10/08/2011 13:24 (GMT+7)
Số lượt xem: 243073
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Thời-Không là từ viết tắt của Thời gian và Không gian. Trong đời thường, chúng ta cảm nhận thời gian là một dòng chảy, trôi liên tục không ngừng nghỉ, từ quá khứ qua hiện tại rồi tới tương lai.

 Thời gian làm thay đổi sự vật, chẳng hạn một đứa trẻ sơ sinh, rồi một tháng tuổi, một năm tuổi, thời ấu thơ, thời thiếu niên, thời trưởng thành, thời trung niên, rồi thời tuổi già. Cũng chính đứa trẻ đó trong những thời điểm khác nhau, có thể chất và tâm lý khác nhau. Nhà vật lý học Isaac Newton khám phá ra lực hấp dẫn và cũng dựa trên khái niệm thời gian đó lập nên cơ học cổ điển, mô tả sự chuyển động của các thiên thể như mặt trời, mặt trăng, trái đất và các cố thể vật chất khác, lập nên các phương trình toán học, cho phép xác định một vật có khối lượng bao nhiêu, sẽ ở đâu vào thời điểm nào khi bị một lực có số đo bao nhiêu tác động. Từ đó có thể tiên đoán vào ngày tháng năm nào sẽ có xảy ra nhật thực, nguyệt thực hoặc xuất hiện các sao chổi mà con người đã từng gặp. Tóm lại vạn vật hiện hữu hay tồn tại trong không gian và biến đổi theo thời gian

Thế nhưng quan niệm về thời gian trôi xuôi một chiều bất biến như thế đã bị Einstein làm sụp đổ với thuyết tương đối. Einstein mô tả thời gian như là chiều kích thứ tư của không gian 4 chiều. Thời gian vật lý không phải trôi đều đều bất biến mà tùy thuộc vào vận tốc. Vận tốc càng nhanh thì thời gian càng chậm lại. Paul Langevin (1872-1946) nhà vật lý người Pháp, đã dựa vào lý thuyết của Einstein để sáng tác ra câu chuyện nghịch lý về một cặp song sinh (twin paradox). Nói nghịch lý là vì nó trái với nhận thức thông thường chứ không phải là không thể xảy ra. Hai anh em sinh đôi tất nhiên bằng tuổi nhau. Lúc 30 tuổi, người anh trở thành phi hành gia đi trên một phi thuyền không gian có tốc độ rất lớn, anh ta bay tới một hành tinh ngoài hệ mặt trời và trở về trái đất an toàn. Anh ta có đồng hồ rất chính xác, và có ghi nhật ký hẳn hòi. Thời gian đi và về chỉ có một năm thôi. Nhưng khi về tới địa cầu, mọi việc thay đổi rất nhiều, anh ta không còn nhận ra cảnh cũ. Xem lịch thì thấy trên trái đất đã qua 50 năm, người em song sinh nay đã là ông lão 80 tuổi, tóc bạc phơ. Trong khi đó anh ta mới 31 tuổi, vẫn còn trẻ, tóc chưa hề bạc. Tại sao lại có hiện tượng lạ lùng như thế ?

Chẳng những thời gian có thể co dãn mà không gian cũng vậy. Giả thuyết Big Bang ra đời nói rằng vũ trụ ban sơ có kích thước cực kỳ nhỏ, 10-33 cm, chỉ là một chất điểm mà nếu nhỏ hơn nữa thì sẽ biến mất không còn tồn tại, hoặc vô nghĩa. Cái hạt nhỏ đó bùng nổ thành vũ trụ mà chúng ta đang sống, và kích thước của không gian vũ trụ cứ nở lớn thêm mãi. Dù là cực lớn nhưng vũ trụ cũng có giới hạn. Nếu lấy vận tốc ánh sáng là 300.000km/giây để tính, từ lúc bùng nổ đến nay là 13,7 tỉ năm, thì vũ trụ là một khối cầu có bán kính là 13,7 tỉ quang niên. Mặt trời và thái dương hệ xuất hiện cách nay 5 tỉ năm, còn Trái đất của chúng ta ra đời cách nay 4,5 tỉ năm. Tổ tiên gần của loài người là Người đứng thẳng (Homo erectus) xuất hiện tại châu Phi 1.8 triệu năm trước. Người khôn ngoan ( Homo sapiens) bắt đầu xuất hiện tại Châu Phi cách nay 200.000 năm, họ là tổ tiên của người hiện đại, từ Châu Phi di cư ra các lục địa khác để hình thành nhân loại ngày nay. Đó là tóm tắt lịch sử vũ trụ và loài người trên địa cầu.

