai: Đại vọng ngữ, tiểu vọng
ngữ, phương tiện vọng ngữ. Trọng yếu hơn hết chính là phạm tội đại vọng
ngữ. Đại vọng ngữ hội đủ 5 điều kiện, thành tội trọng bất khả hối:
Nói với người: Đối với người đại vọng ngữ.
Tưởng là người: Nhận định đối phương là người chứ chẳng phải là phi nhân hoặc súc sinh.
Có tâm dối gạt: Có ý muốn đối phương bị gạt.
Nói đại vọng ngữ: Tự mình chưa chứng thánh quả thánh pháp, mà tự nói
đã chứng thánh quả, cho đến thật chưa đắc tứ thiền định lại nói đã đắc,
thật chưa thấy thiên đến, long đến, thần đến, quỷ đến, mà nói thấy thiên
đến, long đến, thần đến, quỷ đến.
5. Người đối diện hiểu: Đối phương hiểu được nội dung đã nói. Nếu như
đối phương là người điếc, người si, người chẳng hiểu lời nói, và hướng
về phi nhân, súc sinh nói đại vọng ngữ, chẳng phạm tội trọng.
Định nghĩa của vọng ngữ là không biết nói biết, biết nói không biết,
không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không hay nói hay, hay nói
không hay, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe.
Các cách vọng ngữ là tự vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, sai sử vọng
ngữ, viết thành văn tự vọng ngữ, hiện tướng vọng ngữ (hiện tướng lạ để
gạt mọi người, thân làm oai nghi để biểu thị mình chẳng phàm phu, lại
như im lặng nhận thầm, chỉ gật đầu ra dấu).
Hễ có tâm dối gạt người, bất luận dùng phương pháp nào khiến cho
người bị dối gạt hiểu được, dù dối gạt có đạt được mục đích hay không
(như cầu danh tiếng lợi dưỡng), đều phạm tội vọng ngữ.
Có ý tâng bốc lẫn nhau, như A nói B là thánh nhân, B nói A là thánh
nhân, để mong được người thứ ba cung kính cúng dường mà thật chẳng
thánh nhân, cũng là tội đại vọng ngữ. Nếu như chẳng dùng đại vọng ngữ
dối gạt người, tất cả sự dối gạt đều gọi là tiểu vọng ngữ. Nếu vì cứu độ
chúng sinh, Bồ tát có thể làm phương tiện vọng ngữ, tỷ như kẻ say rượu
muốn giết người, nếu thật thấy người kia lại nói gạt kẻ say rượu là
không thấy thì không tội.
Đại vọng ngữ đầy đủ 5 điều kiện kể trên thành tội trọng bất khả hối.
Tuy nói đại vọng ngữ mà ngôn từ chẳng rõ ràng, hoặc đối phương không
hiểu, phạm tội trung khả hối. Hướng về súc sinh nói đại vọng ngữ phạm
tội hạ khả hối. Muốn nói đắc quả A la hán, nói lầm đã đắc quả A na hàm,
hễ tâm miệng chẳng hợp nhau, dù nói đại vọng ngữ khiến cho người hiểu,
đều đã đắc tội trung khả hối. Nói thế gian vọng ngữ dối gạt người, đều
phạm tội khả hối.
Trong vọng ngữ còn gồm có lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ; khi phạm, tuy
chẳng mất giới thể nhưng phạm tội khả hối. Lưỡng thiệt là khiêu khích ly
gián, đến người này nói người kia, đến người kia nói người này. Ác khẩu
là nói những lời chê bai bươi móc, chửi rủa, nói mát, châm biếm, khắc
nghiệt. Ỷ ngữ là những lời trau chuốt khiến người sa vào vòng trụy lạc,
lời ca tình tứ, văn chương trữ tình, chuyện tiếu lâm, nói chuyện vô bổ,
lời chẳng đúng nghĩa. Người thọ ngũ giới phải luôn luôn kiểm điểm, bằng
không, phạm lỗi còn tự chẳng biết.
Trong giới vọng ngữ, trừ người chẳng biết hổ thẹn, chẳng hiểu nhân
quả mới phạm đại vọng ngữ, thường thường dễ phạm nhất là tiểu vọng ngữ,
khó ngăn nhất là ỷ ngữ, còn cơ hội phạm lưỡng thiệt và ác khẩu không
nhiều lắm. Như có bốn người bạn họp lại một chỗ cao hứng cười nói, chắc
chắn là họ có phạm tội ỷ ngữ (nếu như họ đã thọ ngũ giới). Vì thế, người
tu hành phải nên “thủ khẩu như bình”.
