DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
IX
CĂN
THÂN VÀ THẾ GIỚI
Con
người và tất cả mọi loài chúng sanh trong thế giới và
vũ trụ này đều là ảnh hiện của các chủng tử và hiện
hành nơi A lại da thức đã được huân tập, tăng trưởng,
chín mùi, duyên khởi chuyển biến mà hình thành. Cá nhân của
mỗi chúng sanh trong thế giới này là biểu hiện của nghiệp
báo của tự thân, là quả báo do những nghiệp riêng của
từng chúng sanh đó tạo nên. Thế giới và mọi loài là quả
báo chung của tất cả những gì hiện hữu trong thế giới
này. Vì quả báo chung mà có thế giới và chúng sanh hiện
hữu quanh ta. Vì quả báo riêng mà mỗi chúng sanh có những
hình thể, đời sống và tâm tư khác nhau.
Trong
thế giới hiện tại mọi sự cứ lưu chuyển tiếp nối sanh
diệt tương tục. Mặt trời hiện lên chiếu sáng hư không
u minh, trái đất cứ việc quay và sáng tối cứ thay nhau tiếp
diễn; gió mưa, nóng lạnh, bão tố, tuyết rơi, bốn mùa xuân
hạ thu đông cứ diễn biến liên tục; sinh vật và cỏ cây
cứ sinh sôi tăng trưởng, đâm trồi nẩy mộng và đâm hoa
kết trái.
Thế
giới khi đã hiện thành là thế giới hữu chất, là thế
giới vật chất hữu hạn, là thế giới do tâm cấu nhiễm
chuyển biến, là thế giới không tự có, là thế giới không
tự hiện hữu, là kết quả của những nhân duyên trùng trùng
duyên khởi, nương nhau mà hiện hữu, là thế giới mà Duy
thức gọi là Đới Chất Cảnh.
Những
cảnh giới đới chất đó hình như hiện hữu ngoài tâm và
có thực thể vì chúng ù lỳ và thô trược khiến cho người
bình thường không thể tin được chúng chỉ là chuyển biến
của tâm thức. Anh và tôi, tất cả chúng sanh và thế giới
này rõ ràng hiện hữu. Rõ ràng trái núi này là trái núi,
rõ ràng dòng sông kia là dòng sông. Tôi thấy được anh và
anh thấy được tôi. Cả anh và tôi đều thấy trái núi này
ngăn ngại và dòng sông kia thì lưu chuyển.
Cảnh
giới đới chất này là sự chuyển biến và hóa hiện của
những quang minh bị lưu ngại kết cấu lại thành cảnh giới
thô kệch bên ngoài mà duy thức học gọi là thế giới trần
cảnh, là thế giới cát bụi, là thế giới gồm sơn hà, hải
địa, núi sông, cây cối và tất cả mọi loài chúng sinh y
trú trong đó. Chúng ta là con người nhận biết được thế
giới trần cảnh này qua cửa ngõ của năm giác quan gọi là
Ngũ Căn. Ngũ căn này gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi và Thân là
những bộ phận thô kệch bên ngoài mà duy thức gọi là Phù
Trần Căn. Năm căn này ăn thông với năm căn ẩn tàng bên
trong nằm trong bộ não do các dây thần kinh đi dọc theo đường
xương sống và tỏa ra khắp châu thân. Năm căn ẩn tàng này
gọi là Tịnh Sắc Căn hay còn được gọi là Thắng Nghĩa
Căn.
Ngũ
căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, đưa dữ kiện tiếp
xúc được vào tịnh sắc căn bên trong, rồi tác động vào
ngũ thức. Mỗi phần của ngũ thức chỉ trực nhận được
dữ kiện trong phạm vi hoạt động của mình. Nhãn thức chỉ
phân biệt được hình ảnh là sáng hay tối, có mầu sắc
hay không có mầu sắc nhưng không thể biết được hình ảnh
đó
là hình ảnh gì, mầu xanh hay mầu đỏ, đẹp hay là xấu.
