CHƯƠNG
VII
SẮC
PHÁP VÀ TIỀN LỤC THỨC
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI LĂM
Y chỉ
căn bản thức
Ngũ
thức tùy duyên hiện
Hoặc
câu hoặc bất câu
Như
đào ba y thủy.
Dịch
là:
Nương
nơi thức căn bản
Năm
thức hiện theo duyên
Hoặc
cùng hoặc chẳng cùng
Như
sóng nương nơi nước.
Căn
bản thức tức là thức A lại da được ví như mảnh đất
chứa đựng tất cả mọi loại hạt giống, trong đó gồm
có cả hạt giống của các thức khác. Không có pháp nào hiện
khởi được nếu không có hạt giống chủng tử gieo trồng
nơi mảnh đất A lại da thức. Sở dĩ có ngũ thức là vì
trong A lại da thức có các hạt giống thấy, nghe, ngửi, nếm
và xúc giác. Các hạt giống này khi đủ duyên thì chín mùi
chuyển hiện ra ngũ căn và ngũ thức.
Thân
người là chánh báo, cảnh giới bên ngoài là y báo. Y báo
và chánh báo là những pháp có thể hình dung ra và cảm thấy
được nên được xếp vào các loại pháp có sắc tướng
gọi là Sắc Pháp. Sắc pháp bao gồm cả hình tướng, mầu
sắc, âm thanh, hương, vị và cảm giác. Sắc pháp có 11 món
gồm 5 căn và 6 trần.
Năm
căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân căn. Sáu trần là: Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Nhãn
căn sanh ra là do hai thứ sáng tối đối đãi với nhau mà phát
sinh ra cái thấy. Cái thấy muốn thấy được là phải nương
vào bộ phận hay cơ quan nào đó có khả năng tiếp nhận cảnh
giới bên ngoài. Do đó mà chủng tử con mắt được cấu kết
lại trong A lại da thức mà chuyển hiện ra con mắt. Con mắt
này do tứ đại thanh tịnh gồm đất, nước, gió và lửa
làm thành. Tứ đại thanh tịnh được cái thấy huân tập,
kết cấu lại làm thành con mắt này có hình như trái bồ
đào.
Sở
dĩ nói tứ đại thanh tịnh vì tứ đại này không thô thiển
như đất, nước, gió và lửa mà ta thường nhận biết. Tứ
đại này là tứ đại nhu nhuyễn, đã cấu tạo nên căn thân
chánh báo này.
Tương
tự như vậy, nhĩ căn được kết cấu lại do sự động và
tĩnh đối đãi với nhau mà phát sinh cái nghe. Cái nghe này
chuyển hiện thành sắc tướng. Sắc tướng này do tứ đại
thanh tịnh được huân tập, cuộn lại thành cái tai có hình
như lá sen non.
Tương
tự như vậy, cái ngửi phát sinh do sự thông bít đối đãi
nhau mà chuyển hiện thành cái mũi tức tỷ căn, có hình như
hai ngón tay rũ xuống.
Cũng
vậy, hai thứ nhạt và có vị đối đãi nhau mà phát sinh cái
nếm, rồi chuyển hiện thành cái lưỡi tức thiệt căn, hình
thể như mặt trăng mới khuyết.
Hai
thứ ly và hợp đối đãi nhau mà phát sinh cái xúc chạm rồi
chuyển hiện thành sắc tướng của thân căn, có hình như
trống cơm.
Tất
cả ngũ căn đó nguồn gốc đều do tứ đại thanh tịnh cấu
kết và hiện ra bên ngoài nên gọi là Phù trần căn. Các căn
phù trần này luôn luôn rong ruổi chạy theo Sắc, Thanh, Hương,
Vị và Xúc rồi đưa các dữ kiện nhận được lên bộ óc
qua trung gian các giây thần kinh. Bộ óc và các giây thần kinh
đó gọi là tịnh sắc căn vì chúng nằm ẩn trong thân.
Nếu
chỉ đơn độc các căn làm việc riêng rẽ thì các cảnh giới
ghi nhận chỉ đơn thuần là những cảm nhận thôi chứ không
thể biết chúng là gì, hình ảnh mầu sắc ra sao; các tiếng
động phát ra như thế nào, dễ chịu hay không dễ chịu; hương
vị ra sao, thơm hay thối, ngọt bùi hay cay đắng; hình dáng
ra sao, lớn hay nhỏ, vuông hay tròn, cứng hay mềm, trơn láng
hay sần sùi.
Mắt
chỉ thấy các hình ảnh, mầu sắc thay đổi mà không biết
đó là mầu xanh của mặt hồ phẳng lặng, là chuyển động
của những làn sóng bạc đầu, là những ngọn núi nhọn cao
vút hay là những cánh đồng thấp hoang vắng, là những mái
chùa cong đỏ hay là những nóc nhà bằng phẳng xám xịt của
khu phố chợ, là thành Càn Thát Bà xa mờ ngoài biển khơi
hay là ánh dương diệm nơi sa mạc nóng cháy.
Tai
chỉ phân biệt có tiếng động hay không có tiếng động mà
không biết đó là tiếng kèn hay tiếng trống, tiếng gõ mõ
tụng kinh hay tiếng lên đồng lên bóng, tiếng thuyết pháp
của bậc thiện tri thức hay là lời phỉnh gạt của tà ma
ngoại đạo, tiếng chuông chùa ban mai hay tiếng gà gáy buổi
sáng, tiếng sóng biển ì ầm hay tiếng vọng về từ rừng
sâu núi thẳm, tiếng nổ của bom đạn pháo kích trong thời
chiến tranh hay là tiếng sấm chớp vang rền trên trời.
Mũi
chỉ phân biệt có mùi hay không có mùi chứ không biết đó
là mùi thơm dịu của hoa sen hay mùi hôi sình của bùn lầy,
là mùi thanh tịnh của trầm hương hay mùi ô uế của rác
rến, mùi thơm của phấn hoa hay mùi hôi của hành tỏi, mùi
khét của củi cháy hay mùi ô nhiễm của dầu xe.
Lưỡi
chỉ phân biệt có vị hay không có vị chứ không biết đó
là vị ngọt của đường phèn hay vị đắng của thuốc, là
vị ngon của đề hồ hay vị nhạt nhẽo của cơm dư cháo
thừa.
Thân
chỉ biết có đụng chạm hay không có đụng chạm chứ không
phân biệt được đó là sự mềm mại của nhung lụa hay là
sự ve vuốt của đôi bàn tay dịu dàng, không biết đó là
cái trơn của mặt gỗ bóng láng hay là cái nhám của những
tảng đá sần sùi, không biết cái nóng là do mặt trời hay
do bếp lửa, không biết được cảm giác đói khát là do lâu
ngày không ăn uống hay là sự thèm khát khi thấy những vật
ngon của lạ.
