DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI


Thích Trí Châu Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
22/08/2011 10:07 (GMT+7)
Số lượt xem: 205122
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005

TÌM MỘT HƯỚNG ĐI

Pháp môn của Phật có muôn vàn, có vô lượng cửa để đi vào, tùy theo căn cơ của từng người mà các thiện tri thức, chư Bồ Tát và chư Đức Phật thị hiện giúp chúng ta biết định hướng để trở về với với căn nhà xưa, căn nhà trong sáng tròn đầy xa xưa mà sau vô lượng những kiếp sống lang thang, tưởng rằng đã quên hết mà nay được nhắc nhớ lại.

Ở phạm vi của sách này tác giả muốn nhấn mạnh đến đường lối được nói trong Duy Thức, Tùng Tướng Nhập Tánh, hay là Nương Nơi Tam Tánh Để Trở Về Với Tam Vô Tánh.  Phải nương nơi cảnh giới này mà dùng đường lối Giới Định Huệ để bỏ đi được những quan niệm chấp trước sai lầm hầu đạt được Chân Như (Nương nơi Y Tha Tánh mà bỏ đi được Biến Kế Sở Chấp Tánh thì sẽ thấy được Viên Thành Thật Tánh). Ngoài ra chúng ta cũng nên rút kinh nghiệm từ cuộc đời tu hành của Đức Phật để tìm giải đáp cho những thắc mắc trên con đường tu tập, hướng đến Giải Thoát.

Vì vô minh mà tâm thức của con người bị vẩn đục, tâm thức trong sáng tròn đầy khi xưa bị vọng chấp nên chứa đầy những uế trược của tham, sân, sị; của tham đắm, đấu tranh, chiếm hữu, chém giết và hận thù. Các hành động vô minh, không sáng suốt này được duy thức học gọi là Biến Kế Sở Chấp, là những chấp chước sai lầm do phân biệt nơi tâm thức mà phát sanh. Vì Biến kế sở chấp mà con người luôn tham đắm vào cái ta và những cái gì thuộc về ta. Ngã và pháp là giả hợp, không có tự tánh và không thường còn lại chấp là thật có, thường còn và bất biến. Những chấp chước đó đã ăn sâu gốc rễ vào A lại da thức từ thuở vô thủy nên rất khó có thể một sớm một chiều mà con người có thể xả bỏ được. Biến kế sở chấp là động lực làm con người si mê và tham đắm cái ta và những cái thuộc về ta, cho rằng ta có quyền huởng mọi lạc thú và những người chung quanh phải có nhiệm vụ giúp chúng ta thỏa mãn mọi quyền lợi, thú vui tham đắm và dục vọng ích kỷ của ta.

Cũng vì tham đắm cho các quyền lợi và phụng dưỡng cái ta đó mà con người không đếm xỉa gì đến những an nguy và đau khổ của kẻ khác miễn là hạnh phúc và quyền lợi của mình được bảo vệ. Vì bất lực trước thiên nhiên, họ bám víu vào những thủ tục mê tín rất là phi lý và đôi khi dã man tàn nhẫn ví dụ như tập tục của một số bộ lạc chài lưới ở ven biển khi xưa, hàng năm phải làm lễ hiến dâng những cô gái đồng trinh cho long vương thủy thần để những vị này không làm sóng gió gây tai ương và trở ngại cho việc chài lưới đánh cá.

Do lòng tham đắm vào cái ta đó mà con người không thể tin vào các điều chân thật, không thể tin vào cái gì gọi là vô ngã, vô tự tánh và không thường còn. Họ luôn mong có một vị thần linh để bám víu, để được ban cho những may mắn và thuận lợi trong cuộc sống và được cứu rỗi sau khi chết.

Bởi thế thay vì tin vào những vị thầy đã giác ngộ dậy mình pháp môn thanh tịnh thì họ chỉ mong có vị nào đưa hai bàn tay ra cứu rỗi và bảo vệ họ. Họ thích quỳ lạy và cầu xin được ban phước lành thay vì phải xa rời tất cả những tham đắm, buông bỏ những chấp chước để tu tập giải thoát.

Thái tử Tất Đạt Đa đã bỏ ngôi vị kế thừa vua cha, cung điện cùng vợ đẹp con thơ, vào nơi rừng sâu núi vắng tầm đạo, tu trì để tìm giải pháp giúp chúng sanh thoát khỏi sự khổ đau của Sanh Lão Bệnh Tử. Ngài đã thực hành mọi pháp môn thiền định của ngoại đạo và sau đó phải buông bỏ chúng vì thấy không rốt ráo. Cuối cùng ngài một mình ngồi tọa thiền, quán chiếu dưới cội bồ đề, tự giác ngộ được chân lý rốt ráo, thoát ly được Sanh Tử. Thế mà nhiều người trong chúng ta vẫn nhất định không tin vào việc tu thiền quán mà ngược lại cứ chấp chước vào thành kiến vô căn cứ, cho rằng tu thiền có thể bị điên.

