Sự kết cấu của văn
học không hệ trọng bằng chân lý tôn giáo đã có sẵn: chân lý thành kiến. Bởi vì
chỉ có nội dung, hình thức không cần thiết lắm, do đó, chân lý của tôn giáo sẽ
tùy nghi được phô diễn bằng cách vay mượn bất cứ thể tài văn học nào đã được
thông dụng. Người ta sẽ không đòi hỏi tác giả phải có một phong cách độc đáo
trong đường lối phô diễn; y khỏi phải nỗ lực vận dụng mọi khả năng sáng tạo đến
mức tuyệt động, vốn là giá trị đặc sắc của một tác giả văn học - thuần túy. Như
vậy, một khi nội dung của kinh nghiệm tôn giáo càng được nới rộng, thể tài văn
học càng bị thu hẹp lại. Cho đến một lúc nào đó, lúc mà kinh nghiệm tôn giáo
được mở rộng đến vô hạn và tận cùng trong tuyệt đối bất khả tri, người ta bị bắt
buộc phải khước từ mọi phương tiện diễn đạt qua các thể tài văn học. Đây là một
song quan luận của phương tiện (văn học) và cứu cánh (tôn giáo). Khai triển
phương tiện đến tận cùng thì cứu cánh sẽ vắng bặt. Ngược lại, nếu tiến đến chỗ
tuyệt đối cứu cánh, phương tiện sẽ hết còn là phương tiện. Nói cách khác, hình
như cứu cánh tôn giáo, với những chân lý thành kiến của nó, lúc nào cũng sẵn
sàng phản bội mọi tính cách sáng tạo của văn học. Văn học không phải là phương
tiện của bất cứ một chân lý cứu cánh nào, thành kiến hay không thành kiến, dù là
chân lý về sự sống và cuộc đời; vấn đề sẽ mở sang một chiều hướng khác: đâu là
phương tiện, và đâu là cứu cánh của văn học?
Ở đây, chúng ta có hai lãnh
vực mà sự diễn đạt của văn học có thể vươn tới. Trước hết, là hai trích dẫn điển
hình, thường được nhắc nhở rất nhiều:
Thứ nhất, kinh
Tương ưng bộ (Samyutta – Nikàya): "Thánh nhân không tranh luận với thế gian.
Những gì kẻ trí trong thế gian nói là không, ngài cũng nói là không. Những gì kẻ
trí trong thế gian nói là có, ngài cũng nói là có".
Trong trích dẫn này,
mọi diễn tả của ngôn ngữ không được phép vượt qua giới hạn của tri thức thường
nghiệm. Chân lý chỉ tuyệt đối ở tự thân của nó, nhưng là tương đối ở lãnh vực
diễn đạt của ngôn ngữ. Vì vậy, các tác giả của Phật học có thói quen mở đầu tác
phẩm của mình bằng một thái độ khiêm tốn: những gì họ sẽ trình bày không liên hệ
đến tự thân của chân lý mà họ muốn hướng đến. người ta không thể nhầm lẫn giữa
ngón tay và mặt trăng. Dĩ nhiên, ngôn ngữ ở đây tác động trong những tâm trí
bình thường. Hậu quả của nó sẽ là khuôn mẫu để phân tích và phân loại các sự
thực của kinh nghiệm. Tức là ngôn ngữ của triết lý.
Thứ hai, kinh Bát
nhã (Prajnàpàmità-sùtra): "Bất hoại giả danh nhi thuyết thật nghĩa". Giả danh,
tức biểu tượng và danh ngôn trong tính cách ước lệ của chúng. Những thứ này
không liên hệ đến chân lý tuyệt đối, tức thật nghĩa. Do đó, muốn đạt đến chân lý
tuyệt đối này, phải vượt qua mọi khả năng của ngôn ngữ và biểu tượng, như người
ta cần lìa bỏ tầm mắt khỏi ngón tay để nhìn thẳng vào mặt trăng. Tuy nhiên,
trích dẫn của chúng ta nói: ngay nơi biểu tượng và ngôn ngữ mà thể nhận chính
bản thân của sự thật. Và đây chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Bởi vì,
theo lý tưởng này, vắn tắt, không phải do người nói đã nói ra như vậy, rồi người
nghe theo đó mà nghe như vậy và sự thực được phô diễn như vậy nên có ý nghĩa như
vậy; nhưng, chính sự thật là như vậy. Những vị đã từng làm quen với văn học Bát
nhã sẽ không lấy làm thắc mắc quá đáng về lề lối diễn tả như vậy. Theo tinh thần
này mà nói, cái cảm hứng đưa đến sự thành hình của một tác phẩm, bất kể dưới
cách thức phô diễn nào, phải là một cảm hứng toàn diện, trong đó không có giới
hạn phân biệt giữa một nhãn quan - một ý tưởng - cần được phô diễn và hình thức
phô diễn. Tất cả, từ tác giả cho đến độc giả, phải được đặt trong mối tương quan
vô phân biệt, như sự phản chiếu giữa các mặt kính đối diện nhau, phản chiếu
trong một thế giới trùng trùng vô tận.
Vì vậy, kinh điển
Bát nhã thường chọn những vị chưa chứng ngộ chân lý về tánh Không mà lại có tư
cách giảng thuyết về tánh Không. Tất nhiên, trong trường hợp này người ta phải
hiểu rằng tánh Không tự phô diễn lấy chính nó, mà người giảng thuyết, sự thực
được giảng thuyết, cho đến người nghe, tất cả chỉ như là ráng nắng, mộng ảo,
huyễn hóa… Từ đây gợi lên cho chúng ta ý tưởng rằng, một tác phẩm, dù là luận
thuật tư tưởng hay văn học thuần túy, không thể nào vượt qua khỏi giới hạn của
ngôn ngữ. Nhưng, chính cái cảm hứng bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm mới tạo
cho nó một kích thước rộng rãi, một sức hàm chứa vô biên. Lẽ cố nhiên, cảm hứng
thì không thể bị điều động bởi bất cứ ý tưởng nào, mà bộc phát với một thế giới
kỳ diệu đột nhiên xuất hiện. Một cách khác, chúng ta nói rằng, tất cả các tác
phẩm của văn học Phật giáo đều cố gắng cắm sâu gốc rễ vào tánh Không. Rồi sau đó,
vươn mình khỏi lòng đất với tàn lá sầm uất của một thế giới trong trùng trùng vô
tận.
