Thời gian làm thay đổi sự vật, chẳng hạn một đứa trẻ sơ sinh, rồi một
tháng tuổi, một năm tuổi, thời ấu thơ, thời thiếu niên, thời trưởng thành, thời
trung niên, rồi thời tuổi già. Cũng chính đứa trẻ đó trong những thời điểm khác
nhau, có thể chất và tâm lý khác nhau. Nhà vật lý học Isaac Newton khám phá ra
lực hấp dẫn và cũng dựa trên khái niệm thời gian đó lập nên cơ học cổ điển, mô
tả sự chuyển động của các thiên thể như mặt trời, mặt trăng, trái đất và các cố
thể vật chất khác, lập nên các phương trình toán học, cho phép xác định một vật
có khối lượng bao nhiêu, sẽ ở đâu vào thời điểm nào khi bị một lực có số đo bao
nhiêu tác động. Từ đó có thể tiên đoán vào ngày tháng năm nào sẽ có xảy ra nhật
thực, nguyệt thực hoặc xuất hiện các sao chổi mà con người đã từng gặp. Tóm lại
vạn vật hiện hữu hay tồn tại trong không gian và biến đổi theo thời gian
Thế nhưng quan niệm về thời gian
trôi xuôi một chiều bất biến như thế đã bị Einstein làm sụp đổ với thuyết tương
đối. Einstein mô tả thời gian như là chiều kích thứ tư của không gian 4 chiều.
Thời gian vật lý không phải trôi đều đều bất biến mà tùy thuộc vào vận tốc. Vận
tốc càng nhanh thì thời gian càng chậm lại. Paul Langevin (1872-1946) nhà vật
lý người Pháp, đã dựa vào lý thuyết của Einstein để sáng tác ra câu chuyện
nghịch lý về một cặp song sinh (twin paradox). Nói nghịch lý là vì nó trái với
nhận thức thông thường chứ không phải là không thể xảy ra. Hai anh em sinh đôi
tất nhiên bằng tuổi nhau. Lúc 30 tuổi, người anh trở thành phi hành gia đi trên
một phi thuyền không gian có tốc độ rất lớn, anh ta bay tới một hành tinh ngoài
hệ mặt trời và trở về trái đất an toàn. Anh ta có đồng hồ rất chính xác, và có
ghi nhật ký hẳn hòi. Thời gian đi và về chỉ có một năm thôi. Nhưng khi về tới
địa cầu, mọi việc thay đổi rất nhiều, anh ta không còn nhận ra cảnh cũ. Xem
lịch thì thấy trên trái đất đã qua 50 năm, người em song sinh nay đã là ông lão
80 tuổi, tóc bạc phơ. Trong khi đó anh ta mới 31 tuổi, vẫn còn trẻ, tóc chưa hề
bạc. Tại sao lại có hiện tượng lạ lùng như thế ?
Chẳng những thời gian có thể co dãn
mà không gian cũng vậy. Giả thuyết Big Bang ra đời nói rằng vũ trụ ban sơ có
kích thước cực kỳ nhỏ, 10-33 cm, chỉ là một chất điểm mà nếu nhỏ
hơn nữa thì sẽ biến mất không còn tồn tại, hoặc vô nghĩa. Cái hạt nhỏ đó bùng
nổ thành vũ trụ mà chúng ta đang sống, và kích thước của không gian vũ trụ cứ
nở lớn thêm mãi. Dù là cực lớn nhưng vũ trụ cũng có giới hạn. Nếu lấy vận tốc
ánh sáng là 300.000km/giây để tính, từ lúc bùng nổ đến nay là 13,7 tỉ năm, thì
vũ trụ là một khối cầu có bán kính là 13,7 tỉ quang niên. Mặt trời và thái
dương hệ xuất hiện cách nay 5 tỉ năm, còn Trái đất của chúng ta ra đời cách nay
4,5 tỉ năm. Tổ tiên gần của loài người là Người đứng thẳng (Homo erectus)
xuất hiện tại châu Phi 1.8 triệu năm trước. Người khôn ngoan ( Homo sapiens)
bắt đầu xuất hiện tại Châu Phi cách nay 200.000 năm, họ là tổ tiên của người
hiện đại, từ Châu Phi di cư ra các lục địa khác để hình thành nhân loại ngày
nay. Đó là tóm tắt lịch sử vũ trụ và loài người trên địa cầu.
