DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI


Thích Trí Châu Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
22/08/2011 10:07 (GMT+7)
Số lượt xem: 205118
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005

CHƯƠNG IV
MẠT NA THỨC

 

Bồ tát Thế thân diễn tả về Mạt na thức trong ba bài tụng thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy. Bài tụng thứ năm nói về đặc tánh của Mạt na thức, bài tụng thứ sáu nói về các tâm sở tương ưng, bài tụng thứ bẩy nói về quả chuyển y của Mạt na thức.

Hãy nghiên cứu bài tụng thứ năm.

BÀI TỤNG THỨ NĂM

Thứ đệ nhị năng biến
Thị thức danh Mạt na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng.

Dịch là:

Thức năng biến thứ hai
Gọi là thức Mạt na
Nuơng kia chuyển, duyên kia
Tư lương làm tánh tướng.

Thức năng biến thứ hai được gọi là Mạt na thức vì mạt na do tiếng Phạn là manas có nghĩa là tư lương tức là suy nghĩ, cân nhắc và so đo. Tiếng Hán Việt gọi là Tư lương thức. Thức này có đặc tính là liên tục suy tư, cân nhắc và so đo, hằng thẩm và tư lương. Tánh chất tư lương của nó vượt trên tất cả mọi thức khác. Theo thứ tự mà đặt tên thì thức này gọi là thức thứ bẩy. Thức này còn gọi là Ý hoặc là Ý căn vì thức thứ sáu tức Ý thức nương nơi thức này mà phát sanh. Thức này được gọi là Ý chứ không là Ý thức vì sợ lộn với thức thứ sáu.

Thực ra thức thứ bẩy này phải dịch là mạt na vì do tiếng Phạn là manas mà ra. Ý thức tức là thức thứ sáu phải dịch là mạt na thức vì do tiếng Phạn là manovijnana, mano là mạt na, vijnana là thức nhưng vì các bản tiếng Hán từ xưa đều dịch chữ manas là mạt na thức nên chúng ta không thể dùng chữ mạt na thức để chỉ thức thứ sáu vì sợ lẫn lộn với thức thứ bẩy. Vì vậy chúng ta phải quy ước dùng chữ mạt na thức hoặc mạt na để chỉ cho thức thứ bẩy mà thôi.

Nếu so về năng lực tích tụ thì Mạt na thức không bằng A lại da thức và nếu so về khả năng phân biệt thì thức này cũng thua thức thứ sáu tức là ý thức.

Bài tụng nói y bỉ chuyển là nói Mạt na thức nương nơi A lại da thức, lấy thức này làm căn bản mà chuyển hiện. Có A lại da thức là có Mạt na thức, A lại da thức sanh về cõi nào thì Mạt na thức chuyển hiện theo cõi ấy. Mạt na thức không bao giờ rời A lại da thức ví như bóng theo hình nên Mạt na thức cũng luôn luôn hiện khởi, không gián đoạn như A lại da thức. Có điều là Mạt na luôn lấy cảnh sở duyên nơi A lại da mà suy xét và so đo, khiến cho tâm bị dấy động, ô nhiễm.

Nếu ví A lại da thức là mặt ao thì Mạt na thức là cụm rễ của nhóm lục bình trôi trên mặt nước A lại da thức, ý thức và năm thức trước được ví như thân và cánh lục bình. Tùy theo mặt nước A lại da thức lên xuống mà lục bình trồi lên hay hụp xuống theo và cụm rễ Mạt na thì không bao giờ rời mặt nước ao.

Nếu ví A lại da thức là mảnh đất thì Mạt na thức là rễ cây, luôn bám chặt vào mặt đất A lại da, còn Ý thức và tiền ngũ thức là thân cây và những nhánh cây vươn lên từ mảnh đất A lại da.

