DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
V
LIỄU
BIỆT CẢNH THỨC
BÀI
TỤNG THỨ TÁM
Thứ
đệ tam năng biến
Sai
biệt hữu lục chủng
Liễu
cảnh vi tánh tướng
Thiện,
bất thiện, câu phi.
Dịch
là:
Thức
năng biến thứ ba
Có
sáu loại khác nhau
Tánh
tướng là biết cảnh
Thiện,
bất thiện và vô ký.
Có
nghĩa là thức năng biến thứ ba có sáu loại khác nhau. Tánh
chất và đặc tính của sáu thức này là nhận biết các đối
tượng trần cảnh. Sáu thức này gồm đủ ba tánh thiện,
ác và vô ký (không thiện không ác).
Sáu
thức này tùy theo sáu căn nhận ra các sắc trần sai khác mà
đặt tên. Sáu căn gồm có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
mà Duy thức đặt tên theo thứ tự là Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ
căn, Thiệt căn và Ý căn. Sáu thức từ Nhãn thức cho đến
Ý thức nương theo sáu căn mà phân biệt các pháp trần cảnh
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Năm
thức đầu gọi là Tiền Ngũ Thức gồm Nhãn thức, Nhĩ thức,
Tỷ thức, Thiệt thức và Thân thức. Mỗi thức này chỉ nhận
biết các đối tượng liên quan đến nó mà thôi. Nhãn thức
chỉ nhận biết hình tướng tức Sắc trần, Nhĩ thức chỉ
biết âm thanh tức Thanh trần, Tỷ thức chỉ biết mùi hương
tức Hương trần, Thiệt thức chỉ biết mùi vị tức Vị
trần, Thân thức thì phân biệt sự xúc chạm tức Xúc trần.
Nhờ
vào Ý thức mà các nhận biết nơi Tiền ngũ thức mới được
ghi nhận đầy đủ và chính xác.
Chẳng
hạn khi đối tượng là một bông hoa, nếu chỉ có Tiền ngũ
thức hoạt động mà không có sự tác động của Ý thức
thì ta không biết đó là bông hoa gì, mầu sắc và hương vị
ra sao.
Bài
tụng nói Liễu cảnh vi tánh tướng là muốn nói cái dụng
của sáu căn và sáu thức đầu này là phân biệt được đối
tượng trần cảnh, biết đưọc đặc tính và hình tướng
của đối tượng. Trần cảnh còn được gọi là pháp trần,
hay đơn giản hơn thì gọi là pháp hay là cảnh. Cảnh hay là
pháp ở đây là tất cả mọi thứ có cái tánh chất mà ta
có thể có khái niệm và nhận biết được (nhậm trì tự
tánh, quỹ sinh vật giải) chứ không phải là phương pháp
hay là giáo pháp.
Theo
bài tụng thì sáu thức này gồm cả ba tánh thiện, bất thiện
và vô ký.
Tất
cả các pháp đem lại lợi ích cho đời này hoặc đời vị
lai đều gọi là thiện pháp. Tất cả các pháp không có lợi
ích gì cho kiếp hiện tại hay vị lai đều gọi là bất thiện
pháp. Còn tất cả những gì không xác định được có lợi
hay không có lợi, là thiện hay là ác thì gọi là vô ký, nghĩa
là không thiện lẫn không ác thí dụ hành động đi, đứng,
nằm, ngồi, ăn, uống chỉ là đi đứng nằm ngồi và ăn uống
thôi không có gì là tốt hay xấu trong đó. Tốt hay xấu là
tùy theo chủ đích của hành động, như đi ăn cướp thì là
xấu, đi làm việc từ thiện thì là tốt, ăn uống chừng
mực thì là tốt còn tham ăn tham uống thì là không tốt rồi.
Khi
tương ưng với các tâm sở thiện thì sáu thức này được
xếp loại là thiện, khi tương ưng với các tâm sở phiền
não thì được xếp loại là bất thiện và khi chúng không
tương ưng với cả hai loại tâm sở trên thì được xếp
loại là vô ký nghĩa là không thiện cũng không ác.
BÀI
TỤNG THỨ CHÍN
Thử
tâm sở biến hành
Biệt
cảnh, thiện, phiền não
Tùy
phiền não, bất định
Giai
tam thọ tương ưng.
Dịch
là:
Các
tâm sở biến hành,
Biệt
cảnh, Thiện, Phiền não,
Tùy
phiền não, Bất định,
Đều
tương ưng ba thọ.
Có
tất cả 51 tâm sở, được phân ra làm 6 loại: 5 biệt cảnh,
11 Thiện, 6 Căn bản phiền não, 20 Tùy phiền não và 4 Bất
định.
Năm
món Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư luôn luôn
có mặt trong tất cả các loại Tâm vương, chu biến trong tất
cả các giới và địa của cả ba thời nên gọi là tâm sở
biến hành.
