DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
III
ĐẶC
TÁNH CỦA A LẠI DA THỨC
Đặc
tánh của thức A Lại Da được Bồ tát Thế Thân tiếp tục
diễn tả trong bài tụng thứ tư.
BÀI
TỤNG THỨ TƯ
Thị
vô phú vô ký
Xúc
đẳng diệc như thị
Hằng
chuyển như bộc lưu
A
la hán vị xả.
Dịch
là:
Tánh
vô phú vô ký
Các
biến hành cũng vậy
Hằng
chuyển như nước dốc
A
la hán thì xả.
Nghĩa
là tánh của A lại da thức không bị ngăn che, không phải
là thiện và cũng không phải là ác. Các tâm sở biến hành
Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư nương nơi A lại da thức cũng
không bị ngăn che và cũng vô ký, như như không thiện lẫn
không ác. A lại da thức sanh diệt, chuyển biến không ngừng
như dòng thác lũ. Đến địa vị A la hán thì xả.
Như
trên đã nói chỉ vì mê vọng nên Chân Tâm bị chiếu soi và
chuyển biến ra có các chủng tử và hiện hành. Các chủng
tử và hiện hành làm nhân duyên cho nhau, được huân tập
xông ướp mà biến đổi thành vô lượng các chủng tử và
hiện hành khác gồm đủ mọi chủng loại với đủ mọi tánh
chất, hữu lậu, vô lậu hoặc trung tánh. Vô lậu là thiện,
hữu lậu là ác, trung tánh là vô ký, là không thiện cũng
không ác. Các chủng tử và hiện hành cứ liên miên được
chiếu soi, chuyển biến rồi lại đem chứa vào trong Tàng Thức.
Tàng Thức ví như một nhà kho chứa tất cả các chủng tử
và hiện hành mà không phân biệt là loại gì, thiện, ác hay
là vô ký. Xấu hay tốt, nhiễm hay tịnh là tánh chất riêng
của các chủng tử và hiện hành chứ tánh chất của Tàng
thức thì không nhiễm cũng không tịnh, xấu hay đẹp là tự
ở các đồ vật trong kho chứ cái kho chứa chỉ có nhiệm
vụ chứa đựng mà thôi.
Các
chủng tử được gieo vào mảnh đất A lại da ví như các
hình ảnh xấu đẹp, xanh vàng phản chiếu trên mặt gương
sáng. Gương sáng nghĩa là gương không dính bụi, không bị
ngăn che, là tượng trưng cho tánh vô phú vô ký của thức
A lại da, nhận chứa tất cả các chủng tử mà không phân
biệt tốt xấu, thiện ác hay nhiễm tịnh.
Suy
lường, chấp trước và phân biệt giữa ta và người, tốt
và xấu, yêu và ghét, có và không, lớn và nhỏ, dài và ngắn,
nhơ và sạch là những hành tướng của Mạt na thức và Ý
thức, là nguyên nhân gây ra phiền não, làm chướng ngại tánh
giác khiến chúng sanh cứ mê mờ mà trôi lăn trong biển sanh
tử.
Nếu
nhân trong A lại da thức chứa nhiều chủng tử thiện thì
khi đầy đủ nhân duyên chín mùi thì sẽ chuyển biến và
hiện khởi ra quả báo là người hay là trời, còn ngược
lại nếu chứa nhiều chủng tử bất thiện thì sẽ hiện
khởi ra quả báo trong ba đường ác là súc sanh, ngạ quỷ
và địa ngục. Nhân thiện thì có thể được quả làm người,
nhân ác thì có thể bị quả làm súc sanh. Bản thân người
và bản thân súc sanh đó không có thiện và cũng không có
ác. Cho nên nói A lại da thức trong nhân có thiện có ác mà
quả Dị thục thì vô ký.
Tánh
chất của Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư
thì giống như tánh chất của Tâm vương mà chúng nương vào
nên tánh chất Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư tương ưng với
thức A lại da cũng vô phú vô ký.