Nhĩ thức chỉ biết được động hay tĩnh, chứ không phân
biệt được âm thanh đó là âm thanh gì, tiếng trống hay là
tiếng chầy, êm dịu hay không êm dịu. Tỷ thức chỉ phân
biệt có mùi hay không có mùi chứ không thể biết được
mùi đó là mùi gì, thơm hay không thơm, mùi hương chiên đàn
hay là mùi hôi của chồn hoang. Thiệt thức chỉ biết có vị
hay không có vị chứ không phân biệt được vị được tiếp
xúc là vị gì, là vị ngọt của mật hay vị đắng của
thuốc. Thân thức chỉ biết có xúc chạm hay không xúc chạm
chứ không thể biết đó là đó là trơn hay nhám, là sự xúc
chạm của da thịt hay của nhung lụa.
Ngay
sát na đầu tiên, các dữ kiện này được đưa ngay vào A
lại da thức. Sau đó là tác dụng của Mạt na thức, còn được
gọi là Ý căn. Ý căn quay vào A lại da thức lục tìm các
chủng tử tương ưng với các dữ kiện nhận được. Khi này
Ý thức được tác động, tập trung các dữ kiện của Ngũ
thức lại so sánh với các dữ kiện do Mạt na thức lấy
ở A lại da thức ra mà biết được đó là hình ảnh gì,
âm thanh, mùi vị và xúc chạm ra sao; rồi khởi ra phân biệt
yêu hay ghét, thích hay không thích.
Các
cảm giác và nhận thức của Ý thức này lại được đưa
vào Ý căn rồi lại huân tập vào A lại da thức thành một
chủng tử mới làm tăng thượng duyên cho các chủng tử có
sẵn trong A lại da thức. Cứ thế các chủng tử mới cũ cứ
tương sanh, tương duyên làm nhân quả cho nhau, trùng trùng duyên
khởi cho đến khi đầy đủ nhân duyên thì chuyển biến và
hiện khởi thành một căn thân khác trong một thế giới khác
khi căn thân hiện tại này bị suy yếu và hủy hoại.
Tùy
theo nghiệp lực của những cộng nghiệp và biệt nghiệp mà
tâm thức chuyển biến và hiện khởi thành căn thân trong một
thế giới thuộc tam giới. Thế giới này có thể là một
thế giới trong cõi Dục, là một cõi trời trong cõi Sắc hay
trong cõi Vô Sắc.
Dù
là một căn thân trong thế giới nào đi nữa thì cảnh giới
chánh báo và y báo đó cũng đều là cảnh giới đới chất.
Cảnh giới đới chất là cảnh giới bị lưu ngại và có
ngằn mé mà sự khác biệt giữa các cõi chỉ là ở mức độ
nhiễm ô trọng trược hay vi tế chứ không còn thanh nhẹ và
uyên nguyên, không ngằn mé như cảnh giới của bản tánh Chân
tâm.
Trong
cảnh giới đới chất đó, không có gì là có tự tánh riêng
biệt. Mọi sự đều do thất đại gồm đất, nước, gió,
lửa, không đại, kiến đại và thức đại nương nhau mà
xoay vần chuyển hiện. Mọi sự, mọi vật hiện hữu là do
những cái không phải là nó tạo nên. Tất cả đều là y
tha khởi.
Y tha
khởi có nghĩa là do cái khác mà sanh khởi ra. Hãy nghe mẩu
đối thoại giữa vua Di Lan Đà, một vị vua gốc Hy Lạp cai
trị vùng Tây Bắc Ấn và tỳ kheo Na Tiên vào khoảng hơn 200
năm trước tây lịch. Vua hỏi:
-
Đại đức pháp danh là gì?
-
Người ta gọi bần tăng là Na Tiên, nhưng đó chỉ là tên
suông đặt ra để phân biệt người nọ và người kia chứ
thật ra trong cái đó không có gì là bần tăng hay cái gì của
bần tăng.
-
Người đáp trẫm đây không phải Na Tiên sao?
-
Không phải.
-
Thế thì ai là Na Tiên? Tóc trên đầu ngài phải là Na Tiên
không?