Đối với nghịch lý cặp song sinh, các nhà vật lý trả lời rằng vì phi thuyền bay quá nhanh nên thời gian trên phi thuyền đã trôi chậm lại, trong khi trên địa cầu thời gian vẫn trôi đều đều. Tóm lại thời gian không tồn tại độc lập, nó tùy thuộc tốc độ. Mà thời gian thay đổi thì không gian cũng vậy, cũng tùy thuộc vận tốc. Các tín hiệu tin học do dòng electron tải đi. Tốc độ của electron trong nguyên tử chỉ bằng khoảng từ 1/3 tới  1/2 tốc độ ánh sáng, nhưng tốc độ của electron tự do lan truyền trong dây dẫn hoặc tốc độ của sóng điện từ truyền đi trong không gian thì bằng tốc độ ánh sáng. Với tốc độ đó thì trên phạm vi địa cầu, khoảng cách không gian gần như bị triệt tiêu khiến ta không còn cảm nhận có khoảng cách không gian, kinh nghiệm này chúng ta dễ dàng có được trên internet. Chúng ta có thể thấy người đối thoại qua camera và nghe tiếng nói hoàn toàn giống như đang ngồi trước mặt, nghĩa là khoảng cách không gian không còn nữa.

Trong thế giới lượng tử, lại càng lạ lùng hơn nữa. Hiện tượng rối lượng tử (quantum  entanglement- xem bài Đức Phật A-Di-Đà là ai) chứng tỏ cả không gian, thời gian và số lượng đều không có thật. Cả 3 đại lượng này, nói chung cả thế giới vật chất đều là sản phẩm của tâm thức. Vật chất chỉ là vô thủy vô minh, bất khả tri. Big Bang chỉ tạo ra cấu trúc ảo của vật chất bằng những hạt ảo như quark, electron. Nhà triết học người Đức, Immanuel Kant gọi các vật ảo đó là vật tự thể (Das Ding an sich) bất khả tri. Nhà vật lý Heisenberg thì gọi đó là thế giới tiềm thể, có khả năng hiện hữu nhưng chưa hiện hữu, và chỉ hiện hữu trong tâm thức của người quan sát. Nhiều nhà vật lý nhận định rằng thế giới lượng tử không khác gì thần thoại, nhưng lượng tử quả thật đã tạo ra được ngành công nghệ thông tin rất phát triển hiện nay, và chúng ta có thể thực nghiệm thần thông giống như thần thoại, việc thấy và nghe xa hàng vạn dậm không còn là chuyện lạ, chúng ta có thể tiếp xúc với bạn bè, người thân bất cứ ở đâu, bất cứ giờ nào vì khoảng cách không gian trên địa cầu đã bị triệt tiêu trên internet khi chúng ta có thể chuyển thông tin đi với tốc độ ánh sáng. Thuyết nhập nhị nhân duyên của Phật giáo giải thích rằng chỉ khi cấu trúc ảo của vật chất do vô minh kiến lập đó, hình thành được lục căn, phát sinh được nhất niệm vô minh thì Tam giới mới thành lập. Dục giới là cõi vật chất có khối lượng, có hình tướng. Sắc giới là cõi trời hoặc cõi âm của các vong linh, không có khối lượng nhưng còn có hình tướng. Vô sắc giới là cõi chỉ còn ý thức, có thông tin nhưng không có hình tướng.