Sở
dĩ biết được các đối tượng trần cảnh Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc là vì có các dây thần kinh chuyển những dữ kiện
nhận được từ phù trần căn ở bên ngoài vào trung tâm thần
kinh dọc theo đường xương sống dẫn vào não bộ tịnh sắc
căn bên trong, rồi tác động lên các thức tương ưng như
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức.
Ý
thức lấy các dữ kiện của ngũ thức phối hợp lại rồi
so sánh với các dữ kiện trong A lại da thức do Mạt na thức
chuyển ra mà biết được toàn thể tánh chất của đối tượng
nhận thức là gì. Đối tượng nhận thức này gọi là pháp
trần.
Khi
mà các đối tượng trần cảnh không còn đối diện Ngũ căn
nữa mà Ý thức nhớ lại được hình ảnh đã nhận thức
thì hình ảnh này được gọi là lạc tạ ảnh tử tức là
cái bóng bị rớt lại mà Duy thức xếp loại là độc ảnh
cảnh, cảnh duy nhất chỉ còn ghi lại trong trí nhớ.
Các
hình ảnh hiện ra sai khác khi tâm thức bị tán loạn do sự
hốt hoảng hay quá sợ hãi hoặc quá mong cầu như hình ảnh
sóng nắng mà tưởng là ao hồ, sợi dây gai tưởng là con
rắn được gọi là Độc Ảnh Cảnh vì là hình ảnh tưởng
tượng trong tâm thức mà lầm nhận là đối tượng trần
cảnh ở ngoài.
Các
hình ảnh thật nhỏ nhiệm như vi trần được gọi là cực
lược sắc, xa xôi mờ mờ ảo ảo được gọi là cực hánh
sắc.
Ngoài
ra còn có định quả sắc và vô biểu sắc.
Định
quả sắc là hình ảnh hiện ra trong khi thiền định tỷ như
ngài Nguyệt Quang đồng tử quán nước trong kinh Lăng Nghiêm.
Ngài quán tánh nước trong thân không ngăn ngại lẫn nhau, từ
nước bọt cho đến tất cả các thứ tân dịch như tinh huyết,
đại tiện, tiểu tiện, xoay vần trong thân đều là tánh nước.
Quán thấy các nước trong thân và trong các Hương Hải Thủy
đều bình đẳng như nhau không sai khác. Ngài quán đến nỗi
một đệ tử ở ngoài cửa sổ nhìn vào chỉ thấy đầy nước
ở trong thất. Đệ tử này còn nhỏ dại không biết gì bèn
lấy một miếng ngói thẩy vào cho phát ra tiếng. Sau khi xuất
định ngài Nguyệt Quang thấy đau nhói trong tâm. Ta hãy nghe
ngài kể sự việc tiếp sau đó cho đức Thế Tôn: Con tự
suy nghĩ nay mình đã được đạo A La Hán, từ lâu không còn
nhân duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày hôm nay lại
thấy đau trong tâm, không lẽ bị thối thất chăng. Khi ấy
đệ tử của con đi đến kể lại cho con những việc như
trước, con bảo nó sau này nếu thấy nước thì nên mở cửa
vào phòng lấy miếng ngói trong nước ấy đi. Đệ tử vâng
lời con bảo. Sau khi con nhập định, nó lại thấy nước và
miếng ngói rõ ràng, nó liền mở cửa lấy miếng ngói bỏ
ra ngoài. Sau khi xuất định thân thể con được trở lại
như cũ.
Vô
biểu sắc là một thứ sắc thể không biểu hiện ra ngoài
của giới thể có công năng bảo vệ cho các tu sĩ khi đã
thọ giới, phòng ngừa sự sai trái của thân và khẩu. Người
thọ giới phát nguyện từ nay về sau quyết không phạm các
điều tội ác, từ đó niệm niệm lúc nào cũng đều ngăn
chặn không cho phạm tội ác ví như bờ đê ngăn chặn không
cho nước tràn vào ruộng vườn.
Năm
thức này dù nương theo A lại da thức nhưng không phải lúc
nào cũng hiện khởi được. Muốn hiện khởi phải hội đủ
các yếu tố nhân duyên, nên bài tụng nói Ngũ thức tùy duyên
hiện.
Nhãn
thức muốn hiện khởi là phải hội đủ 9 duyên. Đầu tiên
phải có mắt tức nhãn căn, phải có cảnh để nhìn, cảnh
muốn được mắt nhìn thấy thì phải có khoảng cách tức
hư không, phải có ánh sáng và sự tác ý. Ngoài ra phải có
ý thức để phân biệt đó là cảnh gì, xấu hay đẹp, mầu
sắc ra sao. Nhãn thức phải nương vào Nhãn căn là sự chuyển
hiện dị thục của chủng tử thấy đã được huân tập
chín mùi nơi a lại da thức và mạt na thức.
Tóm
lại nhãn thức muốn được hiện khởi là phải có đủ 9
Duyên là: Căn, Cảnh, Hư không, Ánh sáng, Tác Ý, Phân biệt
ý tức Ý thức, Nhiễm ô ý tức Mạt na thức, Căn bản ý
tức A lại da thức và Chủng tử.
Nhĩ
thức phải hội đủ 8 Duyên vì không cần Ánh sáng.
Ba
thức Tỷ, thiệt và thân thức chỉ cần 7 Duyên vì không
cần 2 duyên Hư không và Ánh sáng.
Ý
thức chỉ cần 5 Duyên: Căn tức Mạt na thức, Cảnh, Tác Ý,
Căn bản ý tức là A lại da thức và Chủng tử vì không cần
2 duyên là Hư không và Ánh sáng. Sở dĩ bỏ 2 duyên mà còn
5 duyên vì Ý thức tự nó là Phân biệt ý rồi nên không tính,
Mạt na thức là căn của Ý thức nên cũng không tính. 9 duyên
mà không tính 4 duyên hư không, ánh sáng, mạt na thức và phân
biệt thức thì còn lại 5 duyên.
Mạt
na thức cần có 3 Duyên là A lại da thức, Tác ý và Chủng
tử. Ở đây A lại da thức vừa là Căn vừa là Cảnh của
Mạt na thức vì Mạt na thức luôn nương nơi A lại da thức
và lấy A lại da thức làm cảnh đối tượng sở duyên, mạt
na thức không cần ý thức vẫn hiện khởi được vì nó là
căn của ý thức.
A lại
da thức thì luôn hiện khởi.