-
Không phải.
-
Mặt mày, da thịt của người đứng trước trẫm phải Na
Tiên không?
-
Không phải.
-
Mắt tai mũi lưỡi thân ý của ngài cũng không phải Na Tiên
sao?
-
Không phải.
-
Ngoài các thứ đó có phải là Na Tiên không?
-
Không phải.
-
Thế sao lúc nẫy Đại đức nói người ta gọi ngài là Na
Tiên, vậy là Đại đức đã nói dối?
Tỳ
kheo Na Tiên chậm rãi đáp:
-
Tâu Đại vương! Chẳng hay Đại vương đến đây bằng gì?
-
Trẫm đi bằng xe.
-
Tâu Đại vương! Ngài nói đến đây bằng xe, điều đó có
thật không?
-
Trẫm nói thật.
-
Vậy xin chỉ rõ cho bần tăng cái xe của Đại vương. Cái
gọng xe này phải là xe không?
-
Không phải.
-
Trục, bánh xe, thùng xe, dây kéo có phải là xe không?
-
Không phải.
-
Các thứ ấy gom lại có phải là xe không?
-
Không
phải.
-
Ngoài các thứ đó có thứ khác không dính dáng gì đến các
thứ ấy gọi là xe chăng?
-
Không phải.
Tỳ
kheo Na Tiên ngưng một lúc rồi nói tiếp:
Vậy
lúc nẫy Đại vương nói với bần tăng là ngài đến đây
bằng xe. Điều này cũng đáng ngờ vực lắm.
Qua
câu chuyện trên ta đã thấy rõ Na Tiên cũng như cái xe chỉ
là những tên gọi suông chứ không có người và xe thật.
Tất cả vũ trụ này gồm núi sông, biển cả, nhà đất, người
và vật cũng đều không thật có, chúng chỉ là giả tướng
giữa những mối tương quan, tương duyên của những gì không
phải là chính nó.
Sở
dĩ có tôi là vì có anh, vì nếu không có anh thì sao có cái
gọi là tôi. Thế giới này gọi là thế giới vì có tôi và
có anh trong đó, vì nếu không có tôi và anh trong đó thì làm
sao biết rằng có thế giới. Bóng tối có được là vì có
ánh sáng và ngược lại ánh sáng hiện hữu là do có bóng
tối. Vì nếu lúc nào cũng sáng thì cái tên gọi ánh sáng
chẳng có ý nghĩa gì và ngược lại lúc nào cũng không có
ánh sáng thì chữ bóng tối cũng không gây nên một ý niệm
gì. Vì thế mà nói tất cả đều là huyễn mộng và không
có tự tánh. Tất cả đều là quy ước và đều chỉ là sự
chuyển hiện từ chân tâm khi bị vọng niệm làm vẩn đục
ví như nước sông bị đục ngầu vì đất bùn dấy động.
Tất
cả những giả dối, những huyễn ảo biến hiện của tâm
thức cứ chuyển biến tiếp diễn không ngừng, vật chiếu
soi trở thành bị chiếu soi, năng thành sở, sở thành năng;
được tô đậm và hằn sâu vào nơi A lại da thức khiến
chúng không phải thật mà được nhận biết là thật có,
không có bản ngã mà thấy là có bản ngã, sát na sanh diệt
và không có tự tánh mà tưởng là thường còn và có thật
thể.
Không
những thế mà cảnh giới đới chất đó nhiều khi còn bị
bao trùm thêm bởi những mê lầm do sự tán loạn thần kinh
khi quá mong cầu hay khi quá sợ hãi, khi tưởng tượng và xét
đoán sai lầm. Thí dụ như khi đi trong đêm tối ở nơi hoang
vắng, có thể vì sợ hãi mà nhìn lầm sợi dây thành con rắn
hoặc bóng cây thành ma quỷ; khi khát nước trong sa mạc, vì
lòng khao khát mong cầu mà tưởng ánh nắng phản chiếu nơi
xa là hồ nước. Có khi vì tu tập quá ráo riết và với một
cái tâm quá mong cầu thì các hình ảnh của Tiên Nữ, các
vị Trời, hay các vị Bồ Tát và đôi khi ngay cả hình ảnh
của Phật và Thiên Ma cũng có thể hiện ra trong tâm khi đang
thiền tập, khi ngủ mê hay khi bị hôn trầm.