Thế giới này có rất nhiều kỳ bí, nhiều điều kỳ lạ xẩy ra ngoài sức tưởng tượng của con người. Có nhiều lời chú nguyện hay mật chú có khả năng tiêu trừ tật ách hay ách nạn, có nhiều linh phù hay linh ấn hoặc thủ ấn có thể làm tâm của chúng ta trầm lại và làm cảnh giới nhiễu loạn trong tâm được tiêu trừ. Tuy vậy chúng ta cũng đừng nên quá mù quáng mà chấp chặt vào đó để quên đi đường lối đã được đức Phật chỉ dậy, đó là phải giữ giới, tu thiền và phát triển sự hiểu biết chân thật mà ta thường gọi tắt là Giới Định và Huệ.

Cảnh giới chúng ta là cảnh giới có đủ các loài khác nhau sống chung lẫn lộn. Các loài này gồm cả những vị phạm thiên và các tiên nữ ở các từng trời khác nhau, những vị bồ tát ứng thân thị hiện, các thánh thần lành có dữ có, các loài ma quỷ vô hình, thỉnh thoảng có thể nhập vào chúng ta và làm chúng ta mê say những loài phù phép, khiến ta càng ngày càng xa lánh chân lý.

Chính vì thế trong trong các kinh đại thừa đều lập đi lập lại nhiều lần là chỉ tin vào những kinh có thể giải nghĩa được, chớ nên tin vào những gì không bày tỏ được chân lý, y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa, vì sợ với tâm thức yếu kém chúng ta dễ bị lôi cuốn vào đường mê.

Thà rằng không tu chứ tu mà bị cuốn hút vào đường tà của những ma vương có khả năng thôi miên, biết được những thầm kín trong tận đáy lòng chúng ta, dùng tà thuật để mê hoặc thì khó có cơ tu tập theo chánh pháp. Bởi thế mà Bát Nhã Tâm Kinh nhấn mạnh đến cái Không Tánh của mọi hiện tượng để chúng ta không bị si mê và đắm nhiễm trong bất kỳ cảnh giới nào, ngay cả cảnh giới không thì cũng không được chấp chặt vào.

Trong Thiền Tông  có câu chuyện của Huệ Trung Quốc Sư (đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng) trong công án Đại Nhĩ Tâm Thông như sau: Có một nhà sư Ấn Độ tên là Đại Nhĩ Tam Tạng có phép tha tâm thông, được vua Đường Túc Tông triệu vào cung để thi triển phép đọc được ý nghĩ người khác. Huệ Trung Quốc Sư được thỉnh vào để thị nghiệm. Huệ Trung hỏi, phải ông biết tha tâm thông không? Đáp, không dám. Xin cho biết bây giờ tôi đang ở đâu? Đáp, Hòa thượng là đệ nhất Quốc Sư mà lại tới Tây Xuyên coi đua thuyền. Hỏi chứ bây giờ tôi đang làm gì? Đáp, đang trên cầu Thiên Tâân coi khỉ làm trò. Xin hỏi bây giờ thì sao? Nhà sư Ấn Độ lúng túng không trả lời được. Quốc Sư quát, đồ dã hồ tinh chỉ có trò bịp.
 
Đức Phật đã thị hiện không tin vào các cầu đảo và tán tụng của Bà La Môn. Ngài thường tìm nơi vắng vẻ tọa thiền và quán chiếu. Thế mà bây giờ đa số người tu Phật chỉ thích quỳ lạy cầu xin thay vì nghiên cứu giáo lý, cầu tu đạo Vô Thượng. Họ biết đến Quán Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn Phật không phải vì Quán Thế Âm Bồ Tát dậy họ từ bi hỷ xả mà vì Quán Thế Âm Bồ Tát có nghìn tay và nghìn mắt nghe ai cầu xin là dang tay ra cứu độ. Thậm chí có nhiều người còn lầm lẫn gọi Quán Thế Âm bồ tát là Phật Bà.

Nói như thế không phải là phủ nhận tất cả những thị hiện của chư Phật và chư Bồ tát. Dù rằng biết thế giới này là giả, là như mộng huyễn bào ảnh, chư vị ấy vẫn từ bi thương sót và tùy theo mức độ hiểu biết, tin tưởng và căn cơ của chúng sanh mà ứng thân thị hiện, dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo hóa, để chúng ta tin tưởng rằng không phải chỉ có thái tử Tất Đạt Đa mà chính chúng ta cũng có thể tu hành thành Phật. Những sự thị hiện đó là để tạo điều kiện để chúng ta có thêm tín tâm, tìm thầy, học đạo, dũng mãnh tinh tấn tu hành cho đến khi giác ngộ chứ không phải là để chúng ta cứ mãi ỷ lại vào sự gia trì của chư Phật và chư bồ tát, vào những linh phù mật ấn, vào những thần bí và kỳ ảo, cứ mãi mang tâm cầu khẩn để được thoả mãn những tham đắm và dục vọng của mình. Nếu chư vị ấy cứ ứng hiện mỗi khi chúng ta cầu xin thì thế giới này làm gì còn có khổ đau.