Thời gian không có thật, nên quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ là do tâm thức tưởng tượng ra. Vậy có điều gì chứng tỏ ? Nếu vị lai là cái chưa xảy ra thì tại sao lại có người hoặc vật biết trước được ? Ví dụ tại kỳ World Cup 2010 tổ chức tại Nam Phi, cả tỷ người trên thế giới đã chứng kiến chú bạch tuộc Paul đoán đúng kết quả của cả 8 trận đấu, tức 100% những gì mà người ta yêu cầu, trong đó 7 trận của đội tuyển Đức và trận chung kết giữa đội Tây Ban Nha và Hà Lan. Chẳng bao lâu sau, bạch tuộc Paul qua đời. Điều đó khiến chúng ta nghĩ rằng bạch tuộc Paul chính là một vị Bồ Tát hóa thân, biểu diễn thần thông cho mọi người thấy sự nhiệm mầu, rồi sau đó theo truyền thống Phật giáo, phải tịch diệt để mọi người không còn cơ hội tò mò về phép thần thông mà quên sự tu chứng kiến tánh thành Phật, chỉ tăng cường lòng tin mà thôi, cũng giống như Lục Tổ Huệ Năng, để lại nhục thân bất hoại để làm tin cho đời sau, chứ nếu không có thì người đời còn biết bám víu vào đâu để tin rằng Phật pháp nhiệm mầu.

Nhục thân bất hoại của Huệ Năng, Hám Sơn và Đơn Điền tại chùa Nam Hoa

Trong lịch sử có không ít trường hợp biết trước tương lai. Năm 435, vị sư người Thiên Trúc là Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) đến Quảng Châu lập chùa Pháp Tánh và dự đoán sau này sẽ có một vị Bồ Tát đến đây thọ cụ túc giới. Năm 502, quả có vị sư cũng người Thiên Trúc đến chùa  Pháp Tánh (sau đổi tên là chùa Quang Hiếu) mang theo một cây bồ đề để trồng, thọ cụ túc giới tại đây, đó là sư Trí Dược Tam Tạng, sau đó ông đến Tào Khê lập chùa Bảo Lâm và dự đoán 170 năm sau khi ông viên tịch, sẽ có một vị Đại Bồ Tát đến đây hoằng pháp. Quả thật, đến năm 677 Lục Tổ Huệ Năng đã đến trụ trì chùa này 37 năm, làm cho Thiền tông đại hưng thịnh.

Thời Chu Chiêu Vương cổ đại (995-977 Trước CN), xuất hiện thiên tượng lạ kỳ, có những tia sáng năm màu xoay vần trên sao Thái Vi. Đương thời quan thái sử Tô Do phụng tấu: “Nhất định sẽ có thánh nhân giáng sanh tại phương tây, nên mới xuất hiện điềm cảm ứng tốt lành trên trời như vậy. Một ngàn năm sau, giáo pháp của vị thánh nhân đó sẽ được truyền sang Trung Thổ”. Nghe như thế, Chu Chiêu Vương lập tức hạ lệnh khắc việc này trên đá, để làm bia truyền lâu dài về sau.

Đến thời Hán Minh Đế (28-75), trong niên hiệu Vĩnh Bình, vào một đêm nọ, vua mộng thấy một điềm lạ kỳ. Trong giấc mộng, ông thấy một vị thân vàng, cao hơn một trượng sáu, lưng phóng ánh sáng mặt trời mặt trăng, bay trên không trung, đến trước cung điện. Hôm sau, Hán Minh Đế hội tất cả quần thần để bàn đoán mộng đó, xem coi có ý nghĩa gì. Thái sử Phó Nghị bốc chiêm tinh rồi tấu trình: “Dựa vào bia của Chu Chiêu Vương, giấc mộng đêm hôm qua của Bệ Hạ, nếu tính theo thời gian, thì hiển nhiên có sự liên quan mật thiết. Hiện tại, Thần lại nghe rằng ở Tây Vực có Đức Phật. Bệ Hạ mộng thấy người vàng, thì nhất định đó là Đức Phật vậy”.

Như vậy, trước khi Đức Phật ra đời (năm 623 trước công nguyên) thì ở Trung Quốc, thời Chu Chiêu Vương, trước thời của Phật hơn 300 năm, có người đã đoán biết và dự đoán 1000 năm sau thì giáo pháp của bậc thánh nhân sẽ truyền đến Trung Hoa. Đạo Phật đã đến Trung Quốc vào thời Hán Minh Đế, do nhà vua sai một phái đoàn gồm 18 sứ giả, dẫn đầu là Đậu Cố, sang Tây Vực để tìm kiếm, trên đường đi, họ gặp hai nhà sư Thiên Trúc là Ca Diếp Ma Đằng (Kasyapa-Matanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), bèn thỉnh về Lạc Dương, xây chùa Bạch Mã (năm 68CN)  cho hai ông trụ trì. Lúc đó là khoảng 1000 năm kể từ lúc Tô Do đưa ra dự đoán. Như vậy dự đoán của Tô Do quả là chính xác.