Tất
cả mọi hiện tuợng hình như cứ tự nhiên sanh trưởng tiếp
nối một cách liên tục, ví như hạt giống nẩy mầm, tăng
trưởng thành cây; cây đâm nhánh, trổ lá, nở hoa, ra trái
rồi tàn tạ khiến chúng ta có cảm tưởng như mọi vật cứ
tự nhiên sanh ra. Thực ra tất cả các hiện tượng trong vũ
trụ đều từ tâm sanh ra và đều nương nhau mà có, cái này
có thành ra cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt hoặc
cái này sanh thì cái kia diệt và cái này diệt thì cái kia
sanh, không cái gì có tự tánh riêng biệt. Tất cả đều tùy
duyên, sanh trưởng, tương sanh, tương diệt, tương tục, tương
tức. Không có gì là thường còn và tất cả đều bị chi
phối bởi muời hai nhân duyên, bởi thành trụ hoại không
và bởi sanh lão bệnh tử.
Khi
nhận rõ được các pháp là không thật, là như huyễn, chỉ
là những biến hiện nơi tâm thức rồi quyết tâm tu tập
Thiền Quán hầu trở về với cái Chân Thật Uyên Nguyên Bản
Hữu xa xưa thì lúc đó là lúc biết được con đường tu.
Như đứa con bị lạc đã lâu, nay thấy được con đường
trở về mái nhà xưa. Biết được như vậy gọi là kiến
đạo. Bậc kiến đạo là bậc bồ tát đệ nhất địa, bậc
sơ địa bồ tát, bậc đã biết được con đường phải đi
và nhất quyết nguyện tu hành bất thối chuyển để đạt
được giải thoát.
Từ
giai đoạn kiến đạo cho đến khi được giải thoát thì hành
giả phải qua 12 quả vị. Từ Sơ địa Bồ tát đến
Thất địa Bồ tát; sau đó tới quả vị Bất động địa
tức Bát địa Bồ tát, tương đương với quả vị A La Hán
của tiểu thừa. Từ quả vị này mà tiếp tục tu trì Vô
Phân Biệt Trí diệt trừ được Phiền Não Chướng và
Sở Tri Chướng sẽ tiến đến Thập địa Bồ tát, rồi tới
bậc Đẳng Giác. Tới địa vị Đẳng Giác rồi tiếp tục
tu trì, khởi được Kim Cương Dụ Định thì đạt tới bậc
Cứu Cánh Diệu Giác tức là thành Phật.
Khi
này thì Tiền ngũ thức chuyển thành Thành Sở Tác Trí, Ý
thức thành Diệu Quan Sát Trí, Mạt na thức thành Bình Đẳng
Tánh Trí, A lại da thức thành Đại Viên Cảnh Trí. Lúc này
cảnh giới chân thật của tánh Viên Thành Thật mới hiển
bày. Tất cả mọi cảnh giới đều là Biển Trí Huệ Bát
Nhã, là Chân Không Diệu Hữu, là Như Lai Tạng, là Chân Như,
là Thật Tánh, là Chân Tâm thường còn viên mãn vượt khỏi
tất cả ý niệm về không gian và thời gian, tất cả đều
tròn đầy và vô ngại tức tất cả đều Viên Dung Vô Ngại.
Trong
phẩm Ly Thế Gian của kinh Hoa Nghiêm bồ tát Phổ Hiền đã
giảng giải về Viên Dung Vô Ngại như sau:
Chư
Phật tử! Đại Bồ Tát có mười Vô Ngại Dung: Chúng sanh
vô ngại dung, Quốc độ vô ngại dung, Pháp vô ngại dung, Thân
vô ngại dung, Cảnh vô ngại dung, Thần thông vô ngại dung
v.v...