Trong ý nghĩa vừa
nói, một tác phẩm xứng đáng với một kích thước rộng lớn, nó phải khởi lên từ cảm
hứng của thực tại; vì rằng, ngay qua đó, người ta sẽ thấy một cách như thực đâu
là tiếng nói của thực tại và đâu là tiếng nói của lòng người: thực tại tức là
lòng người. Và cũng từ đó, người ta sẽ tìm thấy đâu là khát vọng sâu xa đang ẩn
kín trong lòng người. Một tác phẩm mà không đủ sức chấn động lòng người để mở ra
một thế giới như vậy không thể xứng danh là một tác phẩm văn học. Bởi vì, một
tác phẩm tường thuật, về triết lý v.v…, chỉ cần ý tưởng, cần nội dung súc tích
là đủ; những gì đáng nói đã được nói hết. Hình thức phô diễn chỉ là phương tiện
tùy cơ duyên mà thôi. Nhưng một tác phẩm văn học phải đặt hết tâm tình và cảm
xúc ngay ở hình thức phô diễn; và đây không phải là tâm tình và xúc cảm được
khơi dậy bởi một chân lý thành kiến nào đó. Như vậy ngay nơi tác phẩm văn học,
không phân biệt giữa nội dung và hình thức, mà ngay nơi tính cách phô diễn đương
trường của nó, là cả một thế giới sống thực triền miên. Y như Phật quả Viên Ngộ
Thiền sư (Bích nham lục); "Ẩn mật toàn chân, đương đầu thủ chứng". Đấy chính là
khởi điểm và cũng chính là đích điểm của văn học Đại thừa Phật giáo.
Quan điểm của chúng
ta sẽ được tóm tắt như sau:
1.
Sơ khởi văn học Phật giáo
không từ chối vai trò "truyền đạo" của nó. Tức là, chân lý của tôn giáo này, tùy
trường hợp, được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ
như một phương tiện, thứ yếu, không quan trọng cho bằng nội dung.
2.
Nhưng, chân lý ở đây mang
tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt
đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học, nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bột
phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh.
3.
Trên khía cạnh tôn giáo, chân
lý được chứng ngộ là phản ảnh của một thế giới sống động. Trên phương diện diễn
đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tánh
Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu
lẫn nhau tạo thành thề giới toàn diện của văn học Phật giáo.
Như vậy, chúng ta
có thể nhớ lại phát ngôn của Tăng Triệu (Tựa kinh Duy ma cật)
Thánh trí vô
tri nhi vạn phẩm cu chiếu
Pháp thân vô
tượng nhi thù hình tịnh ứng
Chi vận vô
ngôn nhi huyền tịch di bố
Minh quyền vô
mưu nhi động dữ sự hội
Hoặc giả, của Ngạn Hòa Thích
Huệ Địa: (Văn tâm điêu long).
Tịch nhiên
ngưng lụ, tứ tiếp thiên tải
Tiểu yên động
dung, thị thông vạn lý
Vân… vân…
II.
KHỞI ĐIỂM CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO: CẢM HỨNG TỪ ĐỜI SỐNG CÁ BIỆT:
Đời sống cá biệt là hình ảnh nổi bật nhất
trong các kinh điển của Nguyên thủy Phật giáo. Đó là hình ảnh lẻ loi của tăng lữ
tại các núi rừng, bởi vì, luôn luôn, "một vị tỳ khưu hãy đi cô đơn như con tê
giác". Chế độ tăng lữ nguyên thủy không cho phép một thầy tỳ khưu sống giữa đám
đông, giữa các thành phố rộn rịp, và chứa đựng tư hữu. Họ không sống quá xa làng
mạc, nhưng cũng không quá gần gũi. Tư hữu chỉ gồm một ít vật dụng cần thiết: ba
chiếc y, một bình bát, một đảy lọc nước, một khăn ngồi, một dao cạo, và kim chỉ.
Trừ những trường hợp khẩn thiết, họ không định cư ở đâu hết; và hình ảnh của đức
Phật được mô tả là: Một bình bát với cơm ăn của thiên hạ. Một mình lẻ bóng lang
thang trên khắp mọi nẻo đường. Một mục đích duy nhất của đời sống là giải quyết
vấn đề sống chết. Một sứ mệnh duy nhất là cởi bỏ mọi ràng buộc cho chúng sinh:
Nhất bát thiên gia
phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sinh tử sự
Giải thoát độ quần
mê.
Hình ảnh này là nguồn cảm hứng bất tận của
văn học Phật giáo nguyên thủy. Và cả nơi Đại thừa, nhưng với cường độ khốc liệt
và cực đoan hơn: "Nhất thiết vô úy nhân, nhất đạo xuất sinh tử"; tất cả các bậc
Vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ
của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính tịch diệt của Niết bàn,
nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối. Thực sự, lối diễn tả rầm rộ của
văn học Đại thừa sau này, với thế giới quan trùng trùng vô tận, với khả năng
được nói là biện tài vô ngại, tất cả chỉ làm cho hình ảnh cô liêu của đức Phật
càng tuyệt đối khốc liệt. Kinh Pháp hoa (Saddharma – Pundarika), một tác phẩm
quan trọng của Đại thừa, là một thí dụ điển hình cho chúng ta. Đức Phật xuất
hiện giữa thế gian như sư tử giữa đám thú rừng, không sợ hãi gì hết. Nhưng cũng
cô đơn như người cha già cả sống giữa đám tùy tùng, chỉ mong đợi duy nhất ngày
trở về của đứa con hoang. Khi hội diện, lại còn phải dùng bao nhiêu phương tiện,
phải chờ đợi biết bao nhiêu cơ duyên, đứa con hoang mới nhận ra đây quả thực là
cha già của nó.
Theo hình ảnh lý tưởng đó,
một vị tỳ khưu, trước khi thể hiện được chân lý tuyệt đối của sự sống, đã phải
nỗ lực cho một cuộc đời "lẻ bóng": "Người ngồi một mình, nằm một mình, đi
đứng một mình không buồn chán; người ấy ưa tìm sự vui thú trong chốn rừng sâu".