Trong
tám thức trên, A lại da thức và Mạt na thức thường hiện
khởi và có khả năng dẫn dắt quả báo đời sau nên gọi
xếp loại là hằng hành. A lại da thức ví như cái kho chứa
đủ mọi hạt giống. Tất cả mọi hạt giống chủng tử
và hiện hành đều được chứa vào trong đó mà không phân
biệt là tốt hay là xấu. Tùy theo sự chiếu soi, so đo và
chấp trước của Mạt na thức mà các hạt giống đó sanh
diệt, tăng trưởng và chuyển biến. Sự chiếu soi và chấp
trước của Mạt na thức làm cho A lại da thức càng ngày càng
nhiễm ô nên mạt na thức còn được gọi là thức nhiễm
ô hằng hành.
Sáu
thức trước thì tùy theo duyên, khi thì hiện khởi, khi thì
không hiện khởi, khi thì chung, khi thì riêng nên được xếp
loại là bất hằng hành.
Trong
bài tụng bồ tát Thế Thân viết Hoặc câu hoặc bất câu
là ý muốn nói cái tánh chất bất hằng hành này, khi thì
hiện khởi, khi thì không hiện khởi, tùy theo có hội đủ
các duyên cần thiết hay không. Thức nào đòi hỏi nhiều điều
kiện duyên cần thiết để hiện khởi thì càng khó sanh khởi.
Do đó mà Tiền Ngũ thức sanh khởi thì ít và không sanh khởi
thì nhiều. Khi đủ duyên sanh khởi thì hoặc các thức này
có thể sanh khởi riêng rẽ hoặc là cùng sanh khởi, cho nên
nói hoặc cùng hoặc chẳng cùng.
Thí
dụ hằng ngày ta vẫn lái xe ngang qua một vườn hoa nhưng nếu
không để ý thì ta cũng không biết được con đường mình
hằng đi qua đó có một vườn hoa tuyệt đẹp. Chỉ cần thiếu
một duyên là Tác Ý thì nhãn thức không nhận biết được
cái vườn hoa này, mặc dù nó nằm sờ sờ ra đó. Nếu để
ý thì ta thấy quả là một vườn hoa hồng tuyệt đẹp. Và
hôm nào đẹp trời và có gió thổi hiu hiu thì ta còn ngửi
được mùi thơm của muôn hoa hòa với tiếng chim hót gần
đó. Trong thí dụ này thì có sự hiện khởi của nhãn thức
với cảnh đẹp của bầu trời và vườn hoa, có sự hiện
khởi của thân thức với cảm giác gió hiu hiu thổi, có sự
hiện khởi của tỷ thức và nhĩ thức với mùi thơm của
muôn hoa và tiếng chim hót, hẳn đã nói rõ sự hiện khởi
và không hiện khởi, sự đồng thời và không đồng thời
hiện khởi của năm chuyển thức trước.
Tất
cả những hiện khởi của năm thức nương nơi A lại da thức
cũng ví như sóng nương nơi nước, do theo duyên có gió nhiều
ít mà nổi lên ào ạt hay nhẹ nhàng nên bài tụng nói Như
đào ba y thủy.
Thức
thứ sáu tức Ý thức vì đòi hỏi ít duyên nên luôn luôn
hiện khởi trừ khi sanh ở Vô Tưởng Thiên của cõi Sắc,
khi nhập Vô Tưởng Định hay Diệt Thọ Tưởng Định, khi
ngủ say mà không mộng mị hay khi bị chết ngất. Dưới đây
là bài tụng thứ mười sáu trong Tam Thập Tụng của bồ tát
Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI SÁU
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh Vô Tưởng thiên
Cập
Vô Tâm nhị định
Thùy
miên dữ muộn tuyệt.
Dịch
là:
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh trời Vô Tưởng
Và
hai định Vô Tâm
Ngủ
say và chết ngất.
Năm
trường hợp mà Ý thức không hiện khởi là Sanh cõi trời
Vô Tưởng, nhập hai định Vô Tâm là Vô Tưởng Định và
Diệt Tận Định (hay là Diệt thọ tưởng định), Ngủ Say
không mộng mị và Chết Ngất.
Cõi
trời Vô tưởng là cõi trời ở đó mọi tư tưởng đều
đã được diệt. Người tu định lấy sự hủy diệt tư tưởng
làm chính thì sau khi chết sẽ được tái sinh lên cõi trời
Vô Tưởng thuộc Sắc Giới. Cõi trời này được đặt tên
như vậy vì ở đó các Thức Bất Hằng Hành (sáu thức trước)
đều đã đoạn do sự lấy việc diệt tưởng làm chính. Vì
thế sáu chuyển thức đều không hiện khởi ở cõi trời
Vô tưởng.
Hai
định vô tâm gồm có Vô Tưởng Định và Diệt Tận Định.
Hai định này gọi là Định Vô Tâm vì không có sự hiện
khởi của sáu thức trước.
Vô
tưởng định lấy sự diệt tưởng làm chính.
Diệt
tận định là cái định diệt được cả thọ lẫn tưởng
còn gọi là Diệt thọ tưởng định.
Ở
trong các định này thì sáu thức tâm vương và tâm sở
đều không hiện khởi.
Thùy
miên và muộn tuyệt là trạng thái ngủ say và ngất sỉu (chết
ngất) quá trầm trọng khiến sáu thức trước không còn hoạt
động được nữa. Đó là trạng thái ngủ quá mê mệt không
có một chút mộng mị gì cả mà ta thường nói ngủ say như
chết và trạng thái đau đớn hoặc bị kích động quá trầm
trọng khiến sáu thức trước không thể hoạt động phối
hợp với thân được nữa như trường hợp bị tai nạn đau
đớn quá sức, cười hoặc khóc quá độ, bị cảm sốt nặng,
vân vân,...
Cả
ba thức năng biến A Lại Da thức, Mạt Na Thức và Tiền Lục
Thức cùng các Tâm Sở của các thức đó đều là chuyển
biến của Chân Tâm. Vì vô minh chấp trước nên Chân Tâm chuyển
biến thành Tâm Thức và phân ra thành Kiến phần và Tướng
phần.
Kiến
phần là Năng phân biệt vì nó nhận ra Tướng phần. Tướng
phần là Sở phân biệt vì nó là đối tượng của Kiến phần.
Ngoài Kiến phần và Tướng phần thì không có gì hiện hữu.
Cả Kiến phần lẫn Tướng phần đều không có thật vì chỉ
là chuyển biến của Tâm thức mà thôi.
Bồ
tát Thế Thân đã diễn tả ý trên trong bài tụng thứ mười
bẩy trong Duy Thức Tam Thập Tụng:
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI BẨY
Thị
chư thức chuyển biến
Phân
biệt, sở phân biệt
Do
thử, bỉ giai vô
Cố
nhất thiết Duy Thức.
Dịch
là:
Tất
cả thức chuyển biến
Phân
biệt, bị phân biệt
Do
kia, đây đều không
Nên
tất cả Duy Thức.