Tất
cả các chủng tử tốt hoặc xấu đều được gieo vào mảnh
đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này
được huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương
diệt liên tục. Sự chuyển biến này xẩy ra liên tục và
tức thời, chớp nhoáng và liên tiếp, cái này diệt thì cái
kia sanh, tương tức tương tục liên miên bất tận nên nói
là Sát Na Sanh Diệt.
Sát
Na Sanh Diệt đó ví như một ngọn lửa cháy. Ngọn lửa tưởng
như liên tục nhưng thực ra là do sự liên tiếp cháy sáng
và chợp tắt của tim đèn khi có sự tiếp xúc giữa mồi
lửa, tim đèn và dầu. Mồi lửa này tắt làm phát sinh ngọn
lửa kế tiếp và ngọn lửa này lại làm mồi cho ngọn
lửa sau này khi nó tắt đi, ngọn lửa cứ tiếp tục cháy
cho đến khi không còn tim đèn hoặc không còn dầu hay
là khi có ngọn gió mạnh thổi tới làm tắt lửa mồi. Sự
sanh diệt liên tiếp đó cũng được ví như những khối nước
liên tục chuyển động trong dòng thác lũ, khối nước này
đổ qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên
tục không ngưng nghỉ, nên nói hằng chuyển như bộc lưu.
Nói không thể nào tắm được hai lần trên một dòng sông
là có ý nói nước sông luôn lưu chuyển, dòng nước này chẩy
qua thì dòng nưóc khác chẩy tới, dòng nước cũ không thể
chẩy trở lại nơi mà nó đã chẩy qua.
Sự
sanh diệt triền miên đó cũng ví như những đợt sóng dạt
dào trên biển cả, cứ đợt sóng này đẩy đợt sóng kia,
đợt sóng mới đẩy đợt sóng cũ, sóng cũ diệt thì sóng
mới sanh. Gió vọng tưởng thổi sóng dạt dào trên biển cả,
các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên rồi lặn xuống không ngưng
nghỉ, ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng mới khởi sanh. Xin
lập lại bài kệ của đức Phật nói trong kinh Lăng Già Tâm
Ấn:
Ví
như sóng biển cả
Đây
do gió mạnh thổi
Sóng
to vỗ biển rộng
Không
có khi đoạn dứt
Biển
Tàng thức thường trụ
Gió
cảnh giới nổi dậy
Lớp
lớp các sóng thức
Ào
ạt mà chuyển sanh.
Các
chủng tử và hiện hành trong A lại da thức đều được huân
tập và chuyển biến một cách tiềm ẩn, âm thầm trở thành
vô lượng các chủng loại với đủ mọi tánh chất. Các tánh
chất này gồm cả hữu lậu, vô lậu lẫn vô ký.
Lậu
nghĩa là rỉ chẩy, rơi rớt như thùng nước bị lủng, như
nhà bị dột. Hữu Lậu có nghĩa tâm bị phiền não và các
pháp nhiễm ô làm cho phân tán liên tục.
Ngược
với pháp hữu lậu là các pháp Vô Lậu thanh tịnh. Khi tu tập
các pháp Ba La Mật thì các chủng tử vô lậu được huân
tập, tăng trưởng, phát sinh ra hiện hành. Các hiện hành được
huân tập trở vào thức A lại da thành các chủng tử vô lậu
mới. Tùy theo tánh chất của các chủng tử vô lậu mới này
mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẵn có nơi tàng thức bị
suy thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẵn có
trong đó được tăng trưởng và phát sanh thêm. Nếu tiếp
tục huân tập các pháp vô lậu thanh tịnh tới một lúc mà
tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn toàn bị
triệt tiêu thì lúc đó hành giả đã đạt được quả vị
A la hán nếu là hàng Thanh văn, tu theo Tiểu thừa; còn nếu
tu theo Đại thừa thì đó là bậc Bồ tát đệ bát địa.
Ở
quả vị này tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu.