Nếu chư Phật và chư Bồ Tát cứ ứng hiện cứu giúp chúng ta mỗi khi được cầu khẩn thì còn đâu là lý nhân duyên, còn đâu là thuyết nhân quả, còn đâu là nghiệp báo, còn đâu là cảnh giới trùng trùng duyên khởi là những triết thuyết tuyệt vời của đạo Phật.

Trong kinh hẳn chúng ta không quên chính đức Phật cũng không thể cản ngăn vua dòng Lưu Ly đem quân đến tiêu diệt người của dòng Thích Ca. Đức Phật đã thị hiện cản ngăn vua Lưu Ly mỗi khi vị vua này muốn kéo quân đến đánh đất nước của mình. Thị hiện hai lần thì đức Phật cũng phải ngưng không ngăn cản nữa để cho ân oán đâu đó được tự trang trải. Đức Mục Kiền Liên thị hiện đem năm trăm những người ưu tú của dòng họ Thích bỏ vào bình bát rồi ôm bình bát nhẩy lên hư không, thế mà khi tới nơi an toàn mở bình bát ra thì năm trăm người đó cũng đều bị đâm chết, máu chẩy ra đầy bình bát. Ngay chính Mục Kiền Liên khi đã làm xong Phật sự, giúp đức Phật hoằng truyền Phật Pháp, cũng phải để cho bọn tà giáo xô đá đè chết trong ghềnh núi, trả cái nghiệp kiếp xưa đã làm nghề đánh cá.

Ngay chính ngài A Nan vừa là em bà con của Phật, vừa có trí thông minh tuyệt vời, lại vừa là thị giả của Phật mà không tinh tấn tu trì nghiêm mật thì cũng không đắc được quả vị A la hán. Phải đợi đến kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Phật nhập diệt 100 ngày, nhờ tự gia công quyết chí tu thiền định mới đắc được quả vị đó.

Đức Phật cho rằng cầu đảo và tán tụng không giúp gì cho việc giải quyết vấn đề Sanh Lão Bệnh Tử và việc làm bác ái không phải là giải pháp cứu cánh đem lại niềm an lạc vĩnh cữu cho chúng sanh. Không phải nói như thế là bài bác các việc làm bác ái, từ thiện cùng những việc xây dựng chùa chiền, nhưng vì muốn nói đến sự giải thoát rốt ráo nên những việc này được xếp vào hàng thứ yếu. Cũng trong tinh thần này mà tổ Bồ Đề Đạt Ma khi đến Trung Hoa đã nói việc xây dựng chùa chiền và giúp đỡ tăng sĩ của vua Lương Vũ Đế là không có một công đức nào cả.

Đức Phật cũng chứng tỏ rằng tu khổ hạnh không đưa đến giải thoát mà còn làm não loạn thân tâm nhưng chúng sanh cứ thích đi tìm những thầy khổ hạnh mà lễ bái. Ai càng nói khổ hạnh, càng nói nhịn đói để tu hành thì họ càng tin tưởng và bái phục vì tin rằng tu hành như vậy mới là chân tu. Họ chỉ thích tin theo những gì phù hợp với tri kiến của họ, bất chấp điều tin tưởng đó có hợp lý hay không. Họ không còn nhớ là đức Phật đã tu khổ hạnh và bị kiệt lực bên dòng sông và sau đó đã bỏ khổ hạnh để theo con đường trung đạo mới điều hoà được thân tâm và đạt được đạo quả Bồ Đề.

Sở dĩ ngài đạt được giác ngộ vì ngài đã khởi được trí Vô Phân Biệt, xả bỏ những kiến chấp sai lầm, không còn mù quáng dựa vào hệ thống kinh điển vệ đà và tư tưởng khổ hạnh của Bà la môn, đã nhiễm sâu vào tâm khảm của hầu hết mọi người thời đó.

Muốn được giải thoát thì phải biết buông bỏ các ngã chấp và pháp chấp mà duy thức gọi là hai thủ tùy miên tức là hai cái năng thủ và sở thủ đã nằm kiên cố nơi tàng thức, rất khó mà loại trừ. Vị bồ tát muốn xả bỏ được chúng cũng phải mất ba A tăng kỳ kiếp mới phá nổi.

A tăng kỳ kiếp đầu là từ lúc phát tâm dũng mãnh quyết tu trì theo đạo Vô Thượng cho đến khi đắc được Sơ Địa tức là bậc Kiến Đạo Bồ Tát. Địa vị này tương đương với ba địa vị Tư Lương, Gia Hạnh và Thông Đạt trong Duy Thức. Địa vị này cũng tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn của Thanh Văn. Ở địa vị này vị bồ tát có cái khả năng tiêu trừ được hai tướng năng thủ và sở thủ, tự mình tu tập Lục Độ Ba La Mật tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ cho tới khi đạt được bậc Xuất Thế Gian Trí.