Chân
Tâm bị chiếu soi chuyển biến thành Kiến phần và Tướng
phần. Các thức Tâm Vương và Tâm Sở đều là chuyển biến
của Kiến phần và Tướng phần. Các thức Tâm Vương và Tâm
Sở tiếp tục chuyển biến, cứ hết phân biệt rồi lại
bị phân biệt, trùng trùng duyên khởi mà chuyển hiện thành
Ngã và Pháp.
Tất
cả những phân biệt và bị phân biệt đó đều là không
vì đều là sự chuyển hiện nơi tâm thức. Các pháp đều
do tâm mà biến hiện ra, nhất thiết pháp duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến. Không có gì hiện hữu ngoài tâm thức
nên nói tất cả đều duy thức. Trong kinh thường nói là tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức cũng là ý nghĩa của câu
Cố nhất thiết duy thức.
Hãy
nghe Bồ tát Hạnh Lâm thừa oai đức của Phật nói kệ tại
hội Hoa Nghiêm:
Tâm
như nhà họa sư
Hay
vẽ những thế gian
Ngũ
uẩn từ tâm sanh
Không
pháp gì chẳng tạo
....................
Nếu
người muốn rõ biết
Tất
cả Phật ba đời
Phải
quán pháp giới tánh
Tất
cả Duy Tâm Tạo.
Tất
cả các pháp bao gồm thân tâm và thế giới đều từ tâm
sanh. Không gì là không do tâm tạo ra nên các pháp được ví
như những hình ảnh do nhà họa sư vẽ ra. Tất cả đều là
huyễn, đều không thật. Nếu như muốn biết tánh chân thật,
không sanh, không diệt, vượt ngoài không gian và thời gian
thì phải luôn luôn quán tất cả các pháp đều do tâm sanh.
Loài
người là biểu hiện của một loại chúng sanh có đầy đủ
muôn loại hạt giống tiềm ẩn sẵn sàng để phát triển,
có một khả năng nhận biết và có thể quyết định điều
muốn làm và không muốn làm. Con người đã biểu hiện được
cái lý Duy Thức, cái lý Nhất Thiết Pháp Duy Tâm Tạo, một
cách cụ thể.
Bởi
sự mong muốn tìm hiểu và chế ngự thiên nhiên mà con người
đã tiến bộ từ một đời sống man khai, bộ lạc đến một
đời sống khoa học tân tiến ngay nay. Với sự quyết tâm
và mong muốn, con người đã một phần chế ngự được thiên
nhiên, đã chế tạo những phương tiện chuyên chở cực kỳ
mau chóng từ nưóc này sang nước khác, từ đại lục này
sang đại lục khác. Không những thế mà con người còn chế
tạo được những vệ tinh thám hiểm không gian, đã đáp xuống
Nguyệt cầu; chế tạo được những viễn vọng kính nhìn
xa cả triệu triệu năm ánh sánh để thấy được thế giới
vũ trụ bao la với hằng tỷ tinh tú và hành tinh, thấy được
ngoài dẫy ngân hà này có dẫy ngân hà khác, ngoài vũ trụ
này có vũ trụ khác; chế tạo được những kính siêu hiển
vi để nghiên cứu những vật chất, những tế bào và những
vi khuẩn nhỏ nhiệm vi tế; phát minh ra được hệ thống điện
toán cùng mạng lưới thông tin giao lưu khiến lưu trữ được
hằng tỷ tỷ dữ kiện, liên lạc và trao đổi tin tức với
tất cả các nơi trên thế giới, giữa các vệ tinh ngoài vũ
trụ trong không đầy một tích tắc; thấy được những điểm
tương đồng cũng như những dị biệt của các chủng loài
trong các cõi nước và thế giới khác nhau; thấy được những
chuyển động muôn hình vạn trạng cực kỳ mau lẹ mà lại
chu biến lưu thông không ngăn ngại của các tinh cầu.
Quả
thật những gì Thế Tôn nói khi xưa thật khó hiểu, nay đều
đã được kiểm chứng. Chẳng hạn như Thế tôn đã nói trong
bát nước có vô lượng chúng sanh, ngày nay ta đã biết trong
bát nước có vô số vi khuẩn; Thế tôn nói tất cả tam thiên
đại thiên thế giới đều chứa trong một hạt cải thì bây
giờ với khả năng vi tính chúng ta có thể chứa cả tỷ tỷ
dữ kiện vào trong một con chip nhỏ.
Những
sự hiểu biết và phát minh vĩ đại đó chỉ do hướng ngoại
tìm cầu. Chỉ hướng ngoại tìm cầu mà đạt được những
thành quả như vậy. Thì nếu một người đủ tín tâm xoay
ngược vào tự tánh, xuyên qua năm làn mây mờ của ngũ ấm
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đi sâu vào biển tâm thức,
phá vỡ được những phiền não vô minh có từ vô thủy thì
chắc rằng sự đột biến bùng nổ sẽ dẫn tới một cảnh
giới mới vô cùng vĩ đại. Một cảnh giới mà không một
lời nói và văn tự nào có thể diễn tả được, một cảnh
giới phi thời gian và phi không gian, một cảnh giới của vô
lượng quang và vô lượng thọ bất khả tư nghì. Đó là cảnh
giới vô biên giới, vô ngằn mé và bất sanh bất diệt của
Chân Không Diệu Minh, của Chơn Tâm Thường Trú, của Bổn
Nguyên Phật Tánh, của Pháp Thân Thanh Tịnh, của Như Lai Tạng
Trang Nghiêm,v.v...
Muốn
trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nương
vào Thân Xác Thô Kệch này, là hiện tướng của vô lượng
những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại. Phải dựa
vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi,
Thân để quan sát và cảm nhận các cảnh giới Trần Cảnh
bên ngoài mà ý thức được rằng các đối tượng trần cảnh
này chỉ là cảnh không thật có, không có tự tánh, chỉ nương
nhau mà hiện hữu và không thường còn. Phải trở về với
kinh điển để học hỏi những điều thâm sâu bất khả tư
nghì của bậc Giác Ngộ Toàn Chân Toàn Giác. Thấy rõ các
cảnh giới đều do Y Tha Khởi, bởi cái này có nên cái kia
có, bởi cái này sinh nên cái kia sinh, bởi cái này không nên
cái kia không, bởi cái này diệt nên cái kia diệt. Biết được
tất cả đều nương nhau mà giả lập, không thường còn,
đều biến chuyển theo luật nhân quả và lý nhân duyên. Nhờ
hiểu biết như vậy mà tinh tấn tu trì, giữ gìn giới hạnh,
thực hành thiền quán, xa rời những Biến Kế Sở Chấp của
chấp ngã và chấp pháp, xa rời những chướng ngại của phiền
não và của tri kiến thường tình, trở về được cái Viên
Thành Thật tức là cái chân thật bất sinh bất diệt của
Bản Tánh Chân Như.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI LĂM
Y chỉ
căn bản thức
Ngũ
thức tùy duyên hiện
Hoặc
câu hoặc bất câu
Như
đào ba y thủy.
