DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
TIỂU SỬ BỒ TÁT THẾ THÂN
Bồ tát Thế Thân sanh tại
Bá Lộ Sa (Purusapura) còn gọi là Phú Lâu Sa Bổ La, bây giờ là thành phố
Peshawar thuộc vương quốc Kiền Đà La (Gandhara) ở Bắc Ấn vào khoảng năm 316 Tây
Lịch tức 860 năm sau khi đức Phật diệt độ. Ngài là người con thứ hai của một
gia đình Bà La Môn, cha là Kiều Thi Ca (Kausika), mẹ là Tỷ Lân Trì (Virinci).
Khi ngài mới ra đời thì
anh ngài là Vô Trước (Asanga) đã là tu sĩ theo Phật Giáo Đại Thừa. Ngài có
người em là Tỷ Lân Trì Tử (Virincivatsa), theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Riêng ngài
thì thuở ban đầu theo Phật Giáo Tiểu Thừa, về sau được ngài Vô Trước điểm hóa
nên chuyển theo Đại Thừa.
Tên tiếng Phạn của ngài
là Vasubandhu, dịch âm là Bà Tu Bàn Đầu, có nghĩa là vị thân thuộc của trời nên
dịch theo nghĩa là Thế Thân hoặc Thiên Thân. Còn tên của anh ngài có nghĩa là
không chấp chước tức không bị dính mắc vào đâu cả. Tên của em ngài thì lấy theo
tên mẹ, Tỷ Lân Trì (Virinci) là tên mẹ, Tử (vatsa) là con.
Vô Trước tu theo Đại
thừa, vì muốn giác ngộ lý rốt ráo của các kinh điển nên ngài bỏ vào rừng tu
thiền định trong suốt 12 năm. Theo truyền thuyết thì ngài đã nhập định lên cõi
trời Đâu Xuất và được bồ tát Di Lặc đọc cho năm bộ luận để truyền lại cho hậu
thế. Năm bộ luận đó là:
1. Du Già Sư Địa Luận
2. Đại Thừa Trang Nghiêm
Kinh Luận
3. Thập Địa Kinh Luận
4. Trung Biên Phân Biệt
Luận
5. Kim Cang Bát Nhã Luận
Ban đầu Thế Thân theo
học với phái Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc Tiểu Thừa, lấy Đại Tỳ Bà Sa Luận
(Vaibhasika) làm căn bản. Khi nghiên cứu luận Đại Tỳ Bà Sa, có nhiều điểm ngài
còn nghi ngờ nên ngài hóa trang để đi đến Ca Thấp Di La tức Kashmir bây giờ để
điều nghiên thêm về Đại Tỳ Bà Sa vì Ca Thấp Di La là nơi giảng giải luận chính
thống Đại Tỳ Bà Sa.
Tại Ca Thấp Di La, ngài
nhập chúng và theo học với ngài Ngộ Nhập được 4 năm, trong khoảng năm 342 đến
346 Tây Lịch.
Bị phiền não vì Thế Thân
hay đưa ra những ý kiến riêng để lập luận và bác bỏ những phân tích quá giáo
điều và chi li của các vị thầy, ngài Ngộ Nhập bèn nhập định và biết được Thế
Thân không thuộc hệ phái của Ca Thấp Di La. Ngài liền khuyên Thế Thân nên trở
về Kiền Đà La trước khi bị nguy hiểm vì chân tướng bị phát giác.
Thế Thân trở về Kiền Đà
La, chuẩn bị thực hiện một dự án vĩ đại mà ngài có trong đầu từ lâu. Để không
bị bó buộc và thực hiện được dự án của mình, Thế Thân ở tịnh xá riêng trong
trung tâm của Bá Lộ Sa, tự túc sinh sống bằng cách thuyết giảng giáo lý Phật Đà
cho công chúng. Cứ sau mỗi buổi thuyết giảng, ngài đúc kết những lời giảng
thành những bài kệ, tất cả tổng cộng đến hơn 600 bài kệ, giải nghĩa toàn thể hệ
thống Đại Tỳ Bà Sa, tạo thành bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharma-kosa), nói
lên tất cả những chỗ thiếu sót và không hợp lý của Đại Tỳ Bà Sa và trình bầy
kiến giải của mình. Bộ luận nầy cũng được gởi đến Ca Thấp Di La theo lời yêu
cầu của những học giả ngưỡng mộ ngài ở địa phương đó.
