DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
XII
TAM
VÔ TÁNH
Các
ngã và pháp do nhân duyên hòa hợp mà sanh khởi, không có thật
tánh ví như hoa đốm giữa hư không. Do Biến Kế Sở Chấp
phân biệt vọng chấp đối đãi cho các pháp là có, là không,
là đồng, là dị nên chúng sanh cứ mãi điên đảo trôi lăn
trong lục đạo sanh tử luân hồi, không bao giờ trở về được
với chân tánh. Muốn chúng sanh xa rời được các điên đảo
vọng chấp của Biến Kế Sở Chấp nên đức Thế Tôn
nói đến Y Tha Khởi tức là các pháp đều do duyên khởi,
không có tánh nhất định thường còn. Nương nơi y tha này
mà tu hành cho hết biến kế sở chấp thì sẽ chứng thực
được chân tướng của các pháp, thấy tất cả các tướng
đều không có thật tánh, đều là như huyễn, như bong bóng
nước, như sương sớm đầu mai, như tia chớp, đã được
nói trong kinh Kim Cương:
Nhất
thiết hữu vi pháp
Như
mộng huyễn, bào ảnh
Như
lộ diệc như điển
Ứng
tác như thị quán
Tất
cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh và đều không
có tự tánh riêng biệt, cố định, tỷ như sợi dây thừng
không có tự tánh của sợi dây thừng mà là do nhiều sớ
gai khô bện lại mà thành. Các sớ gai khô đó cũng không có
tự thể của sớ gai khô vì chúng là do những cây gai phơi
khô đem tước ra. Ngay đến cả cây gai đó cũng không thể
hiện hữu nếu không có mảnh đất để bám víu vào. Xem thế
thì tất cả đều là Y Tha Khởi, không có cái tướng nhất
định của nó nên nói đến Tướng Vô Tánh.
Tất
cả mọi sự vật mỗi mỗi đều do những cái không phải
là nó hòa hợp, duyên nhau mà sanh chứ không có cội nguồn
nhất định và cũng không phải tự nhiên sanh. Không có gì
tự nhiên sanh mà tất cả đều là biến hiện nơi tâm thức.
Cũng vì nghĩa này mà đức Thế Tôn nói đến cái Sanh Vô Tánh
tức là các pháp không có nguồn gốc sanh khởi rốt ráo hoặc
do một đấng quyền năng nào tạo ra. Sanh Vô Tánh cũng phải
được hiểu thêm rằng dù các pháp không có nguồn gốc sanh
khởi rốt ráo nhưng không phải là chúng tự nhiên được
sanh ra, vì thế nên cũng được gọi là Vô Tự Nhiên Tánh.
Nương
nơi Y Tha Khởi mà xa rời được Biến Kế Sở Chấp sẽ thâm
nhập được Viên Thành Thật tức Thắng Nghĩa của các pháp,
tức Chân Như, tức Tự Tánh, tức Phật Tánh.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi ba của Bồ tát Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI BA
Tức
y thử tam tánh
Lập
bỉ tam vô tánh
Cố
Phật mật ý thuyết
Nhất
thiết pháp vô tánh
Dịch
là:
Nương
nơi ba tánh kia
Lập
ba không tánh này
Nên
Phật mật ý nói
Tất
cả pháp không tánh
Vì
muốn nói đến cái không tánh của mọi pháp mà trước hết
Phật phải nói về tam tánh, để rồi nói đến tam vô tánh.
Bài
tụng nói Phật mật ý nói nhất thiết pháp vô tánh là muốn
nói đến ba cái không tánh: tướng vô tánh, sanh vô tánh và
thắng nghĩa vô tánh. Vì muốn nói đến cái không tánh của
mọi pháp nên Phật phải khởi đầu bằng Tam Tánh, từ tam
tánh Phật nói đến Tam Vô Tánh để chúng sanh rốt ráo thâm
nhập cái không tánh của các pháp. Ngược lại khi nói đến
cái không tánh của các pháp thì ta phải thấu rõ về tam tánh
và tam vô tánh để thật sự xa rời được mọi chấp chước
sai lầm.
Trong
49 năm thuyết pháp, Phật phải bỏ ra 12 năm nói về pháp hữu
vi, dùng thí dụ thật tế trong các kinh A Hàm; sau đó Phật
bỏ ra 8 năm thuyết kinh phương đẳng hay quyền thừa nói đến
sự hóa độ chúng sanh; tiếp sau đó Phật thuyết về pháp
vô vi, lý bát nhã, thuyết minh về cái thật tướng, không
tướng của các pháp trong các thời kinh Bát Nhã; sau cùng ngài
mới nói đến sự ngộ nhập tri kiến Phật tức Phật tánh,
tức Thắng nghiã của các pháp trong suốt 8 năm còn lại, điển
hình là các kinh Pháp Hoa và Niết Bàn. Sau cùng trước khi thị
tịch Phật nói rằng trong 49 năm hoằng pháp Phật chưa từng
nói một lời, mục đích cũng vì muốn chúng sanh bỏ tất
cả những chấp trước dù vào lời nói của Phật để có
thể hội nhập được tri kiến của Phật.