Nam nữ tại gia phải hết sức chú ý đến vấn đề bình luận về đệ tử Phật,
nhất là đối với người xuất gia. Người tại gia chẳng được nói lỗi xấu
của người xuất gia, như thật có lỗi xấu, cũng chẳng được thấy người bèn
nói. Nếu như không phải do chính mình thấy nghe, có tội chứng xác thực,
mà chỉ nghe người ta nói, mình nói theo, hoặc nói càn người nào có phạm
giới, người nói đó trước tiên phạm tội phỉ báng người không có căn cứ
(thấy, nghe, nghi là ba căn cứ để chứng tội). Phỉ báng càng nặng, chính
mình bị tội phỉ báng càng nặng.
Nhưng muốn dứt hẳn vọng ngữ phải sau khi chứng Sơ quả. Phàm phu thật
khó giữ hoàn toàn thanh tịnh giới vọng ngữ, hễ biết kiểm điểm thì vừa
phạm lỗi nơi miệng lập tức hối cải, mới có thể chẳng mất tư cách của
người Phật tử học Phật.
5. GIỚI UỐNG RƯỢU
Giới uống rượu là giới đặc biệt của nhà Phật. Từ ngũ giới cho đến Đại
thừa Bồ tát giới cấm uống rượu. Tỳ kheo Tiểu thừa không giữ giới ăn
thịt nhưng vẫn giữ giới uống rượu. Điều này ở Trung Quốc tình hình có
chút bất đồng, có nhiều Phật giáo đồ ăn chay trường nhưng lại chẳng giữ
giới rượu, họ cho rằng uống rượu có thể dưỡng sinh, họ quan niệm “uống
rượu mà không cho say”, tham luyến vật trong ly, kỳ thật là hành vi phạm
giới.
Bản thân của rượu vốn không gây tội ác, vì thế uống rượu là một giới
duy nhất của ngũ giới thuộc giá giới. Nhưng vì sau khi uống rượu có thể
tạo thành tội ác vì muốn ngăn ngừa nhân uống rượu tạo thành tội ác phạm
giới, cho nên chẳng cho uống rượu. Uống rượu tuy chẳng chính là phạm
tội, nhưng rượu lại hay khiến người phạm tội hơn hết, ba ly đổ vào bụng,
do sự kích thích của chất men rượu khiến cho hệ thống thần kinh hưng
phấn, mật to xung động, mờ mắt, mất đi sự khống chế của lý trí, có thể
mắng người, đánh người, giết người, hiếp dâm, phóng hỏa v.v…
Trong kinh luật Đại thừa, Tiểu thừa đều chủ trương giới rượu, đồng
thời có lưu truyền một sự tích như sau: Thời Đức Phật Ca Diếp Ba, có một
người thọ ngũ giới luôn luôn trì giới thanh tịnh, một hôm, từ bên ngoài
trở về nhà, quá khát nước, ông ta thấy trên bàn có một chén rượu màu
trong như nước. Ông ta tưởng là nước, uống một hơi vào bụng, nào ngờ lúc
tính chất rượu phát tác khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy
gà hàng xóm, ông ta bèn bắt trộm làm thịt ăn, vợ của hàng xóm mất gà
sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng gian. Sau việc đó,
bị bắt đến công đường, ông ta chối cãi không nhận tội. Vì uống nhầm một
chén rượu mà ông ta liên tục phạm đủ 5 điều giới, tội ác của rượu rất là
lớn vậy.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một vị A la hán tên là Sa Dà Đà,
thần lực của Ngài có thể hàng phục độc long, sau khi khất thực, Ngài
nhận lầm chén rượu có màu nước do tín đồ cúng dường, uống xong, Ngài đi
về bị say té ngã dọc đường. Đức Phật thấy bèn hỏi các đệ tử: “Sa Dà Đà
trước kia có thể hàng phục độc long, bây giờ hàng phục con cóc có được
không?”
Rượu là gì? Trong Tứ Phần Luật nói: “Rượu là rượu nước trái cây, rượu nếp, rượu đại mạch và các thứ rượu khác”.