Khi Thích Ca Mâu Ni mới ra đời, đạo sĩ A Tư Đà (Asita) đã đoán biết hài nhi sau này sẽ xuất gia, tu hành, trở thành bậc Đại Giác Ngộ, tức là thành Phật, sẽ cứu độ cho chúng sinh nhưng ông cũng buồn cho mình là không kịp sống đến lúc Phật thành đạo. Các dự đoán của A Tư Đà đều chính xác.

Nhà thơ Hoàng Đình Kiên 黃廷堅 (1045-1105), tự Lỗ Trực 魯直, biệt hiệu Sơn Cốc đạo nhân 山谷道人,  sống vào đời Tống ở Trung Quốc là một trường hợp tái sinh biết trước vị lai. Ông là hậu thân của một cô gái chết còn trẻ tuổi, trước khi chết, cô gái niêm phong một rương tác phẩm văn chương thi phú của mình, cất chìa khóa không cho ai biết, kể cả bà mẹ. 26 năm sau, Hoàng Đình Kiên thi đậu tiến sĩ, nhân ngày sinh nhật của mình, ông làm tiệc thiết đãi mọi người. Trong lúc nghỉ trưa ông nằm mơ thấy đi đến một ngôi nhà trong cùng thành phố, gặp một bà lão, được mời ăn cơm. Khi tỉnh giấc, ông nhớ rõ con đường đi đến ngôi nhà trong mộng, bèn tìm đến, cũng gặp bà lão. Bà lão kể con gái bà đã chết 26 năm, hôm nay là đám giỗ, có để lại một cái rương khóa kỹ, mà không có giao chìa khóa cho bà nên bà không rõ trong đó đựng cái gì. Bỗng Hoàng Đình Kiên nhớ được chỗ cất chìa khóa và tìm thấy nó, mở rương ra thấy có các bài thơ văn, trong đó, thật kỳ lạ, có đúng y bài văn mà nhờ nó ông đậu tiến sĩ. Truyện về Huỳnh Đình Kiên chứng tỏ rằng tiền thân của ông là cô gái, trước lúc lâm chung đã tự tay khóa cái rương và cất chìa khóa mà không đưa cho mẹ, bà mẹ còn nhớ rõ con gái có nói rằng kiếp sau mình sẽ trở lại mở cái rương đó. Thực tế diễn ra đúng như vậy. Như thế tương lai đã được biết trước. Việc Huỳnh Đình Kiên thi đậu Tiến sĩ giống như đã được lập trình.

Như vậy quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ là tâm thức chứ không phải sự thật khách quan bên ngoài. Thời gian lâu hay mau chỉ là chủ quan, kể cả thời gian vật lý cũng là chủ quan gắn với một hệ qui chiếu. Một trong các danh hiệu của Phật là Như Lai, biểu thị rằng không có khứ lai, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu. Các danh hiệu Như Lai, A-Di-Đà đều biểu thị rằng không có không gian, không có thời gian, không có số lượng.

Con người chế tạo phi thuyền không gian định đi đến những hành tinh xa xôi, đó quả thật là vọng tưởng, bởi vì dù có đạt tới vận tốc gần bằng ánh sáng, cũng không thể đến được những hành tinh cách xa hàng tỉ quang niên, chỉ quanh quẩn trong thái dương hệ đã là khó. Cái vọng tưởng là cho rằng vũ trụ là có thật, không gian, thời gian và số lượng là có thật. Trong khi đối với Phật, Bồ Tát, vũ trụ là duy thức, do đó chỉ một niệm là đến, khoảng cách không-thời-gian 13,7 tỉ quang niên chỉ là ảo tưởng. Tất cả thông tin, tất cả năng lượng đều nằm trong A-lại-da thức, khi làm chủ được nó, vận dụng được nó, thì đó là chánh biến tri, vô lượng quang, vô lượng thọ. Chẳng có không gian, chẳng có thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai gì hết, số lượng cũng không. Lịch sử vũ trụ, lịch sử địa cầu, lịch sử loài người đều chỉ là vọng tưởng do vô minh kiến lập. Tam giới cũng đều là không. Thế nhưng Bồ Tát phải dựa trên cái tâm vọng tưởng của chúng sinh để tiếp cận. Bồ Tát phải hóa thân ra nhiều hình tướng đồng loại với chúng sinh để tiếp cận và giáo hóa, giải trừ vô vàn nỗi khổ tưởng tượng (thế lưu bố tưởng), tuy là tưởng tượng nhưng chúng sinh tưởng là thật nên cảm thấy khổ hoặc đôi lúc cảm thấy vui sướng, cũng đều là vọng tưởng.