Dịch
là:
Nương
nơi thức căn bản
Năm
thức hiện theo duyên
Hoặc
cùng hoặc chẳng cùng
Như
sóng nương nơi nước.
Căn
bản thức tức là thức A lại da được ví như mảnh đất
chứa đựng tất cả mọi loại hạt giống, trong đó gồm
có cả hạt giống của các thức khác. Không có pháp nào hiện
khởi được nếu không có hạt giống chủng tử gieo trồng
nơi mảnh đất A lại da thức. Sở dĩ có ngũ thức là vì
trong A lại da thức có các hạt giống thấy, nghe, ngửi, nếm
và xúc giác. Các hạt giống này khi đủ duyên thì chín mùi
chuyển hiện ra ngũ căn và ngũ thức.
Thân
người là chánh báo, cảnh giới bên ngoài là y báo. Y báo
và chánh báo là những pháp có thể hình dung ra và cảm thấy
được nên được xếp vào các loại pháp có sắc tướng
gọi là Sắc Pháp. Sắc pháp bao gồm cả hình tướng, mầu
sắc, âm thanh, hương, vị và cảm giác. Sắc pháp có 11 món
gồm 5 căn và 6 trần.
Năm
căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân căn. Sáu trần là: Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Nhãn
căn sanh ra là do hai thứ sáng tối đối đãi với nhau mà phát
sinh ra cái thấy. Cái thấy muốn thấy được là phải nương
vào bộ phận hay cơ quan nào đó có khả năng tiếp nhận cảnh
giới bên ngoài. Do đó mà chủng tử con mắt được cấu kết
lại trong A lại da thức mà chuyển hiện ra con mắt. Con mắt
này do tứ đại thanh tịnh gồm đất, nước, gió và lửa
làm thành. Tứ đại thanh tịnh được cái thấy huân tập,
kết cấu lại làm thành con mắt này có hình như trái bồ
đào.
Sở
dĩ nói tứ đại thanh tịnh vì tứ đại này không thô thiển
như đất, nước, gió và lửa mà ta thường nhận biết. Tứ
đại này là tứ đại nhu nhuyễn, đã cấu tạo nên căn thân
chánh báo này.
Tương
tự như vậy, nhĩ căn được kết cấu lại do sự động và
tĩnh đối đãi với nhau mà phát sinh cái nghe. Cái nghe này
chuyển hiện thành sắc tướng. Sắc tướng này do tứ đại
thanh tịnh được huân tập, cuộn lại thành cái tai có hình
như lá sen non.
Tương
tự như vậy, cái ngửi phát sinh do sự thông bít đối đãi
nhau mà chuyển hiện thành cái mũi tức tỷ căn, có hình như
hai ngón tay rũ xuống.
Cũng
vậy, hai thứ nhạt và có vị đối đãi nhau mà phát sinh cái
nếm, rồi chuyển hiện thành cái lưỡi tức thiệt căn, hình
thể như mặt trăng mới khuyết.
Hai
thứ ly và hợp đối đãi nhau mà phát sinh cái xúc chạm rồi
chuyển hiện thành sắc tướng của thân căn, có hình như
trống cơm.
Tất
cả ngũ căn đó nguồn gốc đều do tứ đại thanh tịnh cấu
kết và hiện ra bên ngoài nên gọi là Phù trần căn. Các căn
phù trần này luôn luôn rong ruổi chạy theo Sắc, Thanh, Hương,
Vị và Xúc rồi đưa các dữ kiện nhận được lên bộ óc
qua trung gian các giây thần kinh. Bộ óc và các giây thần kinh
đó gọi là tịnh sắc căn vì chúng nằm ẩn trong thân.
Nếu
chỉ đơn độc các căn làm việc riêng rẽ thì các cảnh giới
ghi nhận chỉ đơn thuần là những cảm nhận thôi chứ không
thể biết chúng là gì, hình ảnh mầu sắc ra sao; các tiếng
động phát ra như thế nào, dễ chịu hay không dễ chịu; hương
vị ra sao, thơm hay thối, ngọt bùi hay cay đắng; hình dáng
ra sao, lớn hay nhỏ, vuông hay tròn, cứng hay mềm, trơn láng
hay sần sùi.
Mắt
chỉ thấy các hình ảnh, mầu sắc thay đổi mà không biết
đó là mầu xanh của mặt hồ phẳng lặng, là chuyển động
của những làn sóng bạc đầu, là những ngọn núi nhọn cao
vút hay là những cánh đồng thấp hoang vắng, là những mái
chùa cong đỏ hay là những nóc nhà bằng phẳng xám xịt của
khu phố chợ, là thành Càn Thát Bà xa mờ ngoài biển khơi
hay là ánh dương diệm nơi sa mạc nóng cháy.
Tai
chỉ phân biệt có tiếng động hay không có tiếng động mà
không biết đó là tiếng kèn hay tiếng trống, tiếng gõ mõ
tụng kinh hay tiếng lên đồng lên bóng, tiếng thuyết pháp
của bậc thiện tri thức hay là lời phỉnh gạt của tà ma
ngoại đạo, tiếng chuông chùa ban mai hay tiếng gà gáy buổi
sáng, tiếng sóng biển ì ầm hay tiếng vọng về từ rừng
sâu núi thẳm, tiếng nổ của bom đạn pháo kích trong thời
chiến tranh hay là tiếng sấm chớp vang rền trên trời.
Mũi
chỉ phân biệt có mùi hay không có mùi chứ không biết đó
là mùi thơm dịu của hoa sen hay mùi hôi sình của bùn lầy,
là mùi thanh tịnh của trầm hương hay mùi ô uế của rác
rến, mùi thơm của phấn hoa hay mùi hôi của hành tỏi, mùi
khét của củi cháy hay mùi ô nhiễm của dầu xe.
Lưỡi
chỉ phân biệt có vị hay không có vị chứ không biết đó
là vị ngọt của đường phèn hay vị đắng của thuốc, là
vị ngon của đề hồ hay vị nhạt nhẽo của cơm dư cháo
thừa.
Thân
chỉ biết có đụng chạm hay không có đụng chạm chứ không
phân biệt được đó là sự mềm mại của nhung lụa hay là
sự ve vuốt của đôi bàn tay dịu dàng, không biết đó là
cái trơn của mặt gỗ bóng láng hay là cái nhám của những
tảng đá sần sùi, không biết cái nóng là do mặt trời hay
do bếp lửa, không biết được cảm giác đói khát là do lâu
ngày không ăn uống hay là sự thèm khát khi thấy những vật
ngon của lạ.