A tăng kỳ kiếp thứ hai là từ bậc Bồ Tát Nhị Địa trở lên đến Thất Địa tức là từ Ly Cấu Địa đến Viễn Hành Địa. Địa vị này tương đương với địa vị tu tập trong Duy Thức. Địa vị này cũng tương đương với quả Tư Đà Hàm và A Na Hàm của Thanh Văn.

A tăng kỳ kiếp thứ ba, những vị Bồ Tát Đệ Bát Địa tức Bất Động Địa hay là những vị A La Hán của Thanh Văn đã hồi đầu theo Đại Thừa tiếp tục tu trì, đạt được cái diệu dụng bất khả tư nghì của Vô Phân Biệt Trí tức là đạt đến bậc Đẳng Giác và Diệu Giác, tương đương với địa vị cứu cánh trong Duy Thức. Tới địa vị Đẳng Giác, vị bồ tát vẫn còn một chút câu sanh phiền não chướng và sở tri chướng ẩn tàng và chỉ mới thật sự xả bỏ cả hai chướng này khi khởi Kim Cang Dụ Định đắc được quả vị Diệu Giác tức là thành Phật, chuyển Phiền Não Chướng thành Đại Niết Bàn và Sở Tri Chướng thành Đại Bồ Đề.

Xin nhắc lại từ Bồ Tát Sơ Địa lên đến quả vị Diệu Giác tức quả vị Phật có mười hai bậc thứ lớp như sau: Sơ Địa tức Hoan Hỷ Địa, Nhị Địa tức Ly Cấu Địa, Tam Địa tức Phát Quang Địa, Tứ Địa tức là Diệm Huệ Địa, Ngũ Địa tức là Nan Thắng Địa, Lục Địa tức là Hiện Tiền Địa, Thất Địa tức là Viễn Hành Địa, Bát Địa tức là Bất Động Địa, Cửu Địa tức là Thiện Huệ Địa, Thập Địa tức là Pháp Vân Địa, rồi tới Bồ Tát bậc Đẳng Giác và Quả vị Phật tức Diệu Giác.

Nói thì phải mất ba A tăng kỳ và phải trải qua nhiều thứ lớp để chứng đắc chứ thật sự thời gian lẫn quả vị đều như huyễn. Vị bồ tát từ bậc Kiến Đạo trở lên đã xa rời chấp có và chấp không, phát tâm kiên cố quyết hướng đến đạo quả Vô thượng nên coi việc tu thiền định và quán tưởng là việc thường tình như ăn cơm và uống nước. Vị đó không còn để tâm đến vấn đề thời gian cùng vấn đề chứng đắc hay không chứng đắc.

Tiếp theo đây hãy thử ôn lại cuộc đời tu trì của đức Phật (dựa theo tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng của Thiền Sư Nhất Hạnh) để thấu rõ phương pháp tu hành của ngài hầu lấy đó làm ngọn đuốc soi đường.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng Vô Thượng Giác từ vô lượng kiếp. Vì có thệ nguyện sẽ làm vị Giác Ngộ ở cõi ta bà này để giáo hóa chúng sinh mà ngài đã ứng thân đản sanh làm thái tử của dòng Cồ Đàm ở Ấn Độ vào năm 624 trước tây lịch.

Từ khi còn nhỏ thái tử Cồ Đàm đã rất thông minh. Môn nào học cũng giỏi, từ đọc, viết, vẽ, âm nhạc, võ nghệ và thể thao, thứ nào cũng siêu xuất, làm kinh ngạc các thầy dậy.

Khi còn nhỏ, được đi dự lễ cầy ruộng cùng vua cha, thái tử chỉ thích ngồi tĩnh toạ dưới gốc cây. Ngồi dưới gốc cây, thái tử thấy các con giun bị lưỡi cầy xấn ngang nằm quằn quại trên các luống cầy, rồi có các con chim nhỏ đáp xuống mổ những con giun này mà ăn, rồi lại thấy có con chim lớn bay xà xuống quắp con chim nhỏ bay đi. Thái tử ngồi chiêm nghiệm những điều đã chứng kiến và nhận ra rằng cầu đảo và tán tụng cũng không giúp gì cho những con giun và con chim bị nạn kia.

Khi lớn lên, thái tử chỉ thích gần gũi và học hỏi nơi những vị Sa môn tu khổ hạnh, là những tu sĩ đã cắt đứt tất cả những ràng buộc phiền não của cuộc sống thường tình, không thích những việc cúng tế và cầu đảo, và chỉ thích ở nơi thanh vắng tu cầu giải thoát.