Đối với nghịch lý cặp song sinh, các
nhà vật lý trả lời rằng vì phi thuyền bay quá nhanh nên thời gian trên phi
thuyền đã trôi chậm lại, trong khi trên địa cầu thời gian vẫn trôi đều đều. Tóm
lại thời gian không tồn tại độc lập, nó tùy thuộc tốc độ. Mà thời gian thay đổi
thì không gian cũng vậy, cũng tùy thuộc vận tốc. Các tín hiệu tin học do dòng
electron tải đi. Tốc độ của electron trong nguyên tử chỉ bằng khoảng từ 1/3 tới
1/2 tốc độ ánh sáng, nhưng tốc độ của electron tự do lan truyền trong dây
dẫn hoặc tốc độ của sóng điện từ truyền đi trong không gian thì bằng tốc độ ánh
sáng. Với tốc độ đó thì trên phạm vi địa cầu, khoảng cách không gian gần như bị
triệt tiêu khiến ta không còn cảm nhận có khoảng cách không gian, kinh nghiệm
này chúng ta dễ dàng có được trên internet. Chúng ta có thể thấy người đối thoại
qua camera và nghe tiếng nói hoàn toàn giống như đang ngồi trước mặt, nghĩa là
khoảng cách không gian không còn nữa.
Trong thế giới lượng tử, lại càng lạ
lùng hơn nữa. Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement- xem bài Đức
Phật A-Di-Đà là ai) chứng tỏ cả không gian, thời gian và số lượng đều không có
thật. Cả 3 đại lượng này, nói chung cả thế giới vật chất đều là sản phẩm của
tâm thức. Vật chất chỉ là vô thủy vô minh, bất khả tri. Big Bang chỉ tạo ra cấu
trúc ảo của vật chất bằng những hạt ảo như quark, electron. Nhà triết học người
Đức, Immanuel Kant gọi các vật ảo đó là vật tự thể (Das Ding an sich) bất khả
tri. Nhà vật lý Heisenberg thì gọi đó là thế giới tiềm thể, có khả năng hiện
hữu nhưng chưa hiện hữu, và chỉ hiện hữu trong tâm thức của người quan sát.
Nhiều nhà vật lý nhận định rằng thế giới lượng tử không khác gì thần thoại,
nhưng lượng tử quả thật đã tạo ra được ngành công nghệ thông tin rất phát triển
hiện nay, và chúng ta có thể thực nghiệm thần thông giống như thần thoại, việc
thấy và nghe xa hàng vạn dậm không còn là chuyện lạ, chúng ta có thể tiếp xúc
với bạn bè, người thân bất cứ ở đâu, bất cứ giờ nào vì khoảng cách không gian
trên địa cầu đã bị triệt tiêu trên internet khi chúng ta có thể chuyển thông
tin đi với tốc độ ánh sáng. Thuyết nhập nhị nhân duyên của Phật giáo giải thích
rằng chỉ khi cấu trúc ảo của vật chất do vô minh kiến lập đó, hình thành được
lục căn, phát sinh được nhất niệm vô minh thì Tam giới mới thành lập. Dục giới
là cõi vật chất có khối lượng, có hình tướng. Sắc giới là cõi trời hoặc cõi âm
của các vong linh, không có khối lượng nhưng còn có hình tướng. Vô sắc giới là
cõi chỉ còn ý thức, có thông tin nhưng không có hình tướng.
Thời gian không có thật, nên quá
khứ, hiện tại, vị lai chỉ là do tâm thức tưởng tượng ra. Vậy có điều gì chứng
tỏ ? Nếu vị lai là cái chưa xảy ra thì tại sao lại có người hoặc vật biết trước
được ? Ví dụ tại kỳ World Cup 2010 tổ chức tại Nam Phi, cả tỷ người trên thế
giới đã chứng kiến chú bạch tuộc Paul đoán đúng kết quả của cả 8 trận đấu, tức 100%
những gì mà người ta yêu cầu, trong đó 7 trận của đội tuyển Đức và trận chung
kết giữa đội Tây Ban Nha và Hà Lan. Chẳng bao lâu sau, bạch tuộc Paul qua đời.