Sở
dĩ biết được các đối tượng trần cảnh Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc là vì có các dây thần kinh chuyển những dữ kiện
nhận được từ phù trần căn ở bên ngoài vào trung tâm thần
kinh dọc theo đường xương sống dẫn vào não bộ tịnh sắc
căn bên trong, rồi tác động lên các thức tương ưng như
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức.
Ý
thức lấy các dữ kiện của ngũ thức phối hợp lại rồi
so sánh với các dữ kiện trong A lại da thức do Mạt na thức
chuyển ra mà biết được toàn thể tánh chất của đối tượng
nhận thức là gì. Đối tượng nhận thức này gọi là pháp
trần.
Khi
mà các đối tượng trần cảnh không còn đối diện Ngũ căn
nữa mà Ý thức nhớ lại được hình ảnh đã nhận thức
thì hình ảnh này được gọi là lạc tạ ảnh tử tức là
cái bóng bị rớt lại mà Duy thức xếp loại là độc ảnh
cảnh, cảnh duy nhất chỉ còn ghi lại trong trí nhớ.
Các
hình ảnh hiện ra sai khác khi tâm thức bị tán loạn do sự
hốt hoảng hay quá sợ hãi hoặc quá mong cầu như hình ảnh
sóng nắng mà tưởng là ao hồ, sợi dây gai tưởng là con
rắn được gọi là Độc Ảnh Cảnh vì là hình ảnh tưởng
tượng trong tâm thức mà lầm nhận là đối tượng trần
cảnh ở ngoài.
Các
hình ảnh thật nhỏ nhiệm như vi trần được gọi là cực
lược sắc, xa xôi mờ mờ ảo ảo được gọi là cực hánh
sắc.
Ngoài
ra còn có định quả sắc và vô biểu sắc.
Định
quả sắc là hình ảnh hiện ra trong khi thiền định tỷ như
ngài Nguyệt Quang đồng tử quán nước trong kinh Lăng Nghiêm.
Ngài quán tánh nước trong thân không ngăn ngại lẫn nhau, từ
nước bọt cho đến tất cả các thứ tân dịch như tinh huyết,
đại tiện, tiểu tiện, xoay vần trong thân đều là tánh nước.
Quán thấy các nước trong thân và trong các Hương Hải Thủy
đều bình đẳng như nhau không sai khác. Ngài quán đến nỗi
một đệ tử ở ngoài cửa sổ nhìn vào chỉ thấy đầy nước
ở trong thất. Đệ tử này còn nhỏ dại không biết gì bèn
lấy một miếng ngói thẩy vào cho phát ra tiếng. Sau khi xuất
định ngài Nguyệt Quang thấy đau nhói trong tâm. Ta hãy nghe
ngài kể sự việc tiếp sau đó cho đức Thế Tôn: Con tự
suy nghĩ nay mình đã được đạo A La Hán, từ lâu không còn
nhân duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày hôm nay lại
thấy đau trong tâm, không lẽ bị thối thất chăng. Khi ấy
đệ tử của con đi đến kể lại cho con những việc như
trước, con bảo nó sau này nếu thấy nước thì nên mở cửa
vào phòng lấy miếng ngói trong nước ấy đi. Đệ tử vâng
lời con bảo. Sau khi con nhập định, nó lại thấy nước và
miếng ngói rõ ràng, nó liền mở cửa lấy miếng ngói bỏ
ra ngoài. Sau khi xuất định thân thể con được trở lại
như cũ.
Vô
biểu sắc là một thứ sắc thể không biểu hiện ra ngoài
của giới thể có công năng bảo vệ cho các tu sĩ khi đã
thọ giới, phòng ngừa sự sai trái của thân và khẩu. Người
thọ giới phát nguyện từ nay về sau quyết không phạm các
điều tội ác, từ đó niệm niệm lúc nào cũng đều ngăn
chặn không cho phạm tội ác ví như bờ đê ngăn chặn không
cho nước tràn vào ruộng vườn.
Năm
thức này dù nương theo A lại da thức nhưng không phải lúc
nào cũng hiện khởi được. Muốn hiện khởi phải hội đủ
các yếu tố nhân duyên, nên bài tụng nói Ngũ thức tùy duyên
hiện.
Nhãn
thức muốn hiện khởi là phải hội đủ 9 duyên. Đầu tiên
phải có mắt tức nhãn căn, phải có cảnh để nhìn, cảnh
muốn được mắt nhìn thấy thì phải có khoảng cách tức
hư không, phải có ánh sáng và sự tác ý. Ngoài ra phải có
ý thức để phân biệt đó là cảnh gì, xấu hay đẹp, mầu
sắc ra sao. Nhãn thức phải nương vào Nhãn căn là sự chuyển
hiện dị thục của chủng tử thấy đã được huân tập
chín mùi nơi a lại da thức và mạt na thức.
Tóm
lại nhãn thức muốn được hiện khởi là phải có đủ 9
Duyên là: Căn, Cảnh, Hư không, Ánh sáng, Tác Ý, Phân biệt
ý tức Ý thức, Nhiễm ô ý tức Mạt na thức, Căn bản ý
tức A lại da thức và Chủng tử.
Nhĩ
thức phải hội đủ 8 Duyên vì không cần Ánh sáng.
Ba
thức Tỷ, thiệt và thân thức chỉ cần 7 Duyên vì không
cần 2 duyên Hư không và Ánh sáng.
Ý
thức chỉ cần 5 Duyên: Căn tức Mạt na thức, Cảnh, Tác Ý,
Căn bản ý tức là A lại da thức và Chủng tử vì không cần
2 duyên là Hư không và Ánh sáng. Sở dĩ bỏ 2 duyên mà còn
5 duyên vì Ý thức tự nó là Phân biệt ý rồi nên không tính,
Mạt na thức là căn của Ý thức nên cũng không tính. 9 duyên
mà không tính 4 duyên hư không, ánh sáng, mạt na thức và phân
biệt thức thì còn lại 5 duyên.
Mạt
na thức cần có 3 Duyên là A lại da thức, Tác ý và Chủng
tử. Ở đây A lại da thức vừa là Căn vừa là Cảnh của
Mạt na thức vì Mạt na thức luôn nương nơi A lại da thức
và lấy A lại da thức làm cảnh đối tượng sở duyên, mạt
na thức không cần ý thức vẫn hiện khởi được vì nó là
căn của ý thức.
A lại
da thức thì luôn hiện khởi.