(Dhammapada, 306). Đây là một lối diễn tả, về đời sống cô liêu, độc đáo nhất
trong văn học Phật giáo nguyên thủy.
Rồi ra, hương vị của chánh
pháp là gì? Chính là sự cô liêu ấy. Chánh pháp là dòng suối mát và ngọt của sự
sống, rửa sạch tất cả những uế trược của cuộc đời. Bởi vậy, một tâm hồn khi đã
chứng nhập chánh pháp, cũng trong và mát như dòng suối ngọt ấy. Kinh Pháp cú (Dhammapada)
có câu: "Ai đã từng nếm mùi vị cô liêu, người ấy càng ưa nếm hương vị của chánh
pháp." Bởi vì, Chánh pháp là Niết bàn tịch tĩnh. Trong nguồn cảm hứng này, mọi
luận biện về Niết bàn, rằng đây là hư vô, đây là bất tử, đây là vân vân, thảy
đều không quan hệ. Mà vắn tắt, có thể nói, Niết bàn là gì? Là cõi miền trầm lặng
sâu xa, nơi đó vắng bặt mọi uế trược và mọi náo động tạp loạn, mọi tranh chấp
thế tục của sự sống. Cố nhiên, đây là hình ảnh Niết bàn tịch tĩnh hay tịch diệt
trong nguồn cảm hứng văn học chứ không thể trong suy tư triết lý. Và như vậy,
cùng một đoạn trong kinh Pháp cú: "Như một hồ nước sâu, trong suốt và yên lặng;
kẻ có trí sau khi nghe Pháp thì cũng trầm lặng sâu xa như vậy." Sự trầm lặng này,
nếu không phải là khí vị hiu hắt của cô liêu, thì là gì? Thế là, cô đơn trong
hành đạo, những người theo đạo Phật trước kia, như một con tê giác, một mình lẻ
bóng giữa cuộc đời trên một con đường cô đơn từ đầu đến cuối. Bàng Uẩn, một tục
gia đệ tử của Thiền tông Trung hoa, thời nhà Đường, đặt câu hỏi: "Ai là kẻ trơ
trọi không cùng Vạn Pháp làm bạn lữ?"
Trong cuộc đời ấy, cô đơn là
người bạn. Nhưng, đồng thời nó lại là một kẻ thù sinh tử. Làm thế nào để chịu
đựng đời sống cô liêu giữa núi rừng hoang dại? Câu hỏi này được đặt ra bởi một
người Bà la môn tên Janussoni. Phật trả lời rằng: "Tất cả những ẩn sĩ, với những
hành vi của thân, miệng và ý mà không trong sạch, khi họ sống trong sự cô liêu
của núi rừng, vì các hành vi bất tịnh của họ, khiến họ nổi lên sợ hãi, run rẩy
khôn cùng. Còn Tôi, mà các hành vi thảy đều trong sạch, tôi sống trong sự cô
liêu của núi rừng. Nếu có những bậc Thánh mà các hành vi thảy đều trong sạch,
sống trong sự cô liêu của núi rừng, Tôi là một trong những vị đó. Này, Bà la môn,
khi tôi sống đời sống trong sạch của các hành vi của tôi thì hương vị của đời
sống cô liêu thâm nhập trong tôi."
Vậy ra, đời sống cô liêu
không chỉ là con đường hành đạo, mà còn là kết quả của những hành vi đã rủ sạch
mọi bất tịnh.
Chúng ta thấy rõ, phần lớn
của nền văn học Phật giáo nguyên thủy bàng bạc những hình ảnh của đời sống cô
liêu. Tuy nhiên, chủ đích không phải là trình bày một thứ cá nhân chủ nghĩa nào
đó, mà đời sống của Tăng lữ phải rút lui khỏi thế gian, đắm mình trong hư vô chủ
nghĩa. Nhưng vì chân lý được nhắc nhở trong các kinh điển nguyên thủy vốn được
coi là sở đắc nội tại và cá biệt. "Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình
là nơi nương tựa cho chính mình", đây là lời dạy cuối cùng của đức Phật, được
ghi lại trong kinh Đại bát Niết bàn. Chúng ta có thể trích dẫn dài hơn một chút:
kinh chép, khi A nan xin Phật để lại những lời dạy dỗ cuối cùng, Phật trả lời: "Này
A nan da, Như lai không nghĩ rằng: "Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo", hay "chúng
Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta", thời,
này A nan da, làm sao Như lai có lời di giáo cho chúng Tì kheo… Vậy nên này A
nan da, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình,
chớ y tựa một cái gì khác."
Văn học nguyên thủy hay Tiểu
thừa không chỉ dừng lại nơi đây. Mặc dù, đây là thời kỳ mà đời sống của Phật
giáo duy nhất là đời sống hành đạo của tăng lữ; tất cả mọi nỗ lực đều cốt chinh
phục khổ não và hệ lụy nhân sinh; giải thoát và Niết bàn là mục đích tối thượng;
và đời sống của tục gia đệ tử không liên hệ gì đến Phật pháp, ngoại trừ công
việc hộ đạo. Nhưng ở vài nơi, kinh điển nguyên thủy cũng đã dành chỗ cho các
sinh hoạt mang tính cách thế tục. Về điểm này, chúng ta phải kể đến trước tiên
là văn học Jataka và kế đến là văn học Avadana.
Jataka hay Bản sinh truyện là
những mẫu chuyện tiền thân của đức Thích tôn, trải qua nhiều kiếp với những hành
vi như một anh hùng hiệp sĩ vĩ đại xuất hiện giữa thế gian, luôn luôn đem cả
thân mạng làm lợi ích cho mọi người. Những mẫu chuyện này, ngoài ước vọng giải
thoát để làm lợi ích toàn diện cho thế gian của đức Thích tôn, không chứa đựng
giáo lý cốt yếu nào hết. Vì ở đây, Bồ tát (Bodhisattva) – một danh hiệu trước
khi Thích tôn thành đạo, sống giữa thế gian, làm tất cả những gì mà thế gian cần
có không phải vì giải thoát tối thượng, mà vì sự an lành trong cuộc sống bình
nhật. Ngài là một mẫu hiệp sĩ cứu khổ phò nguy, giữa quần chúng bình dân, yếu
đuối, bất lực dưới mọi bất công.