Tam
Vô Tánh này sẽ được bàn rộng trong các bài tụng kế tiếp.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI BỐN
Sơ
tức Tướng Vô Tánh
Thứ
Vô Tự Nhiên Tánh
Hậu
do viễn ly tiền
Sở
chấp ngã pháp tánh
Dịch
là:
Trước
là Tướng Không Tánh
Kế
Không Tự Nhiên Tánh
Sau
do lìa tánh trước
Là
tánh chấp ngã pháp
Do
Biến Kế Sở Chấp Tánh mà thấy có tướng của các pháp
chứ thật ra các pháp đều như huyễn, không thật có nên
Tướng Không Tánh được thành lập. Tất cả mọi pháp đều
như huyễn và hiện ra như "hoa đốm trong hư không". Trong kinh
Kim Cương Phật nói tất cả những gì có tướng đều là
giả cả, nếu thấy các tướng không tướng tức là thấy
Như Lai:
Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng
Nhược
kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai
Khi
nói đến Y Tha Khởi, sợ rằng chúng sanh bị vọng chấp và
khởi niệm cho rằng có một đấng quyền năng nào đó đã
sáng tạo ra cái thế giới, vạn vật vũ trụ này nên Phật
nói đến cái Vô Sanh Tánh. Các pháp không phải là do một
đấng quyền năng nào tạo lập ra nhưng cũng không phải tự
nhiên mà có. Nếu cho rằng các pháp cứ đột nhiên mà khởi
sanh thì chẳng khác gì các trò huyễn thuật. Đó là ý nghĩa
của cái gọi là Vô Sanh Tánh, cũng gọi là Vô Tự Nhiên Tánh.
Mọi pháp thật sự không có nơi sanh khởi nhất định, không
có cái nguyên nhân sanh khởi đầu tiên và cũng không phải
tự nhiên mà có, chúng chỉ là những giả hợp, duyên khởi
từ những chủng tử và hiện hành nơi Tâm thức.
Do
Viên Thành Thật mà nói Thắng Nghĩa Không Tánh vì trên cái
nghĩa tuyệt đối rốt ráo thì mọi vật đều như huyễn.
Chỉ khi nào xa lìa được tánh Biến Kế Sở Chấp tức là
bỏ được tánh chấp trước vào ngã và pháp thì sẽ thấy
Thắng Nghĩa của các pháp tức là thấy được cái chân thật
của các pháp nên bài tụng nói: Sau do lìa tánh trước, Là
tánh chấp ngã pháp.
Biến
Kế Sở Chấp tức là tánh chấp vào ngã và pháp, chấp mọi
hiện hữu là thật có và có pháp để mà đắc. Nếu bỏ
được tánh này thì chứng được cái gọi là Pháp Thắng
Nghĩa. Gọi là Thắng Nghĩa hoặc Viên Thành Thật nhưng thật
ra không có gì để nắm bắt cả. Để nhấn mạnh đến cái
tánh chất không thể nắm bắt này nên nói là Thắng Nghĩa
Không Tánh. Nói không tánh là giả nói chứ không phải thắng
nghĩa thật sự là không, ví như hư không mặc dù bao trùm
và thâm nhập tất cả các sắc nhưng lại được hiển bầy
bằng sự không hiện hữu của các sắc. Vì Thắng Nghĩa được
hiển lộ ra bởi sự không hiện hữu của ngã và pháp cũng
như hư không được hiển bày ở sự không hiện hữu của
các sắc nên nói là Thắng Nghĩa Không Tánh.
Trong
Lăng Kính Đại Thừa giáo sư Nghiêm Xuân Hồng viết:
"Mọi
vật đều đến từ nơi Chân Không, từ những chủng tử,
từ những cơn lốc hư minh khởi lên từ nơi Chân Không, những
cơn lốc đó tạo nên quang minh, rồi kết tập thành vật:
Mọi
vật đến từ đó
Đột
hiện rồi đột tan
Tương
tự như bào ảnh
Chẳng
khác một giác mơ...
Suy
nghĩ thì sẽ thấy rằng mọi vật hình như Nở ra rồi Tàn
Lụi đi trên cái Biển Pháp Thân Thường Tịch Quang".
Trước
khi sang bài tụng thứ hai mươi lăm ta hãy suy ngẫm mấy câu
tụng của Bồ tát Long Thọ trong Trung Quán Luận:
Các
pháp không phải từ duyên sanh
Cũng
không phi duyên sanh
Bởi
vì các pháp vốn không thực có
Nên
duyên và phi duyên cũng không
Các
pháp không phải tự nó sanh ra
Cũng
không phải do cái khác sanh ra
Không
do cộng sanh, cũng không vô nhân sanh
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI LĂM
Thử
chư pháp thắng nghiã
Diệc
tức thị Chân Như
Thường
như kỳ tánh cố
Tức
Duy Thức Thật Tánh.