Trong
tám thức trên, A lại da thức và Mạt na thức thường hiện
khởi và có khả năng dẫn dắt quả báo đời sau nên gọi
xếp loại là hằng hành. A lại da thức ví như cái kho chứa
đủ mọi hạt giống. Tất cả mọi hạt giống chủng tử
và hiện hành đều được chứa vào trong đó mà không phân
biệt là tốt hay là xấu. Tùy theo sự chiếu soi, so đo và
chấp trước của Mạt na thức mà các hạt giống đó sanh
diệt, tăng trưởng và chuyển biến. Sự chiếu soi và chấp
trước của Mạt na thức làm cho A lại da thức càng ngày càng
nhiễm ô nên mạt na thức còn được gọi là thức nhiễm
ô hằng hành.
Sáu
thức trước thì tùy theo duyên, khi thì hiện khởi, khi thì
không hiện khởi, khi thì chung, khi thì riêng nên được xếp
loại là bất hằng hành.
Trong
bài tụng bồ tát Thế Thân viết Hoặc câu hoặc bất câu
là ý muốn nói cái tánh chất bất hằng hành này, khi thì
hiện khởi, khi thì không hiện khởi, tùy theo có hội đủ
các duyên cần thiết hay không. Thức nào đòi hỏi nhiều điều
kiện duyên cần thiết để hiện khởi thì càng khó sanh khởi.
Do đó mà Tiền Ngũ thức sanh khởi thì ít và không sanh khởi
thì nhiều. Khi đủ duyên sanh khởi thì hoặc các thức này
có thể sanh khởi riêng rẽ hoặc là cùng sanh khởi, cho nên
nói hoặc cùng hoặc chẳng cùng.
Thí
dụ hằng ngày ta vẫn lái xe ngang qua một vườn hoa nhưng nếu
không để ý thì ta cũng không biết được con đường mình
hằng đi qua đó có một vườn hoa tuyệt đẹp. Chỉ cần thiếu
một duyên là Tác Ý thì nhãn thức không nhận biết được
cái vườn hoa này, mặc dù nó nằm sờ sờ ra đó. Nếu để
ý thì ta thấy quả là một vườn hoa hồng tuyệt đẹp. Và
hôm nào đẹp trời và có gió thổi hiu hiu thì ta còn ngửi
được mùi thơm của muôn hoa hòa với tiếng chim hót gần
đó. Trong thí dụ này thì có sự hiện khởi của nhãn thức
với cảnh đẹp của bầu trời và vườn hoa, có sự hiện
khởi của thân thức với cảm giác gió hiu hiu thổi, có sự
hiện khởi của tỷ thức và nhĩ thức với mùi thơm của
muôn hoa và tiếng chim hót, hẳn đã nói rõ sự hiện khởi
và không hiện khởi, sự đồng thời và không đồng thời
hiện khởi của năm chuyển thức trước.
Tất
cả những hiện khởi của năm thức nương nơi A lại da thức
cũng ví như sóng nương nơi nước, do theo duyên có gió nhiều
ít mà nổi lên ào ạt hay nhẹ nhàng nên bài tụng nói Như
đào ba y thủy.
Thức
thứ sáu tức Ý thức vì đòi hỏi ít duyên nên luôn luôn
hiện khởi trừ khi sanh ở Vô Tưởng Thiên của cõi Sắc,
khi nhập Vô Tưởng Định hay Diệt Thọ Tưởng Định, khi
ngủ say mà không mộng mị hay khi bị chết ngất. Dưới đây
là bài tụng thứ mười sáu trong Tam Thập Tụng của bồ tát
Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI SÁU
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh Vô Tưởng thiên
Cập
Vô Tâm nhị định
Thùy
miên dữ muộn tuyệt.
Dịch
là:
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh trời Vô Tưởng
Và
hai định Vô Tâm
Ngủ
say và chết ngất.
Năm
trường hợp mà Ý thức không hiện khởi là Sanh cõi trời
Vô Tưởng, nhập hai định Vô Tâm là Vô Tưởng Định và
Diệt Tận Định (hay là Diệt thọ tưởng định), Ngủ Say
không mộng mị và Chết Ngất.
Cõi
trời Vô tưởng là cõi trời ở đó mọi tư tưởng đều
đã được diệt. Người tu định lấy sự hủy diệt tư tưởng
làm chính thì sau khi chết sẽ được tái sinh lên cõi trời
Vô Tưởng thuộc Sắc Giới. Cõi trời này được đặt tên
như vậy vì ở đó các Thức Bất Hằng Hành (sáu thức trước)
đều đã đoạn do sự lấy việc diệt tưởng làm chính. Vì
thế sáu chuyển thức đều không hiện khởi ở cõi trời
Vô tưởng.
Hai
định vô tâm gồm có Vô Tưởng Định và Diệt Tận Định.
Hai định này gọi là Định Vô Tâm vì không có sự hiện
khởi của sáu thức trước.
Vô
tưởng định lấy sự diệt tưởng làm chính.
Diệt
tận định là cái định diệt được cả thọ lẫn tưởng
còn gọi là Diệt thọ tưởng định.
Ở
trong các định này thì sáu thức tâm vương và tâm sở
đều không hiện khởi.
Thùy
miên và muộn tuyệt là trạng thái ngủ say và ngất sỉu (chết
ngất) quá trầm trọng khiến sáu thức trước không còn hoạt
động được nữa. Đó là trạng thái ngủ quá mê mệt không
có một chút mộng mị gì cả mà ta thường nói ngủ say như
chết và trạng thái đau đớn hoặc bị kích động quá trầm
trọng khiến sáu thức trước không thể hoạt động phối
hợp với thân được nữa như trường hợp bị tai nạn đau
đớn quá sức, cười hoặc khóc quá độ, bị cảm sốt nặng,
vân vân,...
Cả
ba thức năng biến A Lại Da thức, Mạt Na Thức và Tiền Lục
Thức cùng các Tâm Sở của các thức đó đều là chuyển
biến của Chân Tâm. Vì vô minh chấp trước nên Chân Tâm chuyển
biến thành Tâm Thức và phân ra thành Kiến phần và Tướng
phần.
Kiến
phần là Năng phân biệt vì nó nhận ra Tướng phần. Tướng
phần là Sở phân biệt vì nó là đối tượng của Kiến phần.
Ngoài Kiến phần và Tướng phần thì không có gì hiện hữu.
Cả Kiến phần lẫn Tướng phần đều không có thật vì chỉ
là chuyển biến của Tâm thức mà thôi.
Bồ
tát Thế Thân đã diễn tả ý trên trong bài tụng thứ mười
bẩy trong Duy Thức Tam Thập Tụng:
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI BẨY
Thị
chư thức chuyển biến
Phân
biệt, sở phân biệt
Do
thử, bỉ giai vô
Cố
nhất thiết Duy Thức.
Dịch
là:
Tất
cả thức chuyển biến
Phân
biệt, bị phân biệt
Do
kia, đây đều không
Nên
tất cả Duy Thức.