Đằng khác, văn học Avadana
hay Thí dụ, vốn là những mẫu chuyện ngắn mô tả những xấu xa, ngu muội của mọi
người trong đời sống bình nhật; cũng không liên hệ nhiều với giáo pháp cốt yếu
của đạo Phật.
Đấy là hai nền văn học đặc
trưng của Phật giáo trong sinh hoạt nhân gian. Chúng có cùng tính chất với loại
văn chương bình dân. Vai trò của chúng không phải là không quan trọng. Bởi vì,
trong nguyên thủy, đời sống tăng lữ vốn ở giữa nhân gian, không quá xa, cũng
không quá gần; không mang tính chất của sinh hoạt thị thành. Tùy cơ duyên, các
tăng lữ sáng tác những mẫu chuyện vừa tầm để nhắc nhở mọi người đời sống hướng
thiện.
Đối với những hạng người ít
bị sinh kế quẫn bách, kinh điển dành cho họ vai trò hộ đạo tích cực hơn. Đời
sống của họ, ngoài bổn phận của một người cha trong gia đình, công dân trong một
nước, họ còn có bổn phận hộ trì Chánh pháp, và tìm những cơ duyên thuận tiện để
học hỏi Chánh pháp, gieo hạt giống tốt trong Chánh pháp để một khi thời cơ đến
họ sẽ hiến mình trọn vẹn cho mục đích tối thượng là giải thoát và Niết bàn.
Đoạn kinh trích dẫn dưới đây
cho thấy điều đó. Kinh mô tả cơ duyên theo đạo Phật của ông Cấp Cô Độc
(Anathapindika), một phú hộ đương thời Thích tôn tại thế.
Trưởng giả Anathapindika, ở
thành Rajagaha (Vương xá), nước Magadha (Ma kiệt đà), một hôm, vào lúc tản sáng,
đến thăm một thân nhân. Vị này, thức dậy từ sáng sớm đang bận rộn với các tôi
tớ, hình như đang sửa soạn một bữa tiệc gì đó. Anathapindika tự nghĩ: "Trước kia,
khi ta thường đến đây, vị gia chủ này gác lại mọi công việc, không làm gì hết,
trao đổi những lời chào hỏi với ta. Nhưng nay ông có vẻ bận rộn, đang vui vẻ với
các tôi tớ, học thức dậy từ sáng sớm và nấu nướng rất nhiều món. Họ đang làm
tiệc cưới chăng? Hay đang sửa soạn một cuộc tế lễ lớn lao gì đây, hay sáng mai
họ mời vua Tần-bà-sa-la (Seniya Bimbisara) của nước Magadha, cùng với đoàn tùy
tùng của vua?" Rồi ông hỏi vị gia chủ. Vị này đáp
"Không có tiệc cưới, cũng
không phải mời vua Seniya Bimbisara và đoàn tùy tùng. Nhưng tôi đang sửa soạn
một cuộc lễ lớn để cúng dường chúng tì khưu và Phật"
"Ông nói đức Phật phải
không?"
"Đúng thế, tôi nói đức Phật."
Ba lần hỏi, và ba lần trả lời
như vậy. Anathapindika muốn gặp đức Phật. Vị gia chủ nói:
"Không phải hôm nay, mà sáng
mai."
Rồi Anathapindika tâm niệm
đức Phật đến độ ông thức dậy ba lần trong đêm vì tưởng rằng trời tản sáng. Khi
ông tới cổng thành để đi đến động Thanh lương, có hàng phi nhân mở cho. Nhưng
khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng biến mất và bóng tối hiện ra, thế rồi trong
lòng ông nổi lên mối kinh sợ, hãi hùng, khiến ông muốn quay trở lại. Nhưng thần
dạ xoa (yakkha) tên là Sivaka, vị thần vô hình, thốt lên lời này:
"Một trăm voi, ngựa hay xe
với những con la cái,
Một trăm nghìn thiếu nữ
trang sức những hoa tai,
Thảy không bằng phần mười
sáu của một bước dài.
Này trưởng giả, hãy bước
tới, hãy bước tới.
Hãy nên bước tới, đừng thối
lui."
Tức thì, bóng tối biến mất,
ánh sáng hiện ra, và nỗi kinh sợ hãi hùng của Anathapindika cũng tiêu tan.
Rồi ông đi tới động Thanh
lương và khi đức Thế tôn đang đi lên đi xuống trong hư không, ngài thấy ông,
liền bước xuống khỏi nơi ngài đang đi lến đi xuống, ngài gọi Anathapindika:
"Lại đây, Sudatta".
Sudatta là tên riêng của
Anathapindika. Ông nghĩ: "Đức Thế tôn gọi chính tên ta", bèn cúi đầu dưới chân
đức Thế tôn mong ngài sống an lạc. Đức Thế tôn đáp:
"Đúng vậy, bậc Tịnh hạnh đã
đạt đến Niết bàn luôn luôn sống trong an lạc. Ngài không bị nhiểm ô bởi khát ái,
không còn sợ hãi, không còn tái sinh. Đã cởi bỏ mọi ràng buộc, xa lìa tâm ái dục,
Ngài sống tịch tĩnh trong an
lạc, đã đạt được sự thanh bình của tâm trí".
Rồi đức Thế tôn giảng giải
nhiều điều cho trưởng giả Anathapindika; về Thí, về giới, về thiền; ngài cắt
nghĩa sự nguy hiểm, sự phù phiếm, sự bại hoại của những vật dục, sự ích lợi khi
trừ bỏ chúng. Khi đức Thế tôn biết rằng tâm trí của trưởng giả Anathapindika đã
thành thục, nhu nhuận, dứt khỏi những ngăn che, cao diệu, hòa duyệt, ngài mới
giảng thuyết cho ông về Pháp (Dharma) mà chư Phật đã tự mình tỏ ngộ: khổ, tập,
diệt và đạo. Và cũng như một chiếc áo sạch không có những vết đen, thì sẽ dễ
nhuộm, cũng vậy, ngay từ chỗ ngồi này, với Pháp nhãn, không nhiểm ô, đã trổi dậy
trong trưởng giả Anathapindika, rằng "Những gì có sinh tất có diệt," Rồi thì,
sau khi đã thấy Pháp, chứng Pháp, biết Pháp, thâm nhập Chánh pháp, sau khi đã
vượt lên nghi ngờ, dứt trừ sự bất định, tự mình tín thuận giáo huấn của đấng Đạo
sư, Anathapindika bạch đức Thế tôn rằng:
"Hay thay, bạch đức Thế tôn.