Duy thức học Phật giáo nói rằng vũ trụ chỉ là tâm thức, điều đó có nghĩa vũ trụ vạn vật chỉ là thông tin. Bởi vì thức là thông tin, biết cái ký hiệu, cái ý nghĩa của sự thật nhưng không phải biết cái thật vì sự thật hay chân lý là bất nhị, bất khả tri. Ví dụ ta biết về thế giới là nắm được một phần nào đó thông tin về thế giới chứ không phải cái thế giới thật. Cái biết của con người là nắm được thông tin. Thông tin chỉ phản ánh một phần nào đó của sự thật, chứ không bao giờ phản ánh được toàn bộ sự thật. Câu chuyện người mù sờ voi trong Kinh Niết Bàn là hiển bày ý nghĩa đó, tức là tất cả chúng ta chỉ là những người mù sờ voi, bất kể ta là ai, nhà khoa học, nhà thông thái hay giáo chủ, lãnh tụ chính trị. Không phải chỉ có thông tin tĩnh như văn bản, ảnh tĩnh, thông tin còn có dạng động như âm thanh, video, các loại chương trình, các tập tin ứng dụng (application) các loại games. Không phải chỉ có thông tin bằng ánh sáng và sóng qua mắt và tai, cảm giác về hương thơm hoặc thúi, vị giác ngọt mặn đắng cay, xúc giác trơn nhám sướng đau v.v…cũng đều là thông tin. Trong đời thường, thông tin còn điều khiển cả thời-không 4 chiều, chẳng hạn thông tin di truyền điều khiển cả quá trình phát triển của một sinh vật từ cái trứng thụ tinh đến trưởng thành, ngay cả năng lượng cũng là thông tin. Các bậc giác ngộ không phải biết sự thật mà hòa nhập với nó, ngộ mình, cái tôi chính là a-lại-da thức, là tam giới, là tâm bất nhị, là tâm như hư không vô sở hữu, trống rỗng, không có gì cả, mà cũng là tất cả. Khoa học hiện nay  chưa điều khiển nổi loại thông tin này, chỉ một số ít người có khả năng ngoại cảm hay công năng đặc dị, làm được chút ít. Kinh điển Thiên Chúa giáo cũng có đề cập chuyện này, trong một buổi giảng đạo bên hồ Galilea (phía bắc Israel hiện nay) có năm ngàn đàn ông tham dự, chưa kể đàn bà và trẻ con, họ đói, nhưng người thân cận của Chúa Jesus chỉ có 5 cái bánh và 2 con cá, Jesus đã bẻ bánh chia cho tất cả những người tham dự buổi giảng, tất cả hơn 10.000 người, đều được ăn no bụng. Truyện cổ dân gian cũng có nói tới cái niêu Thạch Sanh, cơm đựng trong đó lấy ăn bao nhiêu cũng không hết. Những câu chuyện này chứng tỏ năng lượng vật chất làm nên cơm bánh cũng chỉ là thông tin, người có thần thông điều khiển được thông tin loại này, có thể làm ra vật chất khiến người ta no bụng. Chính vì số lượng không có thật, mà hiện tượng rối lượng tử đã chứng minh, nên một cái bánh có thể được copy thành vô số cái bánh, một chén cơm được copy thành vô số chén cơm. Chúng ta cũng có thể làm được điều đó trên không gian ảo, một cái ảnh có thể được copy thành vô số cái ảnh. Thế giới đời thường cũng chỉ là huyễn ảo không khác chi thế giới vi tính, nên người có thần thông như Đức Phật hay Chúa Jesus hoàn toàn có khả năng biến một cái bánh thành vô số cái bánh. Nhiều người cho rằng những câu chuyện như trên chỉ là truyền thuyết hoang đường, ít ai biết rằng chúng cũng có cơ sở khoa học. Ngày nay các khoa học gia biết rằng chân không lượng tử http://www.vphausa.org/vphavn/chuyenkhoa/PXY2.pdf có đặc tính kỳ lạ là, tuy chứa năng lượng cực tiểu nhưng lại vô hạn. Vô hạn tức là vô số lượng. Số lượng là không có thật nên năng lượng cũng không hạn chế, nếu biết cách, tức nắm được thông tin điều khiển thì không lo gì thiếu năng lượng.