Dịch
là :
Đây
thắng nghĩa các pháp
Cũng
tức là Chân Như
Vì
tánh thường như vậy
Tức
Thật Tánh Duy Thức.
Tánh
Viên Thành Thật chính là nghĩa thù thắng của các pháp, là
Thắng Nghĩa của tất cả các pháp. Thắng Nghĩa này cũng tức
là Chân Như. Chân là Chân Thật là muốn nói Viên Thành Thật
không phải là giả. Như là Như Thị, là lúc nào cũng như
vậy, ý muốn nói Viên Thành Thật luôn như vậy, không thay
đổi. Chân Như là biểu thị pháp chân thật, không biến dịch,
nơi tất cả ngôi vị có tánh thường như vậy, cố định
không thay đổi, vắng lặng tịch tĩnh, không hư vọng.
Bài
tụng dùng chữ "Diệc" nghĩa là "Cũng" là để chỉ Thắng
Nghĩa còn có nhiều tên tỷ như Pháp Giới, Thật Tánh, Chân
Tâm, Chân Như, v.v...
Thắng
nghĩa này chính là Thật Tánh Duy Thức. Nói thật tánh là vì
Duy Thức có thể hiểu theo hai cách. Thứ nhất là tánh hư
vọng tức Biến Kế Sở Chấp. Thứ hai là tánh chân thật
tức là tánh Viên Thành Thật cũng là Chân Như, là Thắng Nghĩa.
Nói Thật Tánh là muốn nói tới cái tánh chân thật để phân
biệt với tánh hư vọng.
Mặt
khác Duy Thức cũng có hai tánh. Tánh Tương Đối hay Thế Tục
tức là Y Tha Khởi. Tánh Tuyệt Đối hay là Thắng Nghĩa là
tánh Viên Thành Thật. Vì muốn nhấn mạnh tánh thắng nghĩa
đó mà nói Thật Tánh Duy Thức.
Hãy
tư duy bài kệ trong kinh Lăng Già Tâm Ấn:
Ví
như nai khát tưởng, Động chuyển tâm mê loạn
Nai
tưởng là nước, Mà thật không có nước.
Như
thế chủng tử thức, Động chuyển thấy cảnh giới
Người
ngu vọng tưởng sanh, Như mắt nhậm bị che
Nơi
sanh từ vô thủy, Chấp trước tánh nhiếp thọ.
Như
ngược chốt tháo chốt, Xa lìa tham nhiếp thọ
Như
huyễn chú máy động, Mây nổi mộng điển chớp.
Quán
thế được giải thoát, Hằng đoạn ba tương tục
Nơi
kia không người tạo, Ví như nắng trong không
Như
thế biết các pháp, Tức là không chỗ biết.
Các
kinh luận Phật giáo thường lấy ví dụ như Nai khát tưởng
nước, Hoa đốm trong hư không, Người huyễn được chú thuật,
Con của thạch nữ, Trăng đáy nước, Hoa trong gương để chỉ
những điều không thật có.
Trên
đường nắng, nai bị khát, nhìn ánh nắng ở xa tưởng là
nước nhưng khi lại gần thì không thấy có nước. Cũng như
người đi trong sa mạc quá khát thấy ánh dương diệm tức
ánh chiếu của tia nắng mà tưởng là nước.
Có
những nhà huyễn thuật dùng chú làm những hình nộm mó máy,
cử động được, in tuồng như người thật nhưng thật ra
chỉ là giả dối. Con của người đàn bà bằng đá thì không
thể có được vì người làm bằng đá thì sao có con được.
Người
bị nhặm mắt thấy hư không có hoa đốm hoặc có những vòng
tóc chứ sự thật hư không làm gì có sắc tướng. Cũng thế
trăng ở dưới đáy nước hay hoa ở trong gương đều là những
ảnh phản chiếu của mặt trăng và hoa ở ngoài nên chúng
đều như huyễn, không có thật.
Trong
bài kệ trên, đức Thế Tôn nói tất cả ba cõi đều như
mộng huyễn và không thật tánh. Do vọng mà các chủng tử
thức động chuyển thành cảnh giới như mắt nhậm thấy hoa
đốm, như nai khát tưởng ánh nắng là nước. Các cảnh giới
chỉ là chấp trước nhiếp thọ mà sanh, tức là do biến kế
sở chấp mà sanh.
Nếu
xa rời được tánh chấp trước nhiếp thọ biến kế sở
chấp này thì biết tất cả đều là mộng huyễn, là không
tánh. Quán như vậy cũng như biết cách tháo được các mấu
chốt của các gút mắc, biết được các pháp như mộng, như
người máy của nhà huyễn thuật, như mây nổi, như điển
chớp. Do đó chứng được giải thoát, đoạn được ba cái
tương tục. Ba tương tục đó là tương tục của sanh tử
luân hồi, của nghiệp báo và của thế giới cùng chúng sanh.