Mạt na thức sanh ra từ A lại da thức rồi lại lấy thức này làm đối tượng sở duyên. Các chủng tử và hiện hành của A lại da thức cứ bị Mạt na thức lấy làm cảnh sở duyên mà duyên, tức là các chủng tử và hiện hành này cứ bị chiếu soi, suy xét và đo lường. Hành tướng duyên này gọi là sở duyên duyên, tức là cứ lấy cảnh sở duyên mà duyên. Các cảnh sở duyên bị Mạt na thức duyên thêm một lần nữa nên bị biến đổi, sự biến đổi này lại được đưa vào A lại da làm tăng trưởng hay làm suy yếu thêm các chủng tử sẵn có nơi A lại da thức. Nếu tác động thẩm xét và tư lương nơi Mạt na làm tăng trưởng các chủng tử sẵn có trong A lại da thức thì gọi là Thuân Tăng Thượng Duyên. Ngược lại nếu làm các chủng tử nơi A lại da bị suy yếu hay hủy diệt thì gọi là Nghịch Tăng Thượng Duyên.

Tác động Tăng Thượng Duyên này ví như tác động của mưa và nắng đối với hạt giống, cây cối và mùa màng. Nếu mưa thuận gió hòa thì mầm giống, cây cối tăng trưởng, nẩy nở tốt tươi, mùa màng được thuận lợi. Nếu giông bão hoặc hạn hán thì mầm giống bị ung thối hoặc khô cháy, cây cối bị tàn phá hoặc cằn cỗi, các sinh vật sẽ bị điêu linh và đói khổ vì mất mùa.

Một điểm cần nói nữa là Mạt na thức này chỉ duyên nơi A lại da thức mà thôi nghĩa là chỉ luôn quay vào chiếu soi các chủng tử và hiện hành ở Tàng thức mà thôi, nên bài tụng nói y bỉ chuyển duyên bỉ, nghĩa là tùy theo thức A lại da chuyển đi đâu thì mạt na thức liền duyên theo đó.

Có quan niệm cho rằng Mạt na thức duyên kiến phần và tướng phần nơi A lại da thức và chấp kiến phần làm Ngã và tướng phần làm Ngã sở. Có nghĩa là Mạt na thức chấp cái chủ thể thấy và đối tượng nơi cái thấy của thức Al ại da cho là của mình, cái năng thấy là ta và cái sở thấy là cái của ta.

Có quan niệm cho rằng Mạt na thức duyên chủng tử và hiện hành nơi A lại da thức và chấp chủng tử làm Ngã và hiện hành làm Ngã sở.

Ở đây chúng ta không đi sâu vào các chi tiết quá phức tạp và chi li này. Trong A lại da thức, các hạt giống làm nhân duyên cho nhau, khi tiềm ẩn là chủng tử, khi hiện khởi là hiện hành. Có khi chủng tử sanh hiện hành, có khi hiện hành sanh chủng tử, có khi chủng tử sanh chủng tử và cũng có khi hiện hành sanh hiện hành.

Hãy lấy hình ảnh của ngọn đèn dầu làm ví dụ. Thoạt nhìn ta tưởng là ngọn lửa sáng liên tục nhưng thực ra đó chỉ là muôn ngàn tia lửa loé lên và chợp tắt, cái này nối tiếp cái kia. Ngọn lửa cũ tắt đi làm mồi đốt tim đèn và nhờ có chất dầu làm xúc tác nên có ngọn lửa kế tiếp. Trong ví dụ này, hãy gọi ngọn lửa là hiện hành, tim đèn là chủng tử và chất dầu là duyên. Ta sẽ thấy ngọn lửa cũ tắt đi sẽ phát sanh ngọn lửa mới, đó là chỉ cho hiện hành sinh hiện hành. Ta cũng thấy ngọn lửa cũ tắt đi làm lộ ra tim đèn mới, đó là chỉ cho hiện hành sinh chủng tử. Ta lại thấy rằng nhờ tim đèn mới lộ ra đó nên mới có ngọn lửa mới, đó là chỉ cho chủng tử sinh hiện hành. Và ta cũng thấy cái tim đèn cũ cháy rồi mới lộ ra cái tim đèn mới, đó là chỉ cho chủng tử sinh chủng tử.