Cũng như một người dựng dậy những gì bị ngả xuống, vén mở những gì bị che đậy,
chỉ đường cho kẻ lạc lối, rọi đèn vào chỗ tối tăm để những ai có mắt thì có thể
thấy; cũng vậy, Chánh pháp được đức Thế tôn giảng dạy bằng nhiều thí dụ. Bạch
đức Thế tôn, nay con xin nương mình theo Thế tôn, nương mình theo Chánh pháp và
chúng tỳ kheo. Xin đức Thế tôn nhận con làm đệ tử tại gia từ đây cho đến trọn
đời. Và, bạch đức Thế tôn, xin ngài nhận thọ trai tại nhà con vào sáng mai cùng
với Chúng Tì khưu." Đức Thế tôn nhận lời im lặng.
Sau đó, Anathapindika mua khu
rừng của Thái tử Jeta, thiết lập tinh xá để Phật dừng chân giảng pháp. Đây là
một trong những tinh xá lớn nhất và nổi tiếng trong thời đức Thích tôn tại thế,
gọi là Kỳ viên hay Kỳ hoàn (Jetavana).
Những hạng người như
Anathapindika, tâm trí đủ mở rộng để lãnh hội Chánh pháp. Nhưng chỉ đến một giới
hạn nào đó. Đời sống của họ không được coi là ở giữa lòng Chánh pháp. Thực sự,
văn học nguyên thủy phần lớn chỉ dành cho hạng người xuất gia, với lý tưởng
khước từ tuyệt đối. Vì Chánh pháp chỉ có thể thực hiện ở những nơi tịch tĩnh của
núi rừng. Nhân cách lý tưởng mà nền văn học này mô tả chính là các vị A la hán (Arhat),
là đức Như lai. Và chúng ta đã biết, đó là nhân cách của đời sống cô liêu tuyệt
đối:
Ta hành đạo không
thầy dạy dỗ
Chỉ hành đạo một
mình, không bè bạn
Tích chứa một hạnh
mà thành Phật
Tự nhiên thấu suốt
nẻo thành đạo.
Theo gương đó, ước vọng của
những người theo đạo Phật bấy giờ là:
"Như giữa lòng biển sâu không
gợn sóng, mà hoàn toàn yên lặng tịch mịch; thầy Tì khưu cũng vậy, hãy trầm lặng,
không buông lung dù ở bất cứ đâu."
Như vậy, đủ để chúng ta tóm
tắt rằng, từ nguồn suối của đời sống cá biệt vì những gì sở đắc đều cá biệt và
nội tại, cảm hứng của văn học Phật giáo nguyên thủy bộc phát:
-
Từ nhân cách với đời sống của
đức Phật;
-
Từ Chánh pháp, tức chân lý
cao cả về khổ đau của sự sống và về lẽ tịch tĩnh của Niết bàn.
Trên tất cả là
hương vị cô liêu tuyệt đối. Bởi vì, hương vị của Chánh pháp chính là hương vị cô
kiêu của sự sống.
III. CẢM HỨNG TRONG VĂN HỌC
ĐẠI THỪA
Tư tưởng Đại thừa bắt đầu
xuất hiện với nền văn học bát nhã. Nội dung của các kinh điển thuộc văn học Bát
nhã đều thuyết minh về ý nghĩa tánh Không. Tư tưởng này là triết lý hành động
của lý tưởng Bồ tát đạo.
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có
hai ý niệm quan hệ: Đại Trí và Đại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng
siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu. Đại bi hay Đại hạnh là tác dụng của Trí
tuệ siêu việt ấy trong một thế giới quan được mô tả là trùng trùng vô tận. Như
vậy, cỗ xe của Bồ tát (Bồ tát thừa) có hai bánh, Trí và Bi, cùng song song vận
chuyển (Bi Trí song vận) để đạt đến giải thoát tối thượng.
Bởi vì tác dụng của Trí tuệ
là khả năng soi thấu bản tính của hiện hữu, do đó, lấy tánh Không làm nền tảng.
Tuy nhiên, trên phương diện luận thuyết triết lý, chúng ta biết rằng tánh Không
có hai tác dụng: phá hủy và kiến thiết. Cả hai tác dụng đều qui tâm trên một
mối: tương quan hiện hữu hay lý duyên khởi. Hiện hữu do tương quan, do đó hiện
hữu không thực tính. Đây là tác dụng phá hủy. Và do không thực tính, nên hiện
hữu mới có thể có tương quan để hiện khởi. Đây là tác dụng kiến thiết.
Kinh Lăng già mô tả sự vận
dụng Đại Trí và Đại Bi của bậc giác ngộ rằng:
Thế gian ly sinh
diệt
Do như hư không hoa
Tri bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại bi tâm
Nhất thiết pháp như
huyễn
Viễn ly ư tâm thức
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại bi tâm
Viễn ly ư đoạn
thường
Thế gian hằng như
mộng
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại bi
tâm.
Hiện hữu của thế gian như hoa
đốm giữa trời, không từng có sinh khởi, không hề có hủy diệt. Tất cả các pháp
như huyễn hóa, vượt ngoài mọi tác động của tâm thức; vượt ngoài mọi ý nghĩa
thường tồn và gián đoạn, vì rằng như một giấc mộng. Do đó, trong sở đắc của Trí
tuệ chân thật, không có ý nghĩa hữu hay vô. Từ Trí tuệ không còn bị ràng buộc ở
hữu hay vô đó mà các bậc đã giác ngộ, hay những vị đang đi trên con đường tiến
đến sự giác ngộ, phát khởi tâm nguyện Đại bi.
Tri nhân pháp vô
ngã
Phiền não cập nhĩ
diệm
Thường thanh tịnh
vô tướng
Nhi hưng Đại bi
tâm.
Các ngài thấy và biết rõ rằng
mọi hiện hữu đều không có tự tánh, tự thể hay bản thể. Phiền não chướng và sở
tri chướng vốn thanh tịnh, vô tướng. Từ bi kiến đó mà các ngài khởi lên tâm
nguyện Đại bi.