Năm
món biệt cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ chỉ
có mặt với các nhận thức riêng biệt liên quan đến đối
tượng nhận thức nên gọi là Biệt cảnh. Dục có khả năng
nhận biết tướng yêu thích và mong cầu, Thắng giải biết
được tướng quyết định, Niệm biết được tướng đã
thuần thục và ghi nhớ, Định và Huệ có khả năng biết
được những chú tâm và các việc làm của Tâm vương.
Mười
một món tâm sở thiện chỉ sanh khởi ở trong thiện tâm vương.
Sẽ nói chi tiết khi giải bài tụng thứ mười một.
Các
tâm sở căn bản phiền não và tùy phiền não chỉ sanh khởi
trong các Tâm vương bị phiền não. Sẽ nói chi tiết về các
tâm sở này sau.
Tâm
sở bất định gồm có Hối, Miên, Tầm và Tứ thì có thể
sanh khởi trong tâm thiện hay tâm phiền não nên gọi là bất
định, sẽ từ từ bàn đến sau.
Tánh
chất cảm thọ của sáu loại tâm sở này có thể là khổ
thọ, lạc thọ hay là xả thọ tức là không khổ cũng
không lạc nên nói chúng tương ưng với cả ba thọ.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI
Sơ
Biến hành: Xúc đẳng
Thứ
Biệt cảnh vị: Dục
Thắng
giải, Niệm, Định, Huệ
Sở
duyên sự bất đồng.
Dịch
là:
Các
biến hành: Xúc thẩy
Các
biệt cảnh gồm: Dục,
Thắng
giải, Niệm, Định, Huệ.
Cảnh
sở duyên không đồng.
Năm
món Tâm sở biến hành là các loại tâm sở luôn có mặt cùng
mỗi tâm vương trong tất cả mọi hoàn cảnh, mọi không gian
và mọi thời gian. Tâm sở biến hành có năm thứ gồm Xúc,
Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Tất cả tâm sở này được gọi
tắt là xúc đẳng tức là xúc cùng bốn biến hành còn lại
gồm Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Xúc đẳng này đã được
bàn đến ở phần nói về A lại da thức nhưng để làm sáng
tỏ thêm cũng xin nêu ra thí dụ sau:
Thí
dụ một người đang lang thang trên những bờ ruộng nơi thôn
dã. Bỗng ngửi thấy một mùi hương thơm man mát, dìu dịu.
Người ấy chợt nhìn lên và thấy cảnh một hồ sen lớn
với những đóa hoa sen đủ mầu sắc đẹp đẽ. Các hoa sen
với những cánh vàng, trắng, hồng đang lay động trước gió
phơi bầy những nhụy vàng lung linh múa nhẩy bên trong. Ngước
nhìn lên người ấy thấy tượng Bồ tát Quán âm to lớn trắng
tinh đứng trên một tòa sen lớn, gương mặt thật khả ái
và từ bi, tay cầm bình nước như đang tưới những giọt
cam lồ làm xoa dịu mọi khổ đau của chúng sinh. Người ấy
cảm thấy lòng thật khoan khoái, nhẹ nhàng và mơ tưởng đến
những cảnh giới trang nghiêm nơi cõi Tịnh độ.
Trong
thí dụ trên mùi hương phảng phất đó dụ như tác dụng
của tâm sở Xúc khiến cho chú tâm mà tập trung đến cảnh
hồ sen đẹp đẽ, tươi mát với hình ảnh từ bi nhân ái
của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Sự chú tâm và tập trung
đó là Tác ý. Cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái cùng với
sự tưởng tượng đến cảnh giới hoa sen nơi cõi tịnh độ
đó là tác dụng của Thọ và Tưởng. Những thọ tưởng đó
khiến người ấy suy nghĩ và tư duy rồi quyết định tìm
hiểu thêm về Phật Pháp.
Do
sự tìm hiểu đó mà nguời đó trở nên thích thú trong việc
nghiên cứu kinh điển, hiểu rõ và ghi nhớ được những lời
Phật dậy. Nhờ đó mà tin tưởng vào sự thực hành thiền
định và lý giải được chân lý của đạo Phật. Đó là
tiến trình của các tâm sở biệt cảnh Dục, Thắng giải,
Niệm, Định và Huệ. Vì các tâm sở này chỉ xẩy ra một
lúc nào đó và trong hoàn cảnh nào đó chứ không phải luôn
luôn tác động nên gọi là tâm sở biệt cảnh.
Năm
món Tâm sở biệt cảnh gồm có: Dục, Thắng giải, Niệm,
Định, Huệ.
Dục
là một sự mong ước sở hữu cảnh giới mà mình yêu thích.