Thái tử kết hôn với một công chúa của nước láng giềng. Công chúa rất xinh đẹp và dịu hiền, rất tâm đầu ý hiệp với Thái tử. Ngoài cuộc sống thảnh thơi, thăm viếng những nơi phong cảnh hữu tình và săn sóc cơm nước cho chồng, công chúa còn rất thích làm việc xã hội, giúp đỡ các người già cả, nghèo khó cùng các trẻ em tật nguyền. Tuy sống cuộc sống hạnh phúc nhưng Thái tử vẫn ray rức với những u uẩn trong nội tâm, những mong muốn tìm một giải pháp tâm linh mà việc làm xã hội như công chúa đang làm thì không phải ai cũng đủ phương tiện làm và đó chỉ là giải pháp tạm thời chứ không phải là giải pháp rốt ráo để xóa bỏ những bất công của xã hội, không phải là cứu cánh cho việc giải thoát khỏi Sanh, Lão, Bệnh, Tử và đem lại niềm an lạc vĩnh cữu cho tâm hồn. Ngài thường chia sẻ sự bế tắc này với công chúa. Công chúa cũng cảm thấy như vậy và ngầm hiểu một ngày nào đó thái tử sẽ ra đi để tầm đạo.

Khi công chúa sanh được La Hầu La thì thái tử lên đường tầm đạo và tu trì với những vị sa môn khổ hạnh nổi tiếng đương thời. Trong gần 6 năm tu trì với các vị Bà la môn, thái tử đã đạt tới các quả vị Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Không Vô Biên Xứ Định là cái định mà tâm của hành giả đồng nhất với không gian vô biên và sau khi hành giả bỏ sắc thân này thì sẽ được sanh lên cõi trời Không Vô Biên Xứ của Vô Sắc Giới.

Thức Vô Biên Xứ Định là cái định trong đó hành giả thấy được tâm thức mình trong mọi hiện tượng của vũ trụ và sau khi hành giả bỏ sắc thân này thì sẽ được sanh lên cõi trời Thức Vô Biên Xứ của Vô Sắc Giới.

Vô Sở Hữu Xứ Định là cái định trong đó hành giả thấy không có cảnh giới nào thật sự hiện hữu như chúng ta thường tưởng và sau khi hành giả bỏ sắc thân này thì sẽ được sanh lên cõi trời Vô Sở Hữu Xứ của Vô Sắc Giới.

Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định là cái định cao nhất, trong bốn thứ định ngoại đạo. Trong định này tâm thức của hành giả rất là tịch tĩnh, các ý niệm về hữu và vô đều được loại trừ, là cái trạng thái chẳng phải tưởng và cũng chẳng phải không tưởng. Khi bỏ sắc thân thì hành giả sẽ được sanh lên cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là cõi trời cao nhất mà thường được gọi là cõi trời Hữu Đảnh của Vô Sắc Giới.

Thái tử thấy dù đạt được tới các định này thì cũng không giải quyết được những khổ đau đã dằn vặt tâm hồn ngài và cũng không giải quyết được vấn đề Sinh, Lão, Bệnh,Tử. Vì thế ngài quyết định phải tự hạ thủ công phu để tự tìm ra giải pháp cho những dằn vặt đó.

Ngài tìm đến những nơi rừng sâu, những hang động hoang vắng, những bãi tha ma bỏ hoang, quyết dùng khổ hạnh để chế ngự thân tâm. Mỗi ngày chỉ ăn một chút trái cây hay một vài hạt tùng kiếm được trong rừng, có nhiều khi nhịn đói mà vẫn thực hành không ngưng nghỉ tất cả các môn thiền định. Tuy đã chế ngự xác thân đến cùng cực, thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương mà sự thiền định cũng không đem lại một sự an lạc nào cả và sự khổ não càng tăng trưởng. Ngài cứ tiếp tục tu ép xác như thế cho đến khi kiệt sức nằm bất tỉnh bên bờ sông.

Sau đó nhờ cháo và sữa của cô gái chăn dê đổ vào miệng mà ngài được tỉnh táo trở lại. Từ đó ngài quyết định không tu khổ hạnh nữa và dời về một khu rừng gần bờ sông, ngày ngày thiền hành trong rừng, tọa thiền dưới cội bồ đề và tắm ở dòng sông gần đó. Còn ăn uống thì có khi cô bé chăn dê hay chú bé chăn trâu hoặc các em trong thôn xóm gần đó đem đồ ăn cùng sữa đến cúng dường, có khi ngài đi khất thực nơi thôn làng quanh đó.

Ngài từ từ ôn lại những kinh nghiệm đã trải qua, quán sát tất cả mọi sự việc với một tâm hồn trong sáng, buông bỏ tất cả các tri kiến đã huân tập từ thuở ấu thơ, xả bỏ những chấp chước vào hệ thống kinh điển Vệ Đà của Bà La Môn, một hệ thống tôn thờ bản ngã, đầy mê tín và chủ trương khổ hạnh. Nhờ đó mà ngài thật sự thâm nhập vào mọi cảnh giới, không thấy sự phân chia giữa ta và người, giữa ta và ngoại cảnh, ngài thấy mình như hòa tan vào mọi cảnh giới, ngài nhìn trong một hạt bụi là cả một vũ trụ và cả vũ trụ bao la này gom lại cũng không khác hạt bụi, ngài là vũ trụ và vũ trụ là ngài.