Thế nào là phạm giới uống rượu? Trong Tứ Phần Luật nói: “Màu rượu,
mùi rượu, vị rượu chẳng nên uống”. Trong Thập Tụng Luật nói: “Uống rượu
thù tạc, uống rượu say hoặc men rượu hoặc hèm rượu, tất cả thứ nào có
thể làm cho người say, hễ nuốt vào là phạm Ba dật đề. Nếu chỉ có màu
rượu mà không có mùi rượu, vị rượu, không làm người say, uống không
phạm”. Nhưng trong Tứ Phần Luật nói: “Không phạm như lấy rượu làm thuốc,
lấy rượu rữa vết thương. Song phải do thầy thuốc dặn bảo, chứ chẳng
được tự chủ trương giả danh lấy rượu làm thuốc mà hưởng sự thích thú
uống rượu. Bằng không, thì uống vào phạm tội Khả hối”.
Tội báo của uống rượu rất đáng sợ, trong Tứ Phần Luật nói có 10 lỗi,
lỗi thứ 10 là khi chết rồi đọa vào ba đường ác. Ngoài ra còn có 36 lỗi
(Tứ Phần Luật và Kinh Phân Biệt Thiện Ác Báo Ứng có ghi). Đã biết rượu
là món không nên uống, nhưng phải đủ ba điều kiện mới thành tội khả hối:
1. Là rượu: Đồ uống làm cho người say.
2. Tưởng là rượu: Biết rõ đồ uống làm người say.
3. Vào miệng chẳng được cho một giọt dính môi, vào miệng nuốt xuống một hớp phạm tội khả hối.
Trên sự trì phạm của ngũ giới, một giới uống rượu rất là dễ trì, song
muốn vĩnh viễn không phạm giới uống rượu cần phải đến bậc thánh A la
hán mới có thể không phạm.
III. NGŨ GIỚI PHỐI VỚI THẬP THIỆN CỦA BA NGHIỆP
Nội dung của ngũ giới nói đến đây đại khái cũng đầy đủ. Thông thường
có người đem Ngũ giới Thập thiện ra phân biệt giải thích, cũng có người
cho thập thiện là thập giới. Nhưng trong Phật giới chưa sắp xếp thập
thiện làm giới phẩm, như nói thọ giới là chỉ cho Sa di thập giới, nội
dung của Sa di thập giới khác hẳn với thập thiện. Thật ra, thập thiện có
thể bao hàm trong ngũ giới; vì thế, ngũ giới thập thiện thông thường
được đặt liền nhau. Tu ngũ giới, thập thiện đồng được quả báo trời
người. Thập thiện tức là sự phân hóa của ngũ giới, chứ không riêng có
thập thiện, điều này có rất nhiều căn cứ trong kinh điển.
Nội dung của thập thiện là: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà
hạnh (cũng gọi là tà dâm, trong tà hạnh bao quát tất cả chỗ phóng dật
của cảnh ngũ dục), không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu,
không ỷ ngữ, lìa tham dục, lìa sân nhuế, lìa tà kiến. Phân loại mà nói,
thập thiện thuộc ba nghiệp thân, ngữ, ý, cho nên cũng gọi là thập thiện
nghiệp. Tu trì hạnh thập thiện là hạnh sinh vào đường lành, vì thế gọi
nó là thập thiện nghiệp đạo.
Tiết thứ 2 điều thứ 4, lúc giảng về giới vọng ngữ đã nói một giới
vọng ngữ là bao gồm 3 điều thiện: Không lưỡng thiệt, không ác khẩu,
không ỷ ngữ; đủ biết ngũ giới thật đã khái quát 7 chi thiện giới của 2
nghiệp thân, ngữ của thập thiện; đến 3 chi tham dục, sân nhuế, tà kiến
thuộc ý nghiệp, nếu chẳng nhờ sự biểu hiện của hai nghiệp thân, ngữ thì
chẳng tạo tác thành thiện ác. Thật ra, 3 chi của ý nghiệp là do 7 chi
của thân, ngữ nhiếp thọ; ý nghiệp chi phối 2 nghiệp thân, ngữ mà có tạo
tác. Hai nghiệp thân, ngữ, nếu không có ý nghiệp làm chủ tể tạo tác, ác
nghiệp được tạo cũng chẳng thành tội trọng, thậm chí còn vô tội. Vì thế,
bàn đến ngũ giới tức là đã đầy đủ thập thiện… Nếu trái với thập thiện
là thành thập ác, trái với ngũ giới là ngũ bất giới.