Dục là chỗ nương cho những nỗ lực kiên trì để đạt
được điều mong ước, là căn bản đưa đến sự siêng năng
và chuyên cần. Nói Dục là cội gốc của các pháp vì dục
khởi ra mọi sự tạo tác, mọi hành động, mọi nghiệp lực
để đạt được lòng mong cầu. Có yêu thích, có mong cầu
mới có Dục, nên Dục là tâm sở biệt cảnh chứ không phải
biến hành.
Thắng
giải là do sự hiểu rõ về một việc gì dù là ác hoặc
thiện khiến cho có quyết định làm một việc gì mà không
bị lay chuyển và thay đổi bởi các ý kiến khác. Không thể
có Thắng giải đối với những sự việc chưa được hiểu
rõ hoặc còn có lòng nghi ngờ. Không có thắng giải khi trong
lòng chưa quyết tâm làm một việc gì. Do đó Thắng giải
là tâm sở biệt cảnh chứ không phải biến hành.
Niệm
là một sự lập lại, tập quen làm cho nhớ rõ không quên
những gì ta đã kinh nghiệm trải qua. Niệm luôn giữ cho những
hiểu biết và kinh nghiệm được hồi tưởng lại một cách
dễ dàng, không thể khởi ra Niệm đối với những gì chưa
kinh nghiệm vì những gì chưa biết, chưa thấy thì dựa vào
đâu mà nhớ. Do đó mà Niệm là tâm sở biệt cảnh chứ không
phải biến hành.
Định
làm cho tâm chú tâm vào một việc gì mà không bị tán loạn.
Định là căn bản, là nơi nương tựa của Huệ. Vì các pháp
luôn thay đổi nên muốn đạt được sự hiểu biết các pháp
đó thì phải chuyên tâm vào từng pháp một. Nếu không chú
tâm vào một đối tượng thì không có định nên Định tâm
sở là biệt cảnh chứ không là biến hành được.
Huệ
là sự hiểu biết một đối tượng được quán sát. Huệ
làm tiêu trừ sự nghi ngờ, bất chánh tri. Với Huệ thì mọi
sự được giản trạch nghĩa là được giải nghĩa rõ ràng
khiến không còn lòng ngờ vực nữa. Như khi đã hiểu rõ Phật
pháp, ta sẽ dốc lòng, quyết tâm tu trì mà không còn nghi ngờ
gì về những lời dậy của đức Phật nữa. Huệ không thể
là biến hành vì ta không thể có sự hiểu biết về một
sự việc nếu sự việc đó chưa được quán sát và tư duy
kỹ càng. Do đó Huệ là tâm sở biệt cảnh.
Mỗi
món tâm sở biệt cảnh này duyên mỗi cảnh khác nhau và hành
tướng không đồng nên năm món này có khi duyên cảnh chỉ
khởi lên riêng rẽ một mình, có khi khởi lên hai thứ một
lúc, có khi khởi lên ba thứ một lúc, có khi khởi lên bốn
thứ một lúc, có khi khởi lên năm thứ một lúc nên bài tụng
nói Sở duyên sự bất đồng.
Duyên
cảnh chỉ khởi lên một tâm sở như với cảnh thuận chỉ
khởi lên tâm sở dục tức mong cầu. Với việc đã quyết
định chỉ khởi tâm sở thắng giải. Đối với cảnh đã
quen thuộc chỉ khởi tâm ghi nhớ tức tâm sở niệm. Đối
với cảnh đang chăm chú chỉ khởi tâm sở định. Với cảnh
sở quán chỉ rong ruổi tìm cầu nên chỉ khởi tâm sở huệ
chứ không có định. Tất cả gồm 5 thứ.
Duyên
cảnh mà khởi lên hai loại tâm sở khác nhau như: tâm
sở dục và thắng giải, dục và niệm, dục và định, dục
và huệ, thắng giải và niệm, thắng giải và định, thắng
giải và huệ, niệm và định, niệm và huệ, định và huệ.
Tất cả gồm 10 thứ.
Duyên
cảnh mà khởi lên ba loại tâm sở khác nhau như: dục, thắng
giải và niệm; dục, thắng giải và định; dục, thắng giải
và huệ; dục, niệm và định; dục, niệm và huệ; dục, định
và huệ; thắng giải, niệm và định; thắng giải, niệm và
huệ; thắng giải, định và huệ; niệm, định và huệ. Tất
cả có 10 thứ.
Duyên
cảnh mà khởi lên bốn loại tâm sở khác nhau như: dục, thắng
giải, niệm và định; dục, niệm, định và huệ; dục, định,
huệ và thắng giải; dục, huệ, thắng giải và niệm; thắng
giải, niệm, định và huệ. Tất cả có 5 thứ.
Duyên
cảnh mà khởi đủ năm tâm sở biệt cảnh dục, thắng giải,
niệm, định và huệ thì chỉ có 1 thứ.
Tất
cả gồm 5 trường hợp và có 31 loại kết hợp.