Chân
Tâm bị chiếu soi chuyển biến thành Kiến phần và Tướng
phần. Các thức Tâm Vương và Tâm Sở đều là chuyển biến
của Kiến phần và Tướng phần. Các thức Tâm Vương và Tâm
Sở tiếp tục chuyển biến, cứ hết phân biệt rồi lại
bị phân biệt, trùng trùng duyên khởi mà chuyển hiện thành
Ngã và Pháp.
Tất
cả những phân biệt và bị phân biệt đó đều là không
vì đều là sự chuyển hiện nơi tâm thức. Các pháp đều
do tâm mà biến hiện ra, nhất thiết pháp duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến. Không có gì hiện hữu ngoài tâm thức
nên nói tất cả đều duy thức. Trong kinh thường nói là tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức cũng là ý nghĩa của câu
Cố nhất thiết duy thức.
Hãy
nghe Bồ tát Hạnh Lâm thừa oai đức của Phật nói kệ tại
hội Hoa Nghiêm:
Tâm
như nhà họa sư
Hay
vẽ những thế gian
Ngũ
uẩn từ tâm sanh
Không
pháp gì chẳng tạo
....................
Nếu
người muốn rõ biết
Tất
cả Phật ba đời
Phải
quán pháp giới tánh
Tất
cả Duy Tâm Tạo.
Tất
cả các pháp bao gồm thân tâm và thế giới đều từ tâm
sanh. Không gì là không do tâm tạo ra nên các pháp được ví
như những hình ảnh do nhà họa sư vẽ ra. Tất cả đều là
huyễn, đều không thật. Nếu như muốn biết tánh chân thật,
không sanh, không diệt, vượt ngoài không gian và thời gian
thì phải luôn luôn quán tất cả các pháp đều do tâm sanh.
Loài
người là biểu hiện của một loại chúng sanh có đầy đủ
muôn loại hạt giống tiềm ẩn sẵn sàng để phát triển,
có một khả năng nhận biết và có thể quyết định điều
muốn làm và không muốn làm. Con người đã biểu hiện được
cái lý Duy Thức, cái lý Nhất Thiết Pháp Duy Tâm Tạo, một
cách cụ thể.
Bởi
sự mong muốn tìm hiểu và chế ngự thiên nhiên mà con người
đã tiến bộ từ một đời sống man khai, bộ lạc đến một
đời sống khoa học tân tiến ngay nay. Với sự quyết tâm
và mong muốn, con người đã một phần chế ngự được thiên
nhiên, đã chế tạo những phương tiện chuyên chở cực kỳ
mau chóng từ nưóc này sang nước khác, từ đại lục này
sang đại lục khác. Không những thế mà con người còn chế
tạo được những vệ tinh thám hiểm không gian, đã đáp xuống
Nguyệt cầu; chế tạo được những viễn vọng kính nhìn
xa cả triệu triệu năm ánh sánh để thấy được thế giới
vũ trụ bao la với hằng tỷ tinh tú và hành tinh, thấy được
ngoài dẫy ngân hà này có dẫy ngân hà khác, ngoài vũ trụ
này có vũ trụ khác; chế tạo được những kính siêu hiển
vi để nghiên cứu những vật chất, những tế bào và những
vi khuẩn nhỏ nhiệm vi tế; phát minh ra được hệ thống điện
toán cùng mạng lưới thông tin giao lưu khiến lưu trữ được
hằng tỷ tỷ dữ kiện, liên lạc và trao đổi tin tức với
tất cả các nơi trên thế giới, giữa các vệ tinh ngoài vũ
trụ trong không đầy một tích tắc; thấy được những điểm
tương đồng cũng như những dị biệt của các chủng loài
trong các cõi nước và thế giới khác nhau; thấy được những
chuyển động muôn hình vạn trạng cực kỳ mau lẹ mà lại
chu biến lưu thông không ngăn ngại của các tinh cầu.
Quả
thật những gì Thế Tôn nói khi xưa thật khó hiểu, nay đều
đã được kiểm chứng. Chẳng hạn như Thế tôn đã nói trong
bát nước có vô lượng chúng sanh, ngày nay ta đã biết trong
bát nước có vô số vi khuẩn; Thế tôn nói tất cả tam thiên
đại thiên thế giới đều chứa trong một hạt cải thì bây
giờ với khả năng vi tính chúng ta có thể chứa cả tỷ tỷ
dữ kiện vào trong một con chip nhỏ.
Những
sự hiểu biết và phát minh vĩ đại đó chỉ do hướng ngoại
tìm cầu. Chỉ hướng ngoại tìm cầu mà đạt được những
thành quả như vậy. Thì nếu một người đủ tín tâm xoay
ngược vào tự tánh, xuyên qua năm làn mây mờ của ngũ ấm
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đi sâu vào biển tâm thức,
phá vỡ được những phiền não vô minh có từ vô thủy thì
chắc rằng sự đột biến bùng nổ sẽ dẫn tới một cảnh
giới mới vô cùng vĩ đại. Một cảnh giới mà không một
lời nói và văn tự nào có thể diễn tả được, một cảnh
giới phi thời gian và phi không gian, một cảnh giới của vô
lượng quang và vô lượng thọ bất khả tư nghì. Đó là cảnh
giới vô biên giới, vô ngằn mé và bất sanh bất diệt của
Chân Không Diệu Minh, của Chơn Tâm Thường Trú, của Bổn
Nguyên Phật Tánh, của Pháp Thân Thanh Tịnh, của Như Lai Tạng
Trang Nghiêm,v.v...
Muốn
trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nương
vào Thân Xác Thô Kệch này, là hiện tướng của vô lượng
những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại. Phải dựa
vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi,
Thân để quan sát và cảm nhận các cảnh giới Trần Cảnh
bên ngoài mà ý thức được rằng các đối tượng trần cảnh
này chỉ là cảnh không thật có, không có tự tánh, chỉ nương
nhau mà hiện hữu và không thường còn. Phải trở về với
kinh điển để học hỏi những điều thâm sâu bất khả tư
nghì của bậc Giác Ngộ Toàn Chân Toàn Giác. Thấy rõ các
cảnh giới đều do Y Tha Khởi, bởi cái này có nên cái kia
có, bởi cái này sinh nên cái kia sinh, bởi cái này không nên
cái kia không, bởi cái này diệt nên cái kia diệt. Biết được
tất cả đều nương nhau mà giả lập, không thường còn,
đều biến chuyển theo luật nhân quả và lý nhân duyên. Nhờ
hiểu biết như vậy mà tinh tấn tu trì, giữ gìn giới hạnh,
thực hành thiền quán, xa rời những Biến Kế Sở Chấp của
chấp ngã và chấp pháp, xa rời những chướng ngại của phiền
não và của tri kiến thường tình, trở về được cái Viên
Thành Thật tức là cái chân thật bất sinh bất diệt của
Bản Tánh Chân Như.