Chúng ta luận đến đây thì có thể hiểu rằng tất cả mọi vấn đề của nhân loại và của chúng sinh đều là ảo tưởng, đều dựa trên cơ sở vô minh. Những vấn đề như thiếu lương thực, thiếu nước ngọt, thiếu năng lượng, thiếu tài nguyên, chiến tranh…; thiên tai như động đất, lụt, bão, núi lửa; vấn đề xã hội như bất công, áp bức, độc tài; vấn đề cá nhân như bát khổ : sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm sí thạnh khổ v.v…cũng đều là thức, là thế lưu bố tưởng không phải thật có. Thiếu năng lượng ư ? Vũ trụ có vô lượng vô biên năng lượng, Tâm cũng là năng lượng vô hạn mà ta không biết khái thác. Thiên tai ư ? Thiên tai cũng tuân theo luật nhân quả, thiên tai là quả đắng của nhân bất thiện, của ác niệm. Do cộng nghiệp bất thiện của chúng sinh là nhân của thiên tai. Động đất, núi lửa, bão tố dường như nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người nhưng thật ra không phải vậy. Theo Phật pháp, vạn pháp duy tâm, chính tâm hỗn loạn, bất an, hung hãn, bỏn sẻn, bất thiện là nguyên nhân sâu xa của thiên tai và nhân họa. Tâm an tịnh thì tạo ra một cõi giới thanh tịnh, như cõi Tây phương của Phật A-Di-Đà, đất đai bằng phẳng, đồng đều, vững chắc, không hề có núi lửa hay động đất, không có bão tố, quần áo, thực phẩm, nhà cửa đều có sẵn, không cần sản xuất, không cần có xe cộ, muốn đi đâu chỉ khởi niệm là đến.

Chúng ta không tin thế giới là Tâm, chúng ta chỉ lo tìm cầu giải quyết ở bên ngoài, nên chẳng giải quyết được triệt để bất cứ vấn đề gì. Nhân loại không phải thiếu lương thực, thực phẩm quần áo, nhà cửa, mà chỉ là không thể phân phối chúng cho tất cả mọi người. Thiên tai nhân họa không phải vô phương giải quyết, mà chỉ không thể giải quyết được vì tâm con người còn quá cố chấp, khăng khăng chấp ngã, chấp pháp, đầy những tâm niệm vị kỷ, lợi mình hại người. Chính cái tâm bất thiện đầy ác niệm như vậy tạo ra thiên tai nhân họa. Trong hạt nhân nguyên tử, các hạt quark bên trong hạt proton và hạt neutron luôn ở trong tình trạng bị giam hãm (confinement), tình trạng đó khiến vật chất bị qui định cứng nhắc, không thể chuyển biến dễ dàng từ vật chất thành năng lượng và ngược lại, hoặc biến đổi từ nguyên tố này thành nguyên tố khác. Tình trạng đó khiến cho cái gì cũng bị hạn chế, khiến sinh ra ảo tưởng rằng không gian, thời gian và số lượng là có thật, từ một cái bánh không thể copy thành vô số cái bánh, từ một cái nhà không thể copy thành vô số cái nhà, sản xuất vật phẩm trở thành khó khăn, thiếu vật tư, thiếu năng lượng, con người tự phát tính tranh giành, mạnh được yếu thua. Hiện tượng giam hãm của các hạt quark phản ánh tâm cố chấp của chúng sinh, sự cố chấp kiên cố tới mức không có chi phá vỡ được hiện tượng giam hãm. Trong máy gia tốc LHC (Large Hadron Collider), người ta gia tốc chùm tia proton để đạt tốc độ cực lớn, gần bằng tốc độ ánh sáng và cho chúng đi ngược chiều nhau, hy vọng sự va chạm đủ mạnh đế phá vỡ được hiện tượng giam hãm, giải phóng các hạt quark, nhưng chưa thành công, bởi lẽ muốn phá vỡ hiện tượng giam hãm, phải cần năng lượng vô hạn, mà khoa học kỹ thuật không thể cung cấp được năng lượng vô hạn, chỉ có tâm giải thoát mới làm được việc đó, hoặc dùng tâm như công năng đặc dị. Trương Bảo Thắng có lần làm được, anh ta đi xuyên qua tường của Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh năm 1982, nhưng về sau không còn làm được nữa, và bị rơi vào quên lãng.