Tất cảø vô lượng những mầm mống của muôn pháp, khi là năng, khi là sở, trùng trùng duyên khởi, tương tức, tương tục, tăng thượng, sanh diệt không ngưng nghỉ, lung linh như những hình ảnh phản chiếu trong muôn ngàn hạt châu. Những hình ảnh này góp phần vào cái Năng kiến và Sở kiến của A lại da thức. Phần năng kiến là Kiến phần, phần sở kiến là Tướng phần, mà Mạt na thức chấp làm Ngã và Ngã Sở.

Tư lương vi tánh tướng có nghĩa là bản chất của Mạt na là suy xét và đo lường. Mạt na thức không bao giờ là không suy tính và so đo nên nói cả tánh lẫn tướng của nó đều là tư lương. Nói một cách khác, thể của Mạt na thức là Tư lương và dụng của nó cũng là Tư lương. Chính vì sự tư lương này mà tánh chất nhận thức nơi Mạt na thức không được trung thực, luôn bị bóp méo, bị biến kế sở chấp mà sai khác đi. Nói một cách dễ hiểu là cái thấy nơi Mạt na bị thành kiến bóp méo mà biến đổi khác đi, không còn trung thực nữa. Cái tánh chất không trung thực này gọi là phi lượng.

Khi chưa chuyển y thì Mạt na thức luôn luôn chấp ngã và chỉ duyên nơi A lại da thức. Khi đắc quả chuyển y, tức là chuyển được cái tướng chấp ngã thành vô ngã, thì Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí. Khi này ngoài duyên thức thứ tám (đã chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí), thức thứ bẩy còn duyên chân như cùng tất cả các pháp khác, thấy được mọi căn cơ và sai biệt nơi mỗi loại chúng sanh.

Chúng ta hãy sang bài tụng kế tiếp để nghiên cứu những tâm sở tương ưng nơi Mạt na thức.

BÀI TỤNG THỨ SÁU

Tứ phiền não thường câu
Vị: Ngã si, ngã kiến
Tinh ngã mạn, ngã ái
Cập dữ Xúc đẳng câu.

Dịch là:

Tương ưng bốn phiền não
Là ngã si, ngã kiến
Cùng ngã mạn, ngã ái
Và tâm sở Xúc thẩy.

Bản chất của Mạt na thức là hằng thẩm và tư lương, có nghĩa là luôn luôn suy xét, tính toán, cân nhắc và so đo. Do bản chất này mà các chủng tử nơi A lại da thức cứ bị đem ra chiếu soi và suy xét. Chấp đó là mình, là của mình mà sinh tham đắm, si mê. Thấy có ta có người, thấy cái ta và cái của ta là đúng, là hơn, là đẹp. Những tánh chất này là những căn bản của phiền não và bởi đều do chấp ngã mà ra nên có tên là Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Mạn và Ngã Ái.

Ngã si là vô minh, là mê muội vọng chấp các pháp không phải có ngã thành có ngã, chấp ngã là thật trong khi các pháp đều là vô nga. Ngã si là nguyên nhân của ảo tưởng và ảo giác khiến ta không thể tin được các pháp chỉ là giả dối, có đó rồi mất đó, biến hiện không ngừng như mộng huyễn, như hình ảnh của bong bóng nước, như sương sớm ban mai, như tia chớp trên trời mà kinh Kim Cương đã diễn tả:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ứng tác như thị quán.