Sự phối hợp của ngũ giới với thập thiện đại khái có thể dùng hai biểu đồ sau đây để thuyết minh:
Hai biểu đồ trên cần phải nói rõ thêm một chút:
Trong biểu đồ thứ nhất, giới uống rượu phối hợp với ba chi của ý
nghiệp là tham, sân, tà kiến dường như gượng ép. Thật ra không phải
gượng ép đâu vì y theo Phật pháp nói rượu có phân ra sự tửu và lyù tửu.
Phổ thông uống rượu là sự tửu, có hình thái vật chất; nhân vì tính chất
của rượu làm cho người ta say sưa mất đi lý trí, vì thế phàm là hiện
tượng tâm lý tham, sân, si cũng đều gọi là uống rượu, đó là lý tửu của
vô minh phiền não, phải đợi đến sau khi thành Phật mới có thể vĩnh viễn
không còn uống. Cho nên ba thứ ý nghiệp tham, sân, tà kiến này phối hợp
với một giới uống rượu cũng không lầm.
Biểu đồ thứ hai đem ba thứ của ý nghiệp phối hợp với ngũ giới tuy có
tính chất của Thập thiện mà lại chẳng phải hình thái của Thập thiện, vì
trong chi mục của Thập thiện không có giới uống rượu. Nhưng đem ba thứ
của ý nghiệp phối hợp với hành vi tạo tác cũa ngũ giới là tuyệt đối
chính xác.
1. Sát sinh có 3 thứ
a- Do tham dục mà giết, vì tham vị ngon của thịt, vì tham lợi nhuận
mà sinh ra sự sát sinh bán thịt, vì tham giá cao hoặc vì đền đáp ân huệ
mà sát sinh.
b- Do sân nhuế mà giết, vì báo cừu rửa hận, vì buồn thẹn phẩn nộ, vì trừ khử chướng ngại.
c- Do tà kiến mà giết, vì cầu phước báo, vì cầu công đức, vì cầu bình
an, vì cầu phồn thịnh như là giết các loài súc sinh để tế thần cúng
quỷ, thậm chí có dân tộc dã man bắt người chặt đầu để tế lễ tạ ơn thần
linh.
Loại nghiệp sát này đều thuộc tri kiến tà ác cho nên gọi là Tà kiến sát.
2. Trộm cướp có 3 thứ
a- Tham dục trộm cướp: Thấy lợi quên nghĩa, vì cầu phát tài, vì cầu
hưởng lạc, vì cầu sinh hoạt được tốt hơn, vì cầu thỏa mãn tâm tham.
b- Sân nhuế trộm cướp: Tật đố sự giàu sang của người khác, bất mãn
người khác phát tài, hoặc vì báo thù người mà làm cho người bị tổn thất
tài vật, hoặc vì bị kích thích, nhân đó mà phẩn nộ đến nỗi trộm cướp và
làm tổn thất của người.
c- Tà kiến trộm cướp: Vì cầu bình an, vì cầu nguyện vọng thành đạt;
như trong lang tội, phụ nữ mới lấy chồng, hoặc phụ nữ lấy chồng lâu năm
không có con, thích đến tự viện trộm cướp giày dép của người xuất gia và
đồ cúng trang nghiêm ở điện Phật đem về nhà ép dưới gối ngủ, họ cho
rằng làm như thế sẽ được sinh con trai, đây có thể coi là một loại tà
kiến trộm cướp.