Điều đó khiến chúng ta nghĩ rằng bạch tuộc Paul chính là một vị Bồ Tát hóa
thân, biểu diễn thần thông cho mọi người thấy sự nhiệm mầu, rồi sau đó theo
truyền thống Phật giáo, phải tịch diệt để mọi người không còn cơ hội tò mò về
phép thần thông mà quên sự tu chứng kiến tánh thành Phật, chỉ tăng cường lòng
tin mà thôi, cũng giống như Lục Tổ Huệ Năng, để lại nhục thân bất hoại để làm
tin cho đời sau, chứ nếu không có thì người đời còn biết bám víu vào đâu để tin
rằng Phật pháp nhiệm mầu.
Nhục thân bất hoại của Huệ
Năng, Hám Sơn và Đơn Điền tại chùa Nam Hoa
Trong lịch sử có không ít trường hợp
biết trước tương lai. Năm 435, vị sư người Thiên Trúc là Cầu Na Bạt Đà La
(Gunabhadra) đến Quảng Châu lập chùa Pháp Tánh và dự đoán sau này sẽ có một vị
Bồ Tát đến đây thọ cụ túc giới. Năm 502, quả có vị sư cũng người Thiên Trúc đến
chùa Pháp Tánh (sau đổi tên là chùa Quang Hiếu) mang theo một cây bồ đề
để trồng, thọ cụ túc giới tại đây, đó là sư Trí Dược Tam Tạng, sau đó ông đến
Tào Khê lập chùa Bảo Lâm và dự đoán 170 năm sau khi ông viên tịch, sẽ có một vị
Đại Bồ Tát đến đây hoằng pháp. Quả thật, đến năm 677 Lục Tổ Huệ Năng đã đến trụ
trì chùa này 37 năm, làm cho Thiền tông đại hưng thịnh.
Thời Chu Chiêu Vương cổ đại (995-977
Trước CN), xuất hiện thiên tượng lạ kỳ, có những tia sáng năm màu xoay vần trên
sao Thái Vi. Đương thời quan thái sử Tô Do phụng tấu: “Nhất định sẽ có thánh
nhân giáng sanh tại phương tây, nên mới xuất hiện điềm cảm ứng tốt lành trên
trời như vậy. Một ngàn năm sau, giáo pháp của vị thánh nhân đó sẽ được truyền
sang Trung Thổ”. Nghe như thế, Chu Chiêu Vương lập tức hạ lệnh khắc việc này
trên đá, để làm bia truyền lâu dài về sau.
Đến thời Hán Minh Đế (28-75), trong
niên hiệu Vĩnh Bình, vào một đêm nọ, vua mộng thấy một điềm lạ kỳ. Trong giấc
mộng, ông thấy một vị thân vàng, cao hơn một trượng sáu, lưng phóng ánh sáng
mặt trời mặt trăng, bay trên không trung, đến trước cung điện. Hôm sau, Hán
Minh Đế hội tất cả quần thần để bàn đoán mộng đó, xem coi có ý nghĩa gì. Thái
sử Phó Nghị bốc chiêm tinh rồi tấu trình: “Dựa vào bia của Chu Chiêu Vương,
giấc mộng đêm hôm qua của Bệ Hạ, nếu tính theo thời gian, thì hiển nhiên có sự
liên quan mật thiết. Hiện tại, Thần lại nghe rằng ở Tây Vực có Đức Phật. Bệ Hạ
mộng thấy người vàng, thì nhất định đó là Đức Phật vậy”.
Như vậy, trước khi Đức Phật ra đời
(năm 623 trước công nguyên) thì ở Trung Quốc, thời Chu Chiêu Vương, trước thời
của Phật hơn 300 năm, có người đã đoán biết và dự đoán 1000 năm sau thì giáo
pháp của bậc thánh nhân sẽ truyền đến Trung Hoa. Đạo Phật đã đến Trung Quốc vào
thời Hán Minh Đế, do nhà vua sai một phái đoàn gồm 18 sứ giả, dẫn đầu là Đậu
Cố, sang Tây Vực để tìm kiếm, trên đường đi, họ gặp hai nhà sư Thiên Trúc là Ca
Diếp Ma Đằng (Kasyapa-Matanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), bèn thỉnh về Lạc
Dương, xây chùa Bạch Mã (năm 68CN) cho hai ông trụ trì. Lúc đó là khoảng
1000 năm kể từ lúc Tô Do đưa ra dự đoán. Như vậy dự đoán của Tô Do quả là chính
xác.