Phật, Bồ Tát, không còn tâm cố chấp, không có chấp trước tưởng hay nói gọn là không có trước tưởng, nên không bị hiện tượng giam hãm (confinement) hạn chế, vì vậy có đủ 6 thần thông (thân như ý thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu tận thông). Với 6 phép thần thông này, Phật có thể tùy duyên biến hóa trong tam giới, chủ yếu là cứu độ chúng sinh, nhưng rất hiếm khi hiển bày thần thông vì e ngại nó sẽ mê hoặc chúng sinh, thế giới là huyễn ảo thì thần thông cũng chỉ là huyễn ảo. Một vài người do tu luyện từ kiếp trước, có được công năng đặc dị giống như thần thông, ví dụ như Trương Bảo Thắng, có thể đi xuyên qua tường không bị trở ngại, hoặc di chuyển vật thể xuyên qua vật thể khác, ví dụ lấy các viên thuốc từ trong lọ đóng kín ra ngoài mà không cần mở nắp. Nhưng anh ta tùy tiện hiển bày nhiều lần nên về sau mất hết công lực, không làm được nữa, bị rơi vào quên lãng.

Tóm lại, không gian, thời gian, số lượng không phải là những đại lượng tuyệt đối. Thế giới có bản chất là tâm thức, là thông tin. Quá khứ, hiện tại, vị lai cũng chỉ là tâm thức. Sống hay chết, thịnh hay suy cũng chỉ là tương đối. Người giác ngộ thì không bám víu quá khứ, không trụ hiện tại, cũng không trông chờ tương lai, không chấp ngã, không chấp pháp, vô sở cầu, vô sở đắc, không có điều chi phải lo sợ. Tất cả chỉ là hư giả, tạm thời. Tuy vậy, hành giả không nên có thái độ tiêu cực, bởi vì tuy hư giả, tạm thời, nhưng mọi sự vật đều có công dụng. Phát huy tốt nhất các công dụng có thể đem lại sự an lạc, tuy tạm thời nhưng cũng là vĩnh cửu. Chẳng hạn thế giới của máy vi tính là ảo, là giả, ai cũng biết, nhưng công dụng tạm thời của nó (khi ta chưa có thần thông) lại rất hữu ích, đóng góp rất nhiều cho cuộc sống của chúng ta. Nhờ có nó mà bạn đọc được bài viết này, nghe và thấy Thầy Duy Lực thuyết pháp, dù bạn ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, chỉ cần mở máy vi tính hoặc điện thoại di động có hỗ trợ wifi hoặc 3G là bạn có thể tiếp xúc với Thiền của Thầy Duy Lực, giải thoát tâm trí ra khỏi các giới hạn thông thường, tiếp cận với cái vô hạn. Chúng tôi tin rằng Phật Thích Ca vẫn còn đang thuyết pháp ở đâu đó trong Tam giới và chúng ta có thể gặp được Đức Phật bằng xương bằng thịt, đang sống, và cả vô lượng vô biên nhân vật mà chúng ta quý mến, vẫn đang sống. Bởi vì vạn pháp duy thức, không gian, thời gian là không có thật, nên chẳng có sự kiện gì thật sự là quá khứ, là vị lai cả. Chúng ta không thấy, không nghe, không gặp, vì ta tự che khuất, tự bịt mắt (huệ nhãn) của mình, tự giới hạn mình đó thôi, chứ tất cả đều đang là. Chúng sinh đang là Phật, đang chịu khổ luân hồi sanh tử, đang nghèo đói thiếu ăn, đang bệnh tật hoặc gặp vấn đề nan giải, chỉ vì tự hạn chế, chấp ngã, chấp pháp, sao không buông bỏ để được tự do, tự tại ? chết cũng không đáng sợ, bởi vì sanh tử cũng chỉ là giả tạm.

Truyền Bình


Âm lịch

Ảnh đẹp