Nhất thiết vô Niết
bàn
Vô hữu Niết bàn
Phật
Vô hữu Phật Niết
bàn
Viễn ly giác sở
giác
Nhược hữu nhược vô
hữu
Thị nhị tất câu ly.
Hoàn toàn không có cái gì
mệnh danh là Niết bàn. Không có một vị Phật nào chứng nhập Niết bàn, cũng không
có Niết bàn mà Phật chứng nhập. Vượt ra ngoài nhân cách giác ngộ và chân lý được
giác ngộ. Hữu hay vô hữu, cả hai đều bị vượt qua.
Nói cách khác, trong lý tưởng
hành động, trước tiên Bồ tát phải quan sát để thể chứng tánh Không. Tức là, sự
xuất hiện của thế gian như hoa đốm giữa trời, bản chất của nó không bị ràng buộc
bởi ý nghĩa xuất hiện hay biến mất. Từ sở chứng đó, Trí tuệ không bị ràng buộc
giữa hữu hay vô, và chính nơi đây là cứ điểm để Bồ tát thể hiện tâm nguyện Đại
bi của mình. Nếu vậy, phải chăng Bồ tát hành đạo giữa thế giới của hư vô, của
mộng tưởng? Thế giới này là hư vô, và mộng tưởng, hầu như là một nhãn quan không
thể chối cãi, vì đấy là hình ảnh bàng bạc trong các tác phẩm Đại thừa, Kinh Kim
cang nói:
Nhất thiết hữu vi
pháp
Như mộng, huyễn,
bào, ảnh,
Như lộ, diệc như
điện
Ứng tác như thị
quán.
Tất cả mọi hiện hữu do tương
quan đều y như là mộng, huyễn, bọt nước, bóng trong sương; như sương mai, như
điện chớp.
Làm thế nào để thể hiện tâm
nguyện Đại bi trong cái thế giới dẫy đầy tính cách mộng tưởng, không hư như vậy?
Nạn vấn này không thể không biết tới. Lối diễn tả trong các kinh điển Bát nhã
không nói theo thông lệ. Do đó, sơ khởi, người ta chấp nhận mọi mâu thuẫn nội
tại như là lý lẽ đương nhiên. Thí dụ, sinh tức vô sinh, vân vân. Lý luận của
tánh Không ban đầu còn theo thông lệ, nhưng đến một lúc, nó trở thành cực đoan
không thể tả. Nghĩa là, trước hết, người ta còn có thể vay mượn những gì đã được
chứng kiến trong kinh nghiệm thông tục để diễn tả: như ráng nắng, như mộng tưởng,
như sao xẹt, như hoa đốm giữa trời... đến kỳ cùng, là Pháp nhĩ như thi: Như vậy
là như vậy. Một trong danh hiệu của Phật, Như lai, vốn chỉ cho ý nghĩa này. Luận
Đại trí độ nói: "Như pháp tướng mà hiểu. Như pháp tướng mà giảng thuyết. Như con
đường an ổn của chư Phật mà đến... nên gọi là Như lai." Nói gọn hơn, Như lai tức
là đến như vậy và đi như vậy. Đây mới thiệt là lý tưởng hành động của Bồ tát đạo.
Công nghiệp đó sẽ được mô tả như là những dấu chân của con chim trong bầu trời.
Bồ tát đến với thế gian cũng vậy. Tất cả mọi công trình đã từng thực hiện và đã
để lại cho thế gian chẳng khác nào như sự tích lũy của bao nhiêu dấu chân của
cánh chim bay giữa bầu trời. Lối diễn tả này quả thực mang một khí vị văn chương
đặc biệt. Theo thuật ngữ, hành động này được mệnh danh là Vô công dụng hạnh:
hành động không cần dụng công, ví như hư không. Đây là ý nghĩa: "Như pháp tướng
mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết".
Ý nghĩa sáng tác (văn học)
của Đại thừa cũng theo đó. Kinh Bát nhã nói: "Các đệ tử của Phật làm gì có
chuyện giảng thuyết. Tất cả đều do năng lực của Phật. Bởi vì họ y theo những gì
Phật đã dạy mà học tập, nhờ đó mà chứng được các pháp tướng. Sau khi đã chứng,
tất cả những gì được họ nói ra đều không trái với pháp tướng. Vì chính năng lực
của pháp tướng vậy." Đại ý đoạn kinh này nói là sự giảng thuyết của đệ tử Phật
không phải do họ muốn bày tỏ một quan điểm nào đó của mình, nhưng đấy là sự bộc
phát tự nhiên của những gì mà họ đã chứng đắc.
Bình thường mà nói, đây há
không phải là lý tưởng sáng tác của bất cứ một tác giả nào, kể riêng gì các nhà
Đại thừa? Một tác phẩm văn học phải xuất hiện từ nguồn cảm hứng chân thành và
bộc phát tự nhiên.
Trên đây, chúng ta lấy Tánh
Không làm khởi điểm của cảm hứng văn học trong Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên,
cảm hứng này phần lớn đi vào đường hướng minh giải triết lý, hơn là cảm thức văn
chương. Rồi từ nền tảng tánh Không ấy mà mở tầm mắt vào thế giới trùng trùng vô
tận, đây mới thật là phong cách văn chương, theo nghĩa thông tục của chữ này.
Trong bất cứ nền văn học nào
của Phật giáo, chúng ta có thể thấy rằng, dù khởi sự từ đâu, tất cả mọi nguồn
cảm hứng đều qui về nhân cách và đời sống của đức Phật. Đây là điều mà chúng ta
không thể quên, khi bước vào thế giới văn học Phật giáo. Nếu ở nguyên thủy, nhân
cách của Thích tôn là hình ảnh của một con người, thì tất cả cảm hứng văn học
đều khơi nguồn từ lẽ vô thường, từ tính chất mong manh của cuộc sống. Còn ở Đại
thừa, đức Phật là một nhân cách siêu việt, do đó cảm hứng văn học cũng được khơi
nguồn từ thế giới siêu việt. Tất cả tùy thuộc quan niệm về Phật thân.