Khi Thích Ca Mâu Ni mới ra đời, đạo
sĩ A Tư Đà (Asita) đã đoán biết hài nhi sau này sẽ xuất gia, tu hành, trở thành
bậc Đại Giác Ngộ, tức là thành Phật, sẽ cứu độ cho chúng sinh nhưng ông cũng
buồn cho mình là không kịp sống đến lúc Phật thành đạo. Các dự đoán của A Tư Đà
đều chính xác.
Nhà thơ Hoàng Đình Kiên 黃廷堅
(1045-1105), tự Lỗ Trực 魯直, biệt hiệu Sơn Cốc đạo nhân 山谷道人, sống vào đời
Tống ở Trung Quốc là một trường hợp tái sinh biết trước vị lai. Ông là hậu thân
của một cô gái chết còn trẻ tuổi, trước khi chết, cô gái niêm phong một rương
tác phẩm văn chương thi phú của mình, cất chìa khóa không cho ai biết, kể cả bà
mẹ. 26 năm sau, Hoàng Đình Kiên thi đậu tiến sĩ, nhân ngày sinh nhật của mình,
ông làm tiệc thiết đãi mọi người. Trong lúc nghỉ trưa ông nằm mơ thấy đi đến
một ngôi nhà trong cùng thành phố, gặp một bà lão, được mời ăn cơm. Khi tỉnh
giấc, ông nhớ rõ con đường đi đến ngôi nhà trong mộng, bèn tìm đến, cũng gặp bà
lão. Bà lão kể con gái bà đã chết 26 năm, hôm nay là đám giỗ, có để lại một cái
rương khóa kỹ, mà không có giao chìa khóa cho bà nên bà không rõ trong đó đựng
cái gì. Bỗng Hoàng Đình Kiên nhớ được chỗ cất chìa khóa và tìm thấy nó, mở
rương ra thấy có các bài thơ văn, trong đó, thật kỳ lạ, có đúng y bài văn mà
nhờ nó ông đậu tiến sĩ. Truyện về Huỳnh Đình Kiên chứng tỏ rằng tiền thân của
ông là cô gái, trước lúc lâm chung đã tự tay khóa cái rương và cất chìa khóa mà
không đưa cho mẹ, bà mẹ còn nhớ rõ con gái có nói rằng kiếp sau mình sẽ trở lại
mở cái rương đó. Thực tế diễn ra đúng như vậy. Như thế tương lai đã được biết
trước. Việc Huỳnh Đình Kiên thi đậu Tiến sĩ giống như đã được lập trình.
Như vậy quá khứ, hiện tại, vị lai
chỉ là tâm thức chứ không phải sự thật khách quan bên ngoài. Thời gian lâu hay
mau chỉ là chủ quan, kể cả thời gian vật lý cũng là chủ quan gắn với một hệ qui
chiếu. Một trong các danh hiệu của Phật là Như Lai, biểu thị rằng không có khứ
lai, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu. Các danh hiệu Như Lai, A-Di-Đà đều
biểu thị rằng không có không gian, không có thời gian, không có số lượng.
Con người chế tạo phi thuyền không
gian định đi đến những hành tinh xa xôi, đó quả thật là vọng tưởng, bởi vì dù
có đạt tới vận tốc gần bằng ánh sáng, cũng không thể đến được những hành tinh
cách xa hàng tỉ quang niên, chỉ quanh quẩn trong thái dương hệ đã là khó. Cái
vọng tưởng là cho rằng vũ trụ là có thật, không gian, thời gian và số lượng là
có thật. Trong khi đối với Phật, Bồ Tát, vũ trụ là duy thức, do đó chỉ một niệm
là đến, khoảng cách không-thời-gian 13,7 tỉ quang niên chỉ là ảo tưởng. Tất cả
thông tin, tất cả năng lượng đều nằm trong A-lại-da thức, khi làm chủ được nó,
vận dụng được nó, thì đó là chánh biến tri, vô lượng quang, vô lượng thọ. Chẳng
có không gian, chẳng có thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai gì hết, số lượng
cũng không. Lịch sử vũ trụ, lịch sử địa cầu, lịch sử loài người đều chỉ là vọng
tưởng do vô minh kiến lập. Tam giới cũng đều là không. Thế nhưng Bồ Tát phải
dựa trên cái tâm vọng tưởng của chúng sinh để tiếp cận. Bồ Tát phải hóa thân ra
nhiều hình tướng đồng loại với chúng sinh để tiếp cận và giáo hóa, giải trừ vô
vàn nỗi khổ tưởng tượng (thế lưu bố tưởng), tuy là tưởng tượng nhưng chúng sinh
tưởng là thật nên cảm thấy khổ hoặc đôi lúc cảm thấy vui sướng, cũng đều là
vọng tưởng.