Một buổi chiều ngài ngồi tọa thiền dưới cội bồ đề, ngắm nhìn những lá bồ đề hình trái tim lung lay trước gió, những cụm mây trắng bay qua, ngài thấy trong lòng lâng lâng, ngài thấy ngài là chiếc lá, ngài là cụm mây và chiếc lá cùng cụm mây và cả vũ trụ này cũng là ngài. Tất cả đều không thường còn và chuyển biến.

Mới ngày nào ngài còn là thái tử bé nhỏ ngồi dưới tàng cây, nghe tụng kinh vệ đà, thấy những con giun bị xắn ngang bởi những lưỡi cầy của các bác nông phu, những xâu xé của những loài chim dành giựt thân xác của các con giun xấu số này. Mà bây giờ lại là sa môn không có quyền thế, không có sở hữu, ngồi thiền tọa dưới cội bồ đề.

Cụm mây vừa thấy kia đã bay qua, những lá bồ đề hình trái tim với chóp lá kéo dài ra như thể cái đuôi dài dễ thương kia rồi cũng tàn tạ và bay theo chiều gió. Không có gì là thường còn, không có gì có tự tánh riêng biệt, mọi sự đều nương nhau mà hiện hữu, mọi sự đều là sự hòa hợp của tứ đại, của đất nước gió lửa, của hư không và tất cả đều là chuyển hiện nơi tâm thức. Một lát nữa đây mặt trời sẽ lặn xuống và bóng tối sẽ bao trùm. Mặt trời lặn không phải là mặt trời không hiện hữu mà là mặt trời bị che khuất thôi. Mặt trời vẫn hiện hữu và chiếu sáng ở nơi khác. Bóng tối sẽ hiện ra đó không phải là sẽ hiện ra mà thật sự bóng tối luôn luôn hiện hữu. Bóng tối vẫn đầy khắp cả hư không mà vì bị mặt trời chiếu soi nên không biểu hiện ra được. Ánh sáng và bóng tối nương nhau mà hiển lộ. Không có ánh sáng thì làm sao biết được bóng tối và nếu không có bóng tối làm sao biết được ánh sáng. Và cả ánh sáng lẫn bóng tối đó đều chỉ là những chuyển hiện nơi tâm thức. Chỉ vì vô minh mà Chân Tâm bị che lấp và chuyển biến hiện khởi ra chứ mọi sự đều như huyễn, đều không thật có ví như hư không vốn thanh tịnh, trong sáng mà vì nhậm mắt mà thấy có hoa đốm.

Bóng tối xuống dần, niềm cô đơn và sự sợ hãi từ từ dâng lên trong tâm thức. Những hình ảnh ma quái kinh sợ tợ như hiện ra trước mắt, những khao khát, những ao ước cùng những thèm muốn dâng trào, quay cuồng trong tâm thức. Ngài quán chiếu thật thâm sâu và thấy đó chỉ là huyễn ảo, không có thật thể. Thực chứng được như vậy thì mọi sợ hãi, khát khao và ham muốn liền ngay đó tan biến. Mọi sự đều hiện ra rồi lại biến đi mà thật sự thì cũng không có gì sanh và cũng không có gì diệt, mọi sự đều không từ đâu đến và cũng chả đi về đâu. Tất cả đều sát na sanh diệt, làm nhân duyên cho nhau mà hiện khởi.

Ngài Cồ Đàm ngước nhìn bầu trời đen kịt, vài tia chớp hiện lên bầu trời, ngài mỉm miệng cười, biết rõ giây phút mong chờ sắp đến. Bấy giờ là đầu canh một, sấm chớp thình lình nổi lên và mưa trút xuống xối xả. Trong cảnh mưa gió bão bùng đó ngài thấy rõ sự sinh diệt của mọi loài chúng sanh, cả hữu tình lẫn vô tình, ngài thấy rõ cả vô lượng kiếp của quá khứ và vị lai của chính mình và trực nhận sự sanh thành và hủy diệt của muôn loài. Sự thấu rõ đó là Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh.

Mưa vẫn tiếp tục rơi xối xả và ngài Cồ Đàm tiếp tục quán chiếu miên mật, ngài thấy các pháp trùng trùng duyên khởi, pháp này làm duyên cho pháp kia, sanh diệt tương tục mà Chân Tâm thì luôn thanh tịnh, lặng lẽ chiếu soi, như không có gì làm lay động được. Các pháp trùng trùng duyên khởi đó ví như những đợt sóng ào ạt trên mặt biển và thể thanh tịnh của Chân Tâm ví như nước biển ở dưới sâu, không chuyển động. Ngài thấy rõ chỉ vì vô minh và chấp chước mà vô lượng các phiền não sanh khởi. Nếu biết rõ tất cả đều là như huyễn và không tự tánh thì các phiền não tự nhiên sẽ bị tiêu trừ. Đó là sự chứng đắc Lậu Tận Minh. Rồi cũng ngay đó ngài chứng được Thiên Nhĩ Minh, Tha Tâm Minh và Thần Túc Minh.