Ngã kiến là luôn coi điều mình thấy, điều mình suy nghĩ, điều mình quan niệm, điều mình tin tưởng là trúng, không chịu nghe lời chân thật, điều gì khác với mình suy nghĩ và quan niệm thì cho là sai, luôn ngoan cố không phục thiện.
Ngã mạn là coi mình là nhất, không coi ai ra gì, lấn lướt và khinh thường người khác.
Ngã ái là luôn luôn chấp ngã và sanh tâm mê thích ta và cái của ta, chỉ biết nghĩ đến mình, những người thân thuộc và những người thuộc phe nhóm của mình, sanh ra tánh cục bộ và địa phương.

Bốn thứ ngã này làm che đậy và làm vẩn đục nội thức tức làm nhơ bẩn A lại da thức và làm phát sinh các ngoại thức tức là tiền lục thức khiến chúng sanh lạc mãi trong luân hồi sanh tử.
Trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận ngài Thế Thân chia Căn bản phiền não làm sáu món: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến. Trong sáu món này thì Mạt na thức chỉ tương ưng với bốn món là Tham tức tham đắm, yêu cái ta và cái của ta; Si là vô minh là ngu tướng; Mạn là thấy mình là nhất, là hơn tất cả, không coi ai ra gì; Ác kiến là thấy mình hay, minh đẹp, mình đúng, người khác là dở, xấu và sai, luôn không có ý tốt về người khác.

Vì có Ngã kiến, luôn thấy mình đúng nên không thể có phiền não căn bản Nghi được. Vì có Ngã mạn, không coi ai ra gì, không thèm để ý đến ai nên không có phiền não căn bản Sân được.

Chữ tinh dùng trong câu Ngã Si, Ngã Kiến tinh Ngã Mạn, Ngã Ái có ý muốn nói bốn món căn bản phiền não này luôn hiện khởi nơi Mạt na thức. Có Ngã Si, Ngã Kiến là có Ngã Mạn, Ngã Ái và ngược lại có Ngã Mạn, Ngã Ái là có Ngã Si, Ngã Kiến.

Ngoài ra Mạt na thức cũng tương ưng với năm món tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Một điểm nên lưu ý là các tâm sở biến hành Xúc đẳng này khác với các tâm sở biến hành Xúc đẳng nơi A lại da thức. Năm tâm sở biến hành này chu biến khắp mọi nơi, luôn có mặt nơi các tâm vương liên hệ với chúng ví như các cận thần luôn sát cánh bên vua. Mỗi một Tâm vương có năm món Tâm sở biến hành riêng, cũng như mỗi vì vua có những cận thần riêng của mình. Vì muốn nêu rõ điểm này nên trong câu Cập dữ xúc đẳng câu có dùng chữ dữ, có nghĩa là riêng, là muốn nói năm thứ biến hành xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư của riêng Mạt na thức, ám chỉ rằng năm xúc đẳng này riêng rẽ với các xúc đẳng khác.

Hãy tiếp tục nghiên cứu bài tụng thứ bẩy.

BÀI TỤNG THỨ BẨY

Hữu phú vô ký nhiếp
Tùy sở sanh sở hệ
A la hán, Diệt định
Xuất thế đạo vô hữu.

Dịch là:

Tánh hữu phú vô ký
Sanh theo A lại da,
Chứng La hán, Diệt định,
Xuất thế đạo, không còn.

Với những phiền não chấp ngã và lo nghĩ (hằng thẩm và tư lương) đó, Mạt na thức cứ ôm lấy A lại da thức mà chấp ngã, chấp là mình, là của mình, là ngã và ngã sở. Hành tướng này tạo nên Nghiệp Nhân và những nghiệp nhân này cứ trùng trùng duyên khởi tương tục tăng trưởng, sanh diệt cho đến khi đầy đủ yếu tố nhân duyên chín mùi thì hiện khởi ra căn thân và thế giới. Tùy theo nghiệp báo A lại da thức chuyển biến khởi sanh vào cõi nào thì Mạt na thức sanh vào cõi đó nên nói Tùy sở sanh sở hệ nghĩa là tùy theo A lại da thức sanh ở đâu thì Mạt na thức sanh ở đó.