Chúng Hiền
(Sanghabhadra) là một luận sư về chính thống Đại Tỳ Bà Sa, đã từng cùng với Thế
Thân tham học với ngài Ngộ Nhập ở Ca Thấp Di La, nghe ngài Thế Thân sau khi
tham học về đã làm luận Câu Xá bài phá nhiều điểm cổ truyền của bản tông, liền
viết ra hai bộ luận gọi là phá tà hiển chánh, A Tỳ Đạt Ma Bảo Luận và A Tỳ Đạt
Ma Hiển Tông Luận, để phản bác lại luận cứ của ngài Thế Thân.
Tuy nhiên vì hai bộ nầy
chấp theo cựu thuyết nên nội dung còn nhiều chỗ lủng củng không được thông suốt
nên các học giả trong Hữu Bộ khi nghiên cứu giáo lý bản phái chỉ tham cứu bộ A
Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của ngài Thế Thân mà thôi, còn hai bộ luận của ngài Chúng
Hiền biên soạn thì bị coi là phản bội với giáo nghĩa của Hữu Bộ. Câu Xá Luận
sau này được gọi là Tân Tỳ Bà Sa Luận, và ngài Thế Thân được coi là tân giáo
chủ của phái Hữu Bộ. Sau khi đúc kết xong bộ Câu Xá Luận, Thế Thân thường du
phương hoằng hóa. Cho tới bấy giờ ngài không những không thèm để ý đến những bộ
luận Du Già của người anh mà còn phỉ báng tất cả các kinh luận Đại Thừa, cho đó
chỉ là lý thuyết suông.
Biết được thái độ của
nguời em như vậy, Vô Trước quyết đưa em mình vào con đường Đại Thừa. Ngài phái
hai đệ tử mang kinh luận Đại Thừa đến tìm cách đọc cho Thế Thân nghe. Sau khi
nghe hết các bộ kinh và luận Đại Thừa đó, Thế Thân nhận ra Phật Giáo Đại Thừa
thật ra rất thâm sâu cả về lý thuyết lẫn thực hành, chứ không phải chỉ lý
thuyết suông như ngài hằng nghĩ trước kia. Hối hận vì xưa kia đã phỉ báng Đại
Thừa, ngài muốn cắt lưỡi tự tử. Các đệ tử của Vô Trước vội khuyên can và khẩn
thiết yêu cầu ngài tới thăm Vô Trước.
Thế Thân trở về Bá Lộ Sa
gặp Vô Trước và trong cuộc đàm luận với người anh về Phật Giáo Đại Thừa, ngài
đã nắm được các yếu chỉ của giáo lý Đại Thừa. Vô Trước khuyên Thế Thân không
nên tự tử mà nên dùng tài uyên bác của mình để quảng bá giáo lý Đại Thừa hầu
chuộc lại lỗi lầm phỉ báng Đại Thừa khi xưa.
Cũng có thuyết cho rằng
vì muốn thuyết phục em mình quay về với Đại Thừa, Vô Trước đã viết thư cho Thế
Thân báo rằng mình đang đau nặng và chỉ có thể yên tâm nhắm mắt nếu Thế Thân
hứa làm cho một việc, đó là đọc tất cả các kinh Đại Thừa cho mình nghe.
Dĩ nhiên là Thế Thân bằng lòng thỏa mãn lời yêu cầu của người anh. Sau
khi đọc hết các bộ kinh Đại Thừa mà Vô Trước đưa cho, Thế Thân hoát nhiên ngộ
nhập được ý nghĩa thâm sâu của Đại Thừa. Ngài hối hận tỏ ý muốn cắt lưỡi tự tử
để tạ cái tội đã phỉ báng Đại Thừa, nhưng Vô Trước đã can ngăn và khuyên ngài
hãy dùng cái lưỡi đã phỉ báng Đại Thừa khi xưa để hoằng dương chánh pháp Đại
Thừa.
Từ đó về sau, Thế Thân
chỉ chuyên tu trì, nghiên cứu, hoằng dương và trước tác các luận giải thuộc Đại
Thừa mà thôi. Ngài trước tác trên 500 luận giải Đại Thừa, trong đó có các luận
giải sau:
1. Chú giải về Trung
Biên Phân Biệt Luận
2. Duy Thức Nhị Thập
Tụng và chú giải
3. Đại Thừa Bách Pháp
Minh Môn Luận
4. Duy Thức Tam Thập
Tụng
5. Tam Tự Tánh
6. Phật Tánh Luận
Ngài tịch tại A Du Đà
(Ayodhya) thuộc Trung Ấn năm 396 Tây Lịch tức Phật Lịch 940, thọ 80 tuổi. Cũng
có thuyết cho rằng ngài tịch tại xứ Nepal thuộc Bắc Ấn.