Chư
Phật tử! Thế nào là Quốc độ Vô ngại dung? Là đem tất
cả vào một cõi, Vô ngại dung. Là đem tất cả cõi vào một
lỗ chân lông, Vô ngại dung. Là một thân ngồi kiết già đầy
khắp tất cả cõi, Vô ngại dung. Là trong một thân biến hiện
tất cả cõi, Vô ngại dung...
Chư
Phật tử! Thế nào là Thân Vô ngại dung? Là đem tất cả
thân chúng sanh vào thân mình, Vô ngại dung. Là đem thân mình
vào thân tất cả chúng sanh, Vô ngại dung. Là đem một thân
đầy khắp tất cả pháp tam thế thị hiện cho chúng sanh,
Vô ngại dung. Là một thân thị hiện vô biên thân nhập tam
muội, Vô ngại dung. Là nơi một thân thị hiện thân đồng
số chúng sanh thành cảnh giác, Vô ngại dung...
Chư
Phật tử! Thế nào là Thần lực Vô ngại dung? Là đem bất
khả thuyết thế giới vào một vi trần, Vô ngại dung. Là
trong một vi trần hiện khắp pháp giới tất cả cõi Phật,
Vô ngại dung. Là đem nước tất cả đại hải để vào một
lỗ chân lông qua lại cùng khắp mười phương thế giới mà
không làm xúc não chúng sanh, Vô ngại dung. Là đem bất khả
thuyết thế giới nạp trong thân mình thị hiện tất cả việc
làm do sức thần thông, Vô ngại dung. Là dùng một sợi lông
buộc bất khả số núi Kim cang, núi Thiết vi cầm đi du hành
tất cả thế giới chẳng làm cho chúng sanh có lòng kinh sợ,
Vô ngại dung. Là đem bất khả thuyết kiếp làm một kiếp,
một kiếp làm bất khả thuyết kiếp, trong đó thị hiện
các sự thành hoại sai biệt mà chẳng làm cho chúng sanh có
lòng kinh sợ, Vô ngại dung...
Ở
đọan kinh Hoa Nghiêm trên, cần để ý là các vị Đại Bồ
Tát thị hiện thần thông vô ngại dung thìø không bao giờ
làm xúc não và kinh sợ chúng sanh, các vị ấy không bao giờ
để lộ cho chúng sanh biết mình là Bồ tát, là mình có thần
thông. Rải rác trong các kinh điển và trong các luận giải
của các vị Tổ sư cho thấy rằng khi bị lộ hình tướng
thì các vị Bồ tát thường chạy biến mất không để lại
tung tích. Các vị chỉ thị thố thần thông để gây tín tâm
sâu đậm trong chúng sanh rồi sau đó thị hiện tịch diệt,
mục đích để thắp sáng ngọn đuốc Phật pháp hầu chánh
pháp được duy trì dài lâu. Có vị thị hiện bay lên hư không
xong ngồi kiết già hoặc trồng cây chuối để đầu xuống
đất chân lên trời mà tịch diệt. Có vị để lại Chân
thân bất hoại mà di tích bây giờ vẫn còn để lại như
các ngài Huệ Năng, Hám Sơn và Đơn Điền tại chùa Nam Hoa
bên dòng sông Tào Khê của Trung Hoa hay các ngài Vũ Khắc Minh
và Vũ Khắc Trường tại chùa Đậu thuộc tỉnh Hà Tây
của Việt Nam.
Để
kết thúc chương này xin chép ra vài lời kệ trong kinh Hoa Nghiêm:
Tất
cả quốc độ rộng vô biên
Như
ảnh, như huyễn, như dương diệm
Mười
phương chẳng thấy từ đâu sanh
Cũng
không có chỗ đi và đến
Diệt,
Hoại, Sanh, Thành xoay vần mãi
Trong
cõi hư không chẳng tạm dừng
Tất
cả do Nguyện lực thanh tịnh
Cũng
do Nghiệp lực chỗ giữ gìn...