Khi các nhân duyên đã đầy đủ và chín mùi, A lại da thức có thể chuyển biến và hiện hành thành một loài trong Ngũ thú tạp cư địa. Nói là Ngũ thú tạp cư địa vì ở cõi Dục giới có năm loài sống lẫn lộn ở đó. Năm loài này gồm loài Trời, loài Người, loài Súc Sanh, loài Ngạ quỷ và loài ở Địa ngục. Riêng loài A tu la thì có thể hiện hành thành bất cứ loài nào trong năm loài kể trên.

Hoặc A lại da thức có thể chuyển hiện thành một loài ở cõi Sắc giới, trong các địa như Ly sanh hỷ lạc địa, Định sanh hỷ lạc địa, Ly hỷ diệu lạc địa và Xả niệm thanh tịnh địa. A lại da thức cũng có thể chuyển hiện trong các loài ở cõi Vô sắc giới, trong các địa như Không vô biên xứ địa, Thức vô biên xứ địa, Vô sở hữu xứ địa và Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa.

Thế giới mà chúng ta đang hiện hữu là sự kết cấu lại của vô lượng những quang minh nơi tâm thức bị lưu ngại do những chuyển biến sanh diệt không ngưng nghỉ trong A lại da thức và Mạt na thức.

Vì có những nghiệp nhân chung mà chúng ta chịu Quả Báo chung trong thế giới loài người. Trong thế giới này những quang minh vi tế bị lưu ngại, kết cấu thô kệch lại thành căn thân và thế giới. Căn thân là con người với các Phù Trần Căn,Tịnh Sắc Căn và những thức liên hệ. Thế giới là nhà cửa, sông núi, biển cả núi rừng, cây cối thú vật, tinh tú, hành tinh, là cảnh giới xung quanh nơi căn thân nương vào đó để sanh trưởng.

Tất cả căn thân và thế giới đó hình như tách biệt khỏi A lại da thức và Mạt na thức. Nhưng thật ra A lại da thức luôn hiện hữu và bao trùm cả căn thân và thế giới đó. Ở đâu có A lại da thức là có Mạt na thức đi kề và ôm chặt lấy như là sở hữu của mình. Những sự chấp trước, suy nghĩ và so đo của Mạt na thức làm bao phủ thêm một lớp vọng lên các pháp. Do đó nhận thức nơi Mạt na thức thì không trung thực.

Tánh chất của A lại da thức thì trung thực và không bị ngăn che, không có sự phân biệt tốt hay xấu. Cái tánh chất chính xác, không bị ngăn che và phân biệt nơi A lại da thức được gọi là hiện lượng và vô phú vô ký. Còn tánh chất của Mạt na thức bị ngăn che, không trung thực và được gọi là phi lượng và hữu phú vô ký.

Pháp sư Huyền Trang viết trong Bát Thức Quy Củ Tụng như sau:

Đới chất hữu phú thông Tình, Bổn
Tùy Duyên chấp ngã, Lượng vi Phi
Bát đại, Biến hành, Biệt cảnh Huệ
Tham, Si, Ngã, Kiến, Mạn tương tùy.

Căn thân và thế giới là cảnh giới được cấu kết và tích tụ lại do các quang minh đã bị lưu ngại bởi các vọng tưởng so đo chấp ngã nơi Mạt na thức. Căn thân và thế giới là cảnh giới thô kệch, bị ngăn che và có giới hạn nên được gọi là Đới Chất Cảnh, ngược lại là cảnh giới của Chân Tâm, thanh tịnh và vô ngằn mé.

Đới chất có nghĩa là có giới hạn, hữu phú là ngăn che, ý nói Mạt na thức thì có giới hạn và bị ngăn che. Thông tình bổn, có nghĩa là Mạt na thức ở giữa làm giao liên cho tình thức tức là ý thức và bổn thức tức là căn bản thức tức là A lại da thức.