Mưa bắt đầu nhẹ dần, gió bớt thổi, mây đen từ từ tan biến. Sao mai hiện ra lấp lánh, chói sáng trên bầu trời, hình như muốn mừng vui cùng Bậc Đại Giác Ngộ. Bấy giờ là cuối canh ba tức gần 5 giờ sáng. Ngài Cồ Đàm mở cặp mắt tươi sáng nhìn ngôi sao mai lung linh trên bầu trời, sung sướng và reo vang trong tâm: Lạ thay mọi chúng sanh đều có hạt giống của Giác Ngộ. Vì vô minh mê lầm mà phải trầm luân khổ đau lặn hụp trong sanh tử luân hồi. Ta là bậc đã Giác Ngộ và chúng sanh rồi cũng sẽ Giác Ngộ như ta. Khi ấy Ngài được 31 tuổi.

Trong thời gian đầu mới thành đạo này, khi Ứng thân tọa thiền dưới cội bồ đề, Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật đã nói về cái thế giới trùng trùng duyên khởi của vô lượng vô số các cõi nước mà Phật đã chứng được cho các long thiên và các vị Đại Bồ Tát. Đó là Cảnh giới bất khả tư nghì dung thông vô ngại mà chỉ có bậc Đại Bồ Tát mới lãnh hội được. Cảnh giới đó là cảnh giới Hoa Tạng Tỳ Lô Tánh Hải nói trong kinh Hoa Nghiêm. Cảnh giới này là cảnh giới dung thông vô ngại, thời gian dung thông thời gian, không gian dung thông không gian, thời gian dung thông không gian và không gian dung thông thời gian. Một dung thông tất cả và tất cả dung thông một.

Tất cả nguyên lý và cảnh giới đó đã được Bồ Tát Long Thọ cho lưu truyền lại trong bộ Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh, gọi tắt là Hoa Nghiêm Kinh.

Theo kinh Hoa Nghiêm thì tất cả các pháp trong vũ trụ chỉ là huyễn hóa do mê hoặc, vọng tưởng và nghiệp duyên hình thành. Tất cả vạn pháp và pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm bao trùm tất cả pháp giới, tất cả pháp giới nằm trọn trong Tâm. Tất cả vũ trụ và vạn pháp đều nằm gọn trong một hạt cải và một hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ và vạn pháp.

Ta hãy đọc một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm diễn tả cảnh giới bất khả tư nghì, cảnh giới mà bất cứ một vị giác ngộ nào cũng thể chứng như thế, cảnh giới như huyễn, giải thoát và oai lực:

Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ rõ ba đời
Phật cùng quốc độ vô số lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhân Sư Tử
Cũng thường vào cảnh giới Phật
Như Huyễn, Giải thoát và Oai lực.

Vì trình độ tâm thức của chúng sanh lúc bấy giờ chưa thể thâm nhập vào cái pháp tối vi diệu mà Phật đã thể nghiệm nên đức Thế Tôn phải dùng phương tiện thiện xảo, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà giảng dậy để từ từ thứ lớp nâng tâm thức của chúng sanh lên hầu có thể hội nhập vào Tri Kiến Phật như kinh Pháp Hoa đã nói: Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là đưa tâm thức chúng sanh hội nhập tri kiến Phật.

Thời gian rao giảng giáo lý của Phật đựợc chia ra làm 5 thời kỳ:

1.  Thời kỳ Hoa Nghiêm Kinh còn gọi là Đại Thừa Trung Quán 21 ngày.
2.  Thời kỳ kinh A Hàm hay là Tứ Diệu Đế còn gọi là Tiểu Thừa
      Hữu Quán 12 năm.
3.  Thời kỳ kinh Phương Đẳng còn gọi là Quyền Thừa 8 năm.
4.  Thời kỳ kinh Bát Nhã còn gọi là Đại Thừa Không Quán 21 năm.
5.  Thời kỳ kinh Pháp Hoa và Niết Bàn còn gọi là Đại Thừa Trung Quán 8 năm.

Trong năm thời kỳ giảng pháp ta thấy lúc đầu Phật thuyết Đại Thừa Trung Quán. Sau đó ngài giảng thấp xuống, chỉ giảng về các pháp hữu vi, nói Tứ Diệu Đế tức nói về sự khổ đau, nguyên nhân của những khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và phương pháp diệt trừ khổ đau. Rồi ngài từ từ giảng cao lên, nói về Thập Nhị Nhân Duyên, nói về Quyền Thừa vừa quán Hữu vừa quán Không, rồi nói về Đại Thừa Không Quán, để rồi sau rốt trở về pháp tối thượng ban dầu tức là Đại Thừa Trung Quán tức là nói về pháp giới như huyễn chẳng phải có chẳng phải không.