Duy thức học Phật giáo nói rằng vũ
trụ chỉ là tâm thức, điều đó có nghĩa vũ trụ vạn vật chỉ là thông tin. Bởi vì
thức là thông tin, biết cái ký hiệu, cái ý nghĩa của sự thật nhưng không phải
biết cái thật vì sự thật hay chân lý là bất nhị, bất khả tri. Ví dụ ta biết về
thế giới là nắm được một phần nào đó thông tin về thế giới chứ không phải cái
thế giới thật. Cái biết của con người là nắm được thông tin. Thông tin chỉ phản
ánh một phần nào đó của sự thật, chứ không bao giờ phản ánh được toàn bộ sự
thật. Câu chuyện người mù sờ voi trong Kinh Niết Bàn là hiển bày ý nghĩa đó,
tức là tất cả chúng ta chỉ là những người mù sờ voi, bất kể ta là ai, nhà khoa
học, nhà thông thái hay giáo chủ, lãnh tụ chính trị. Không phải chỉ có thông
tin tĩnh như văn bản, ảnh tĩnh, thông tin còn có dạng động như âm thanh, video,
các loại chương trình, các tập tin ứng dụng (application) các loại games. Không
phải chỉ có thông tin bằng ánh sáng và sóng qua mắt và tai, cảm giác về hương
thơm hoặc thúi, vị giác ngọt mặn đắng cay, xúc giác trơn nhám sướng đau
v.v…cũng đều là thông tin. Trong đời thường, thông tin còn điều khiển cả
thời-không 4 chiều, chẳng hạn thông tin di truyền điều khiển cả quá trình phát
triển của một sinh vật từ cái trứng thụ tinh đến trưởng thành, ngay cả năng
lượng cũng là thông tin. Các bậc giác ngộ không phải biết sự thật mà hòa nhập
với nó, ngộ mình, cái tôi chính là a-lại-da thức, là tam giới, là tâm bất nhị,
là tâm như hư không vô sở hữu, trống rỗng, không có gì cả, mà cũng là tất cả.
Khoa học hiện nay chưa điều khiển nổi loại thông tin này, chỉ một số ít
người có khả năng ngoại cảm hay công năng đặc dị, làm được chút ít. Kinh điển
Thiên Chúa giáo cũng có đề cập chuyện này, trong một buổi giảng đạo bên hồ
Galilea (phía bắc Israel hiện nay) có năm ngàn đàn ông tham dự, chưa kể đàn bà
và trẻ con, họ đói, nhưng người thân cận của Chúa Jesus chỉ có 5 cái bánh và 2
con cá, Jesus đã bẻ bánh chia cho tất cả những người tham dự buổi giảng, tất cả
hơn 10.000 người, đều được ăn no bụng. Truyện cổ dân gian cũng có nói tới cái
niêu Thạch Sanh, cơm đựng trong đó lấy ăn bao nhiêu cũng không hết. Những câu
chuyện này chứng tỏ năng lượng vật chất làm nên cơm bánh cũng chỉ là thông tin,
người có thần thông điều khiển được thông tin loại này, có thể làm ra vật chất
khiến người ta no bụng. Chính vì số lượng không có thật, mà hiện tượng rối
lượng tử đã chứng minh, nên một cái bánh có thể được copy thành vô số cái bánh,
một chén cơm được copy thành vô số chén cơm. Chúng ta cũng có thể làm được điều
đó trên không gian ảo, một cái ảnh có thể được copy thành vô số cái ảnh. Thế
giới đời thường cũng chỉ là huyễn ảo không khác chi thế giới vi tính, nên người
có thần thông như Đức Phật hay Chúa Jesus hoàn toàn có khả năng biến một cái
bánh thành vô số cái bánh. Nhiều người cho rằng những câu chuyện như trên chỉ
là truyền thuyết hoang đường, ít ai biết rằng chúng cũng có cơ sở khoa học.