Khi có căn thân và thế giới thì có thức thứ sáu nương nơi Mạt na thức mà phát sinh gọi là Ý thức. Ý thức nhận xét và phân biệt cảnh giới bên ngoài, Mạt na thức làm trung gian giữa Ý thức và A lại da thức, lấy dữ kiện nơi Ý thức đưa vào A lại da thức hoặc đưa dữ kiện ở A lại da thức ra để giúp Ý thức so sánh để biết được đối tượng sở duyên là gì. Cảnh giới mà Mạt na nhận thức là cảnh giới nơi A lại da bị biến đổi qua lăng kính chấp trước và so đo, không còn chân thực nữa. Nhận thức nơi Mạt na này vì thế có tánh chất là phi lượng chứ  không phải là hiện lượng. Nó cũng không phải là tỷ lượng vì nó không có tánh chất so sánh như nơi Ý thức.

Mạt na thức có công năng truyền các cảnh giới do Ý thức nhận biết vào Tàng thức và tống các dữ kiện trong Tàng thức ra nơi Ý thức  nên còn có tên là Truyền Tống Thức.

Mạt na thức có tính cách trung gian, ở giữa A lạ da thức và Ý thức. Khi nhận được dữ kiện của Ý thức đưa vào thì năm Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư tương ưng nơi Mạt na thức tác động. Mạt na thức lục loại tìm kiếm hình ảnh và cảm giác tương ưng trong A lại da thức để Ý thức so sánh và phân biệt đó là hình ảnh và cảm giác gì.

Tùy duyên chấp ngã có nghĩa là sự Chấp Ngã cuả Mạt na thức cứ thay đổi tùy theo duyên nên nhận thức của nó không được chân thực, lúc thế này lúc thế khác, được đánh giá là phi lượng, lượng vi phi.

Hai câu Bát đại, biến hành,biệt cảnh huệ và Tham, Si, Ngã kiến, Mạn tưong tùy có nghĩa là Mạt na thức tương ưng với 18 món Tâm sở gồm 8 món Đại tùy là Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri; 5 món biến hành là Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư; 1 món biệt cảnh là Huệ; 4 món căn bản phiền não là Ngã tham, Ngã si, Ngã kiến và Ngã mạn. Chữ tương tùy là chỉ cho 4 món căn bản phiền não này luôn luôn có mặt.

Trong 5 tâm sở biệt cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ thì Mạt na thức chỉ tương ưng với tâm sở Huệ. Huệ ở đây không phải là trí huệ bát nhã, cũng không phải là tri kiến do sự huân tập và học hỏi; huệ ở đây là ngã kiến là kiến giải chủ quan chấp ngã tức là cái thấy và biết chủ quan và chấp ngã.

Mạt na thức là nhận thức có tính cách suy xét, so đo về các chủng tử đang hiện khởi trong A lại da thức chứ không phải sự mong muốn một hiện tượng gì xẩy ra nên không có Dục; không có quyết tâm làm một việc gì nên cũng không có Thắng giải; không ghi nhớ lại một điều gì nên cũng không có Niệm; không phải chăm chú vào một cảnh nào nên không có Định.

Mạt na thức có tánh cách hữu phú do các phiền não chấp ngã và những suy nghĩ so đo tạo ra nên không tương ưng với 11 món tâm sở thiện là những pháp thanh tịnh. Trong 20 món tùy phiền não thì Mạt na thức chỉ tương ưng với 8 món đại tùy như đả nói ở trên. Còn 10 món Tiểu Tùy và 2 món Trung Tùy thì thô động trái khác với đặc tính tiềm ẩn vi tế của Mạt na thức.

Ở đây cũng nhắc lại 10 món Tiểu Tùy gồm có: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại và Kiêu; 2 món Trung Tùy là Vô Tàm và Vô Quý.