Như vậy ta thấy đức Phật đã bỏ ra cả cuộc đời mới nói được điều không thể nói. Trước hết Phật phải trang bị cho chúng sanh cái biết về pháp hữu vi, nói rõ các hiện tướng của pháp giới rồi từ từ ngài nói cái đó cũng không thật, để rồi mới nói được cái Không Tánh của vạn pháp ở thời kỳ Bát Nhã. Rồi sau rốt Phật mới thuyết giảng về Trung Quán là pháp tối thượng để đạt quả Vô Thượng, theo đó các pháp chỉ là huyễn, chẳng phải có cũng chẳng phải không có.

Điều Phật muốn chúng sanh làm là tu tập Giới, Định và Huệ để thâm nhập vào cái chân thật của vạn pháp, thực chứng được Tự Tánh Chân Như vô khứ vô lai, bất sanh bất diệt mà không ngôn từ nào có thể diễn tả đầy đủ được. Những lời nói của đức Phật cốt là để chúng ta khởi được lòng tin dũng mãnh mà quyết chí phát nguyện tu hành cho đến khi thành Chánh Quả, đạt được Giải Thoát chứ không phải để chúng ta đem ra bàn cãi và hý luận xuông. Chính vì lẽ đó mà đức Phật đã nói rằng trong 49 năm hành đạo, Phật chưa từng nói một lời nào.

Lời nói của Phật hay là kinh điển của Phật ví như ngón tay để chỉ mặt trăng, thấy được mặt trăng rồi thì phải bỏ ngón tay vì nếu cứ ngắm ngón tay thì không thấy được mặt trăng.

Mặt trăng ví như Chân Tâm, luôn trong sáng nhưng vì bị mây che nên nhiều khi ta không thấy được. Cũng vậy Chân Tâm luôn thanh tịnh và hiện hữu nhưng vì mê vọng mà Chân Tâm bị che lấp. Chỉ có theo con đường Phật đã chỉ dậy mới dẹp tan được những mê vọng đó. Đó là con đường của Giới, Định và Huệ. Phải lấy giới hạnh làm tư lương để giữ tâm thanh tịnh, tu thiền không ngưng nghỉ cho đến khi đạt được Trí Huệ Bát Nhã, đồng với trí huệ của Phật.

Lời của Phật là lời của ngưòi đi trước hướng dẫn người đi sau để đi tới Giác Ngộ. Chúng ta phải thực hành theo lời chỉ dậy đó, chứ không phải cứ tối ngày mê mờ lẩm bẩm những lời nói đó mà không chịu tu trì, khiến mãi đắm chìm trong sanh tử luân hồi ví như người sống bên dòng sông mà lại chết vì khát nước.

Để kết thúc xin viết ra đây bài Thiền Ca của Bạch Ẩn Thiền Sư, một thiền sư nổi tiếng của xứ Phù Tang Nhật Bản.

Tự tánh chúng sanh vốn là Phật, như băng với nước
Ngoài nước không có băng, ngoài chúng sanh tìm đâu có Phật?
Đạo kề bên mà chẳng biết, tìm kiếm xa vời đáng thương
Như sống bên sông nước, khô cổ gào xin vì khát nước
Như con một vị trưởng giả, lang thang giữa phường nghèo khó
Mà luân hồi trong sáu nẻo, lạc trong hắc đạo vô minh
Đến bao giờ mới thoát ly khỏi sanh tử?
Pháp môn Tọa Thiền của Đại Thừa, thật không đủ lời để tán thán
Những pháp hạnh cao quý đều bắt nguồn ở Tọa Thiền
Cho dù chỉ một lần Tọa Thiền cũng đủ tiêu trừ mọi ác nghiệp
Nào thấy đâu hắc đạo nữa vì Quốc Độ Thanh Tịnh ở ngay đây
Cho dù chỉ một lần hoan hỷ lắng nghe sự thật này
Với hết lòng tôn kính và tán thán
Là đã được muôn vàn phước báu.
Với những người tự mình thức tỉnh
Chứng đắc được Chân Như Tự Tánh
Tự Tánh tức Không Tự Tánh
Là đã thoát khỏi điên đảo vô minh
Thấy được sự đồng nhất giữa Nhân và Quả
Đường Đạo không phải là hai mà cũng không phải là ba
Sắc cũng như Vô Sắc
Tới lui như chưa bao giờ động
Niệm cũng như Vô Niệm
Đang múa ca như đang nghe Pháp
Trời Tam Muội lồng lộng vô biên
Trăng Trí Huệ sáng ngời viên mãn
Đây là lúc ta thiếu gì đâu
Niết Bàn Thanh Tịnh ngay đây
Thế giới này là thế giới Liên Hoa
Và thân này là Pháp Thân của Phật.

Hết

SÁCH BIẾU KHÔNG BÁN

Mọi chi tiết xin liên lạc về:
Thích Trí Châu
PO Box 1522 
Westminster, CA 92684, USA


Âm lịch

Ảnh đẹp