3. Tà dâm có 3 thứ
a- Tham dục tà dâm: Vì tham hưởng thụ khoái lạc dâm dục, bất luận là
đồng lòng thông dâm, dụ dỗ thông dâm, hoặc hiếp dâm, cho đến mại dâm, vì
thích khoái lạc dâm dục nên cùng với nam nữ ngoài vợ chồng sinh ra quan
hệ dâm dục, đều gọi là tham dục tà dâm.
b- Sân nhuế tà dâm: Vì cừu oán gian dâm với mẹ, con, chị, em, vợ
chính, nàng hầu của người. Tôi còn nhớ trong thời kỳ chiến tranh kháng
Nhật, hễ vài người lính Nhật vào làng thường thường bị đội du kích Trung
Quốc giết. Quân Nhật hay tin đem lính càn quét, thấy nhà liền đốt, đàn
ông liền giết, thấy đàn bà con gái thì hãm hiếp hoặc luân phiên hãm
hiếp, sau khi hiếp dâm rồi chém một nhát. Đây là một thứ sân nhuế tà
dâm.
c- Tà kiến tà dâm: Vì cầu công đức, vì cầu phước báo, vì cầu con cái,
vì cầu trường sinh, cho đến vì cầu giải thoát mà hành tà dâm. Thuở xưa
có nhiều tôn giáo mê tín, như Đạo giáo của Trung Quốc có thuyết “Phòng
Trung Thuật”, cho rằng lấy âm để bổ dương, lấy dương để bổ âm, nam nữ
giao cấu là pháp tu luyện trường sinh bất lão. Tương tự, trong Ấn Độ
giáo, quan điểm tà kiến này cũng cho rằng có thể giải thoát ở trong sự
khoái lạc dâm dục giữa nam và nữ, nói là “tánh mạng song tu”,
“thân
tâm song tu”. Còn có một thứ tà kiến là một số nam nữ kết hôn với nhau
lâu năm không có con, có hành vi mượn thai mượn giống. Kỳ thật, muốn từ
trong phương pháp phóng túng dâm dục để được trường sinh, thiền định,
giải thoát, công đức, phước báo, con cái, ấy là việc tuyệt đối hoang
đường.
4. Vọng ngữ có 3 thứ
a- Tham dục vọng ngữ: Vì tham danh tiếng lợi dưỡng, vì tham tửu sắc, thế lực.
b- Sân nhuế vọng ngữ: Vì là cho oan gia bị gạt, vì khiến cho người
cùng phi nhân cho đến súc sinh não loạn mình và chướng ngại mình bị sự
tàn hại cho nên vọng ngữ. Vì giận hờn mà ác khẩu và lưỡng thiệt là điều
rất phổ biến.
c- Tà kiến vọng ngữ: Cho rằng nói dối có thể tránh được nạn, mắng
người có thể tiêu tai. Tỷ như người dân quê ở Trung Quốc khi cảm mạo có
người dùng tờ giấy viết mấy chữ: Xuất mại trọng thương phong, nhất niệm
tựu thành công” dán ở trên cây bên đường hoặc trên vách tường, ấy cũng
là một loại tà kiến vọng ngữ.
5. Uống rượu có 3 thứ
a- Tham dục uống rượu: Vì muốn thỏa mãn cái miệng, cái bụng, tham sự
kích thích của men rượu, vì cầu sự hưng phấn dẫn khởi cho sắc dục (uống
rượu và người đẹp thường thường không thể tách rời nhau).
b- Sân nhuế uống rượu: Như nói: “Mượn rượu giải sầu”, người ta lúc
phẫn nộ hoặc thất ý thường dùng rượu để giải sầu, kỳ thật, đâu phải
không nghe nói “Mượn rượu để giải sầu càng thêm sầu” hay sao?
c- Tà kiến uống rượu: Vì cầu dưỡng sinh, vì cầu đắc đạo thành thần
tiên, vì cầu sinh lên trời mà uống rượu. Tỷ như có một số người cho rằng
uống rượu hữu ích cho rự tráng kiện. Có người cho rằng Lý Thái Bạch
uống rượu rốt cuộc thành tửu tiên. Có tôn giáo cho rằng rượu có khả năng
thông thần, trong các vị thần cũng có tửu thần. Ngoại đạo lõa thể ở Ấn
Độ thậm chí cho rằng uống rượu giúp cho sự giải thoát. Những thuyết này
đều là tà kiến, đều là kiến điên đảo. Tôi xin can quý độc giả. Quý vị
thấy một người say rượu mặt đỏ gay, mắt đầy tia máu, mùi rượu nực nồng,
quý vị có cảm tưởng gì? Cho là đáng ghét hay đáng yêu?
Ngũ giới phối hợp thập thiện, đã thuyết minh như trên, sau khi hiểu
rõ nội dung của ngũ giới, chúng tôi có thể giới thiệu về sự nạp thọ giới
thể của ngũ giới như thế nào ở chương sau.