Mạt na thức thì lúc nào cũng mê mờ, không tỉnh táo, lúc thế này lúc thế khác nên tương ưng với trạo cử và hôn trầm; không tin tưởng vì lúc nào cũng suy xét và lo nghĩ, tương ưng với bất tín; không chăm chú nên giải đãi và phóng dật; không có ghi nhớ nên thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. Mạt na thức tương ưng với tất cả 8 món Đại tùy của tâm sở Tùy Phiền Não là Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn và Bất chánh tri.

Mạt na thức trước sau chỉ duyên hiện cảnh nên không có Hối việc trước. Thức Mạt na không duyên bên ngoài mà chỉ chấp ngã bên trong nên cũng không có Thùy miên, tức không bị ngoại cảnh làm nặng nề mệt mỏi mà sinh buồn ngủ. Thức này cũng không tìm cầu và truy cứu việc bên ngoài nên cũng không có Tầm và Tứ. Tóm lại thức mạt na không có duyên với bốn món Bất Định Tâm Sở là Hối, Miên, Tầm và Tứ.

Chữ A la hán dùng trong câu A la hán, diệt định, Xuất thế đạo vô hữu là chỉ các vị A la hán trong Tam thừa. Các vị này gồm có bậc La Hán của Thanh Văn, bậc Bích Chi Phật của Duyên Giác và bậc Bồ Tát Đệ Bát Địa của Đại Thừa. Các vị này khi tu thiền đã diệt được các thọ và tưởng, tức là nhập vào diệt tận định là cái định không còn thọ tưởng nữa, các nhiễm ô hiện hành hữu lậu không còn sanh khởi nên nói là vô hữu. Vô hữu là không còn, nghĩa là các pháp nhiễm ô hữu lậu, chấp ngã không còn sanh khởi trong mạt na thức nữa chứ không phải là thức Mạt na bị biến mất, không còn nữa.

Các pháp nhiễm ô có hai loại. Thứ nhất là các pháp nhiễm ô duyên sanh là các pháp mới sanh khởi trong hiện kiếp. Thứ nhì là các pháp nhiễm ô câu sanh, sẵn cóù từ thuở vô thủy. Các vị A la hán thì đã sạch hết các nhiễm ô thứ nhất, còn các pháp nhiễm ô thứ hai thì chỉ tạm thời diệt khi nhập vào diệt tận định.

Ở quả vị Tam thừa trên, các La Hán của Nhị Thừa đã hồi đầu theo Đại Thừa và những Bồ Tát Bất Động Địa (tức đệ bát địa) có liễu giải chân thật về Vô ngã tức là đã đắc được Trí Căn Bản Chân Vô Ngã, tiếp tục quán pháp hai không, không năng thủ và không sở thủ, đắc được vô lậu hậu đắc trí tức là trí của bậc đẳng giác. Tới bậc đẳng giác mà khởi được Kim Cang Dụ Định thì chứng được quả Diêu Giác, tức là quả vị Phật, là quả vị cứu cánh của xuất thế đạo. Lúc này các nhiễm ô ý và chấp trước về ngã và ngã sở cùng các phiền não chướng câu sanh vi tế mới được loại trừ vĩnh viễn.

Khi ấy thức thứ bẩy không còn gọi là Mạt na thức nữa mà là Bình Đẳng Tánh Trí. Ở giai đoạn này nó tương ưng với 21 món tâm sở giống như thức thứ tám khi ở quả vị chuyển y, gồm 5 món biến hành: Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư; 5 món biệt cảnh: Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Huệ; và 11 món thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại.

Ở giai đoạn chuyển y Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí. Khi này nó không những chỉ duyên thức thứ tám (khi này trở thành Đại Viên Cảnh Trí) mà còn duyên thêm Chân Như và tất cả các pháp. Vị Bồ tát lúc này có trí giải biết rõ căn cơ và sự sai biệt của mọi loài chúng sanh, tùy duyên hóa thân ứng hiện thuyết pháp độ sanh (ứng thân thọ dụng độ tha).


Âm lịch

Ảnh đẹp