Ngày nay các khoa học gia biết rằng chân không lượng tử http://www.vphausa.org/vphavn/chuyenkhoa/PXY2.pdf
có đặc tính kỳ lạ là, tuy chứa năng lượng cực tiểu nhưng lại vô hạn. Vô hạn tức
là vô số lượng. Số lượng là không có thật nên năng lượng cũng không hạn chế,
nếu biết cách, tức nắm được thông tin điều khiển thì không lo gì thiếu năng
lượng.
Chúng ta luận đến đây thì có thể
hiểu rằng tất cả mọi vấn đề của nhân loại và của chúng sinh đều là ảo tưởng,
đều dựa trên cơ sở vô minh. Những vấn đề như thiếu lương thực, thiếu nước ngọt,
thiếu năng lượng, thiếu tài nguyên, chiến tranh…; thiên tai như động đất, lụt,
bão, núi lửa; vấn đề xã hội như bất công, áp bức, độc tài; vấn đề cá nhân như
bát khổ : sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm sí
thạnh khổ v.v…cũng đều là thức, là thế lưu bố tưởng không phải thật có. Thiếu
năng lượng ư ? Vũ trụ có vô lượng vô biên năng lượng, Tâm cũng là năng lượng vô
hạn mà ta không biết khái thác. Thiên tai ư ? Thiên tai cũng tuân theo luật
nhân quả, thiên tai là quả đắng của nhân bất thiện, của ác niệm. Do cộng nghiệp
bất thiện của chúng sinh là nhân của thiên tai. Động đất, núi lửa, bão tố dường
như nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người nhưng thật ra không phải vậy.
Theo Phật pháp, vạn pháp duy tâm, chính tâm hỗn loạn, bất an, hung hãn, bỏn
sẻn, bất thiện là nguyên nhân sâu xa của thiên tai và nhân họa. Tâm an tịnh thì
tạo ra một cõi giới thanh tịnh, như cõi Tây phương của Phật A-Di-Đà, đất đai
bằng phẳng, đồng đều, vững chắc, không hề có núi lửa hay động đất, không có bão
tố, quần áo, thực phẩm, nhà cửa đều có sẵn, không cần sản xuất, không cần có xe
cộ, muốn đi đâu chỉ khởi niệm là đến.
Chúng ta không tin thế giới là Tâm,
chúng ta chỉ lo tìm cầu giải quyết ở bên ngoài, nên chẳng giải quyết được triệt
để bất cứ vấn đề gì. Nhân loại không phải thiếu lương thực, thực phẩm quần áo,
nhà cửa, mà chỉ là không thể phân phối chúng cho tất cả mọi người. Thiên tai
nhân họa không phải vô phương giải quyết, mà chỉ không thể giải quyết được vì
tâm con người còn quá cố chấp, khăng khăng chấp ngã, chấp pháp, đầy những tâm
niệm vị kỷ, lợi mình hại người. Chính cái tâm bất thiện đầy ác niệm như vậy tạo
ra thiên tai nhân họa. Trong hạt nhân nguyên tử, các hạt quark bên trong hạt
proton và hạt neutron luôn ở trong tình trạng bị giam hãm (confinement), tình
trạng đó khiến vật chất bị qui định cứng nhắc, không thể chuyển biến dễ dàng từ
vật chất thành năng lượng và ngược lại, hoặc biến đổi từ nguyên tố này thành
nguyên tố khác. Tình trạng đó khiến cho cái gì cũng bị hạn chế, khiến sinh ra
ảo tưởng rằng không gian, thời gian và số lượng là có thật, từ một cái bánh
không thể copy thành vô số cái bánh, từ một cái nhà không thể copy thành vô số
cái nhà, sản xuất vật phẩm trở thành khó khăn, thiếu vật tư, thiếu năng lượng,
con người tự phát tính tranh giành, mạnh được yếu thua. Hiện tượng giam hãm của
các hạt quark phản ánh tâm cố chấp của chúng sinh, sự cố chấp kiên cố tới mức
không có chi phá vỡ được hiện tượng giam hãm. Trong máy gia tốc LHC (Large
Hadron Collider), người ta gia tốc chùm tia proton để đạt tốc độ cực lớn, gần
bằng tốc độ ánh sáng và cho chúng đi ngược chiều nhau, hy vọng sự va chạm đủ
mạnh đế phá vỡ được hiện tượng giam hãm, giải phóng các hạt quark, nhưng chưa
thành công, bởi lẽ muốn phá vỡ hiện tượng giam hãm, phải cần năng lượng vô hạn,
mà khoa học kỹ thuật không thể cung cấp được năng lượng vô hạn, chỉ có tâm giải
thoát mới làm được việc đó, hoặc dùng tâm như công năng đặc dị. Trương Bảo
Thắng có lần làm được, anh ta đi xuyên qua tường của Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh
năm 1982, nhưng về sau không còn làm được nữa, và bị rơi vào quên lãng.