Có hai quan niệm chủ yếu về Phật thân: Sanh
thân và Pháp thân. Sanh thân chỉ cho thân thể thụ bẩm của cha mẹ. Pháp thân vốn
là hiện thân của chân lý. Nơi nguyên thủy, hay cả Tiểu thừa, Pháp bao gồm lý Tứ
đế và Niết Bàn. Đích thực, đây là Pháp duyên khởi. Pháp duyên khởi này được đức
Phật giảng dạy để đưa đến chỗ chứng nghiệm về những chân lý cao cả của Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, cuối cùng là đạt đến giải thoát và Niết bàn. Các nhà Đại thừa sau này
mang đến cho Pháp duyên khởi nhiều giải thích mới mẻ. Đặc biệt là triết học về
tánh Không của Long Thọ (Nàgàrjuna). Đại khái, nguyên thủy, pháp Duyên khởi có
nhiệm vụ giải thích nguồn gốc của sự khổ, để bộc lộ những đặc tính vô thường và
vô ngã của sự sống, và từ đó quyết định đường hướng diệt khổ. Nhưng các nhà Đại
thừa y cứ trên pháp Duyên khởi để chứng tỏ rằng tự tính của vạn hữu là Không.
Tức là, do duyên khởi nên không tự tính. Như vậy, sơ bộ, pháp Duyên khởi chứng
tỏ rằng tất cả hiện hữu – nhất thiết pháp – đều là giả ảo, không có bản tính
chân thực. Rồi kỳ cùng, không có sự thực nào ngoài giả ảo đó. Do kết quả này,
các nhà Đại thừa quả quyết rằng những gì đức Phật nói thảy là chân lý ước lệ,
tạm bợ, bởi vì chân lý cứu cánh siêu việt tri kiến và siêu việt ngôn thuyết.
Điều đó bắt buộc chúng ta không thể quên thắc mắc này: với danh hiệu Như lai, mà
Đại thừa giải thích rằng Pháp Như vậy thì Phật giảng thuyết Như vậy, tại sao sự
thực lại không được bao hàm ngay trong tính cách Như vậy đó? Chúng ta có thể tìm
thấy một vài giải thích, trực tiếp trong các kinh điển Đại thừa. Thứ nhất, kinh
Pháp hoa tuyên bố: "Bản tính của các pháp là vắng bặt mọi dấu vết của tri kiến
và ngôn thuyết. Nhưng chính do phương tiện, phát xuất từ Đại bi tâm vô lượng mà
đức Phật giảng thuyết những pháp gọi là chân lý cao cả như Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Kỳ thực, chân lý cứu cánh không nằm ở trong đó". Kinh Bát nhã (tiểu phẩm), quyết
liệt hơn: Dù có Pháp nào cao cả hơn Niết bàn cũng là Không nốt. Đây là nói về
mối tương quan giữa những gì được nói và những gì không thể nói. Tăng Duệ, trong
bài tựa viết cho bản dịch Trung quán luận (tác phẩm của Long Thọ), giải thích ý
nghĩa tương quan này: "Thật phi danh bất ngộ, cố ký Trung dĩ tuyên chi. Ngôn phi
thích bất tận cố giả luận dĩ minh chi, kỳ thật ký tuyên, kỳ ngôn ký minh, ư Bồ
tát tọa đạo tràng chi chiếu lãng nhiên huyền giải hỉ". Theo đó, Thật hay Thật
tướng, chân lý cứu cánh, nếu không có Ngôn thuyết thì không thể có con đường dẫn
đến tỏ ngộ. Do đó, mới tựa vào con đường giữa để công bố. Con đường giữa tức là
con đường không bị ràng buộc bởi những siêu việt và nội tại, giữa khả thuyết và
bất khả thuyết. Đó chính là con đường im lặng trong nói năng và nói năng trong
im lặng. Và rồi, như vậy, ngôn thuyết phải cần được minh giải để có thể lãnh hội
thấu đáo. Do đó, mượn hình thức một tác phẩm luận thuyết để tỏ bày. Sau cùng,
một khi sự Thật đã được công bố nơi Ngôn thuyết, và Ngôn thuyết đã được tỏ bày
thấu đáo trong cõi miền trầm lặng, thì bấy giờ, trong giây phút chứng ngộ tuyệt
đối, Bồ tát soi tỏ thấu suốt tất cả tương quan giữa Danh và Thật.
Giải
thích trên có thể biện
hộ cho công trình của
một tác
giả Phật
học. Biết
rằng những
gì mình nói đến
không liên hệ đến
sự Thật
tuyệt đối,
dù vậy,
vẫn có
thể nói và không trái ngược
với sự
thật.
Nghĩa là,
mọi tác
giả đều
có khả năng
nói láo, nhưng
trong cái láo đó lại
có thể phản
ảnh cái
Thật.
Không có giới
hạn phân
biệt giữa
cái Thật
và cái Láo.
Từ quan niệm vừa kể, chúng ta có một hệ luận vô cùng quan
trọng để thấy phong độ các tác giả Đại thừa. Ngôn ngữ không phải là chân lý
tuyệt đối, nhưng cũng chính ngôn ngữ vốn là biểu tượng của chân lý tuyệt đối.
Nếu vậy, không chỉ riêng ngôn ngữ, mà bất cứ một sự thể nào cũng là biểu tượng
của chân lý tuyệt đối. Tức là, theo một khẩu quyết của Đại thừa: sinh tử tức
niết bàn. Theo hệ luận này, chúng ta sẽ bắt gặp trong các tác phẩm Đại thừa hai
phong cách diễn đạt. Hoặc bằng ngôn ngữ, hoặc bằng ảnh tượng. Và chúng ta được
gán cho hai lối thuyết pháp của Phật. Hoặc thuyết trong khi ngài nhập định. Hoặc
thuyết trong khi ngài ra khỏi thiền định. Khi nhập định, ánh sáng từ thân thể
đức Phật tỏa ra. Ngang qua ánh sáng này, những bậc thượng trí trực ngộ ngay pháp
sâu xa mà Phật muốn giảng thuyết. Khi ra khỏi cơn thiền định, ngài sẽ dùng ngôn
ngữ, với lời lẽ khúc chiết, với thí dụ điển hình, với âm thanh dịu ngọt, Phật sẽ
phân trần, giải thuyết những gì cần phải nghe, phải hiểu cho hạng người căn tính
thấp hơn.