Các hạt giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân
hồi sanh tử không còn nữa, A lại da thức chuyển đổi thành
Bạch tịnh thức. Bạch tịnh thức còn được gọi là vô
cấu thức. Khi này thức thứ tám không còn được gọi là
thức A lại da nữa vì không còn chứa các chủng tử hữu
lậu nên bài tụng nói A la hán vị xả. Xả tức là xả
hết các hữu lậu chứ không phải là không còn thức A lại
da nữa. Thức A lại da lúc này được gọi là Bạch tịnh
thức hay là Vô cấu thức. Tùy theo tính chất nhiễm hay tịnh
mà thức này có các tên gọi khác nhau chứ không phải là
thức này đoạn diệt và thức khác sanh vì nếu đoạn diệt
thì không thể nào duy trì sự tiếp nối của căn thân, thế
giới và các hành tướng của nghiệp được.
Tuy
nói là tới địa vị A la hán thì các chủng tử hữu lậu
làm chướng ngại chân tâm bị hủy diệt nhưng thật ra hãy
còn những chủng tử hữu lậu vi tế câu sanh nằm tiềm ẩn
trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị A la hán hồi
đầu theo đại thừa và các vị Bồ tát đệ bát địa tiếp
tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được gọi
là Thắng Pháp Không Quán, vượt khỏi bậc Bồ tát Thập địa
đến bậc Đẳng Giác, khởi Kim Cang Dụ Định đạt được
tới Phật Quả thì thức thứ tám này mới gột rửa được
tất cả các vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đai
Viên Cảnh Trí. Quả vị này là Quả Vị Chuyển Y khi thức
chuyển thành trí, là quả vị mà thức đã chuyển trở lại
được với cái thể thanh tịnh của Chân Tâm, ví như mặt
gương sáng chiếu soi vạn tượng một cách chân thật như
thị bất khả tư nghì.
Khi
còn giữ các chủng tử hữu lậu thì thức A lại da chỉ
tương ưng với năm món tâm sở biến hành mà thôi. Khi ấy
A lại da thức không tương ưng với 5 món Tâm sở biệt cảnh
Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ vì Dục chỉ mong muốn
những việc của nó muốn còn A lại da thức thì không mong
muốn; Thắng giải thì rành rẽ những việc đã quyết định
còn A lại da thức thì chỉ là nơi chứa đựng, dung nạp chứ
không phải là nơi quyết định; Niệm thì nhớ lại những
việc đã qua còn thứ A lại da thì chỉ chứa nhóm thôi chứ
không ghi nhớ; Định thì khiến cho Tâm chuyên chú vào một
cảnh còn A lại da thức thì sát na sanh diệt tương tục không
chuyên vào cảnh nào cả; Huệ thì biết rốt ráo mọi việc
còn thức A lại da thì không phân biệt chọn lựa bất cứ
việc gì.
Thức
A lại da thì trong nhơn có thiện có ác mà quả thì dị thục
vô ký nên cũng không tương ưng với 11 món Thiện tâm sở
cùng 6 món Căn bản phiền não và 20 món Tùy phiền não. Còn
4 món Bất định tâm sở Hối, Miên, Tầm và Tứ thì lại
gián đoạn nên cũng không tương ưng với A lại da thức.
Khi
chuyển thức thành trí thì nó tương ưng với 21 món tâm sở
gồm 5 món biến hành, 5 món biệt cảnh và 11 món thiện. Để
ôn tập, các món này được liệt kê như sau:
5
món biến hành: Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
5
món biệt cảnh: Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Huệ.
11
món thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn,
Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại.