Phật, Bồ Tát, không còn tâm cố chấp,
không có chấp trước tưởng hay nói gọn là không có trước tưởng, nên không bị
hiện tượng giam hãm (confinement) hạn chế, vì vậy có đủ 6 thần thông (thân như
ý thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu
tận thông). Với 6 phép thần thông này, Phật có thể tùy duyên biến hóa trong tam
giới, chủ yếu là cứu độ chúng sinh, nhưng rất hiếm khi hiển bày thần thông vì e
ngại nó sẽ mê hoặc chúng sinh, thế giới là huyễn ảo thì thần thông cũng chỉ là
huyễn ảo. Một vài người do tu luyện từ kiếp trước, có được công năng đặc dị
giống như thần thông, ví dụ như Trương Bảo Thắng, có thể đi xuyên qua tường
không bị trở ngại, hoặc di chuyển vật thể xuyên qua vật thể khác, ví dụ lấy các
viên thuốc từ trong lọ đóng kín ra ngoài mà không cần mở nắp. Nhưng anh ta tùy
tiện hiển bày nhiều lần nên về sau mất hết công lực, không làm được nữa, bị rơi
vào quên lãng.
Tóm lại, không gian, thời gian, số
lượng không phải là những đại lượng tuyệt đối. Thế giới có bản chất là tâm
thức, là thông tin. Quá khứ, hiện tại, vị lai cũng chỉ là tâm thức. Sống hay
chết, thịnh hay suy cũng chỉ là tương đối. Người giác ngộ thì không bám víu quá
khứ, không trụ hiện tại, cũng không trông chờ tương lai, không chấp ngã, không
chấp pháp, vô sở cầu, vô sở đắc, không có điều chi phải lo sợ. Tất cả chỉ là hư
giả, tạm thời. Tuy vậy, hành giả không nên có thái độ tiêu cực, bởi vì tuy hư
giả, tạm thời, nhưng mọi sự vật đều có công dụng. Phát huy tốt nhất các công
dụng có thể đem lại sự an lạc, tuy tạm thời nhưng cũng là vĩnh cửu. Chẳng hạn
thế giới của máy vi tính là ảo, là giả, ai cũng biết, nhưng công dụng tạm thời
của nó (khi ta chưa có thần thông) lại rất hữu ích, đóng góp rất nhiều cho cuộc
sống của chúng ta. Nhờ có nó mà bạn đọc được bài viết này, nghe và thấy Thầy
Duy Lực thuyết pháp, dù bạn ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, chỉ cần mở máy vi
tính hoặc điện thoại di động có hỗ trợ wifi hoặc 3G là bạn có thể tiếp xúc với
Thiền của Thầy Duy Lực, giải thoát tâm trí ra khỏi các giới hạn thông thường,
tiếp cận với cái vô hạn. Chúng tôi tin rằng Phật Thích Ca vẫn còn đang thuyết
pháp ở đâu đó trong Tam giới và chúng ta có thể gặp được Đức Phật bằng xương
bằng thịt, đang sống, và cả vô lượng vô biên nhân vật mà chúng ta quý mến, vẫn
đang sống. Bởi vì vạn pháp duy thức, không gian, thời gian là không có thật,
nên chẳng có sự kiện gì thật sự là quá khứ, là vị lai cả. Chúng ta không thấy,
không nghe, không gặp, vì ta tự che khuất, tự bịt mắt (huệ nhãn) của mình, tự
giới hạn mình đó thôi, chứ tất cả đều đang là. Chúng sinh đang là Phật, đang
chịu khổ luân hồi sanh tử, đang nghèo đói thiếu ăn, đang bệnh tật hoặc gặp vấn
đề nan giải, chỉ vì tự hạn chế, chấp ngã, chấp pháp, sao không buông bỏ để được
tự do, tự tại ? chết cũng không đáng sợ, bởi vì sanh tử cũng chỉ là giả tạm.
Truyền Bình