Hai cách thuyết pháp phù hợp với quan niệm về Phật. Ứng
thân (một danh hiệu khác của sanh thân) xuất hiện giữa thế gian, chịu theo mọi
qui ước của thế gian, nên sự thuyết pháp phải chọn con đường ngôn ngữ: phải nói
theo thứ tự khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối, vân vân. Pháp thân, vốn là bản
thân của chân lý siêu việt, do đó sự giảng thuyết cũng siêu việt. Bởi vì chân lý
siêu việt là thực tại toàn diện, nên người nói và người nghe cũng tương ứng
trong toàn diện. Ở đây, Pháp không được bộc lộ theo một tình tự có qui ước, mà
là đốn khởi, hay trực khởi toàn diện. Do đó, chúng ta thường bắt gặp những diễn
tả điển hình như: trên đầu mỗi sợi lông của đức Phật, khi ngài nhập chánh định,
xuất hiện tất cả mười phương thế giới, không chỉ những thế giới đang hiện hữu,
mà cả trong quá khứ và vị lai. Nghĩa là, tất cả mọi thế giới trong thời gian vô
cùng và không gian vô tận. Rồi mỗi thế giới, của vô số thế giới như cát sông
Hằng này, trong mỗi thế giới đều có đức Phật đang ngồi nhập Chánh định, và trên
đầu mỗi sợi lông đó lại cũng xuất hiện tất cả muời phương thế giới trong quá khứ,
hiện tại, vị lai. Đó là cái toàn diện cực đại bao la hiện diện ngay trong cái cá
biệt vi tiểu cực hạn: Một là Tất cả và Tất cả là Một. Sự diễn tả này là trọng
tâm của Pháp giới duyên khởi.
Trong tư tưởng Đại thừa, có hai quan niệm đặc trưng về
duyên khởi. Quan niệm thứ nhất, y theo duyên khởi để đạt đến Pháp Không, thể
hiện khả năng siêu việt hữu vô đối đãi, như đã thấy. Quan niệm khác, y trên pháp
duyên khởi để chứng nhập thế giới tương giao trong trùng trùng vô tận, tức là
Pháp giới duyên khởi. Ở đây, cũng giải thích về tương quan hiện hữu. Nhưng mỗi
hiện hữu được quan niệm là một thực tại toàn diện - vì sinh tử tức Niết bàn - do
đó, mối tương quan hiện hữu cũng toàn diện. Thí dụ, tương quan giữa hai tấm kính
đối diện. Một mặt kính không phải chỉ duy là một mặt kính; nó bao hàm tất cả
những gì không phải nó nhưng có quan hệ với nó. Như vậy, hai mặt kính phản chiếu
nhau không chỉ là hai, mà là Tất cả, và Tất cả. Danh từ Pháp giới muốn nói rằng
tất cả giới hạn vô biên và toàn diện của sự thực đều ở ngay nơi sự thực cá biệt
đó. Vậy, Pháp tức là Pháp giới, và như vậy, Pháp thân tức là Pháp giới thân.
Phật giáo Mật tông gọi Pháp thân hay Pháp với Thân là pháp
giới thể tánh trí và biểu tượng là Mặt trời: Đại nhật như lai. Ánh sáng mặt trời
vốn bình đẳng và phổ biến. Pháp thân cũng vậy. Chỉ cần có mắt là có thể thấy. Hễ
thấy được mặt trời là thấy được tất cả vạn vật. Các Thiền sư thường nói:
Thanh thanh túy túc
Tận thị Pháp thân
Uất uất hoàng hoa
Vô phi Bát nhã.
Trúc biếc xanh xanh, đâu cũng là pháp thân. Hoa vàng rậm
rạp, đâu cũng là Bát nhã. Như vậy, lý tưởng của các nhà Đại thừa là không chỉ
học hỏi Chánh Pháp từ kinh điển. Họ học bất cứ ở đâu, từ những sự thể vụn vặt
trong cuộc sống hằng ngày. Để có thể được như vậy, phải trải qua những thời đào
luyện tâm linh, sao cho tâm trí sẵn sàng mở rộng để đón nhận những chân lý cao
cả được giảng thuyết nơi từng hạt bụi. Họ nói: Phá vi trần xuất kinh quyển. Chẻ
hai hạt bụi ra thì sẽ thấy kho tàng bất tận của chân lý. Tâm hồn của chúng ta có
thể chỉ là đá cuội, nhưng phải đào luyện nó cho đến khi một ngọn gió nhẹ thoảng
qua, như một bài thuyết pháp bất tận, là đá cuội ấy gật đầu. Rồi sau đó, đến
lượt ta: gia lai thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu, đến lượt ta khi ta lên tiếng
thì (những) đá cuội (khác) cũng gật đầu đáp lại. Đây mới chính là lý tưởng của
văn học Đại thừa. Nó có thể là không tưởng, nhưng chỉ với một khát vọng bao la
như vậy cũng đủ lần hồi trải rộng tấm lòng của chúng ta khắp cả đại thiên thế
giới. Kinh Phổ hiền Hạnh nguyện nhắc nhở lý tưởng ấy rằng: "Hư không hữu tận,
ngã nguyện vô cùng". Hư không còn có thể có chỗ tận cùng, nhưng tâm nguyện (Đại
bi) của ta thì không bao giờ có thể cùng tận.
Nếu chúng ta không hay biết tí gì về tâm nguyện đại bi ấy
mà mong bước vào thế giới văn học Đại thừa, đây mới thật là một không tưởng trên
mọi không tưởng. Không tưởng này được bộc lộ quá lộ liễu và thô thiển khi nguời
ta đánh giá một tác phẩm Đại thừa qua cái gọi là sự khám phá về những thế giới
bên ngoài thế giới này, Thế giới vô cùng, vô tận, mà các tác phẩm Đại thừa
thường mô tả, có thực như vậy hay không chẳng có gì quan hệ phải bận tâm. Nếu
tâm trí của chúng ta không mở rộng kịp với thế giới vô tận được mô tả ấy, thì dù
đó có là sự thực, cũng chỉ là sự thực của bóng vẽ. Nghĩa là, nói tóm lại, hương
vị của Chánh pháp vẫn là hương vị cô liêu của sự sống. Và đây mới đích thực là
tinh chất của toàn thể văn học Phật giáo, bao trùm tất cả mọi khuynh hướng, mọi
tông phái của nó.
TUỆ SỸ