Ngài
Hộ Pháp Bồ tát viết trong Thành Duy Thức Luận như sau:
Ở
địa vị vô lậu, A lại da thức nhiếp thuộc thiện tánh,
tương ưng với 21 tâm sở là 5 món biến hành, 5 món biệt
cảnh và 11 món thiện vì:
thường
tương ưng với nhất thiết tâm, tức là đi cùng với tất
cả mọi tâm thức (Biến hành)
thường
ưa chứng tri cảnh sở quán, tức muốn biết tất cả các
đối tượng (Dục)
thường
ẩn nhập kiên trì nơi cảnh sở quán, tức biết rõ các đối
tượng (Thắng giải)
thường
nhớ rõ cảnh đã trải qua (Niệm)
không
lúc nào không có định tâm (Định)
thường
quyết trạch hết thẩy pháp, hiểu rõ các pháp (Huệ)
có
lòng tin cực tịnh nên tương ưng 11 thiện pháp.
Vì
không ô nhiễm nên không tương ưng các món căn bản và tùy
phiền não. Vì không quyết định và hành động nên không
tương ưng với các món tâm sở bất định hối, miên, tầm
và tứ.
Chỉ
tương ưng với xả thọ vì hành tướng của nó thuần trực
giác và tiềm ẩn. Ở địa vị này A lại da thức chuyển
thành Đại Viên Cảnh Trí và lấy tất cả pháp làm cảnh
sở duyên.
Nếu
phân chia ra thì có vô lượng pháp môn để tu trì trên tiến
trình đưa đến cảnh giới Chân Như nhưng tất cả các pháp
đó đều nằm trong ba pháp căn bản là Giới, Định và Huệ.
Thí dụ như Lục Độ Vạn Hạnh gồm Bố thí, Trì giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ mà bố thí, trì
giới, nhẫn nhục và tinh tiến đều nằm trong Giới.
Khi
hành giả tu hành đến mức độ mình luôn luôn sống với
giới luật thì đâu còn giới gì mà trì. Mà nếu không có
giới để trì thì làm gì có người trì giới vì trì giới
là việc luôn luôn và lúc nào cũng làm cả rồi thì danh từ
trì giới đâu có lý do hiện hữu, trì giới được nói đến
vì có sự phạm giới mà đã luôn luôn sống trong giới luật
thì làm gì có sự phạm giới.
Cũng
vậy khi hành giả sống hoàn toàn trong cảnh giới bố thí,
thấy người đau khổ thì bố thí, cần ăn cho ăn, cần uống
cho uống, cần thuốc cho thuốc, cần lời an ủi cho lời an
ủi, cần pháp cho pháp. Bố thí cho đến không người bố
thí và cũng không có kẻ được bố thí. Bố thí như vậy
thì làm sao các ác nghiệp khởi lên được. Làm sao các món
căn bản phiền não có thể khởi lên được. Chỉ bố thí
thôi thì đâu có nghĩ đến lấy gì của ai mà tham nổi lên
được, không mong ai làm gì cho mình nên sân cũng không nổi
lên được, chỉ bố thí mà không nghĩ đến của bố thí,
người nhận bố thí và người bố thí thì làm sao kiêu, mạn
và ác kiến nổi lên được. Và khi đã bố thí như vậy thì
hành giả đã là người có tín tâm vô lượng vô biên thì
làm sao nói hành giả đó còn si mê cho được. Chỉ bố thí,
bố thí và bố thí thì làm sao hổ thẹn với mình, làm gì
có việc gì xấu phải che dấu người, làm gì có các món
Vô tàm và Vô quý là các món trung tùy thuộc Tùy phiền não.
Cho đến mười món tiểu tùy trong Tùy phiền não như là phẫn,
hận, phú, não, tật, xan, cuống, siễm, hại, kiêu cũng không
thể tương ưng được.
Tương
tự như vậy khi hành giả luôn luôn có chánh niệm trong khi
ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi tức là luôn luôn sống trong
cảnh giới chân thật (tức là có định và tuệ) thì tám
món đại tùy trong Tùy phiền não như trạo cử, hôn trầm,
bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất
chánh tri và bốn món Tâm sở bất định như hối, miên, tầm,
tứ làm sao mà hiện hữu được. Và dĩ nhiên luôn luôn tương
ưng với mười một món thiện là tín, tàm, quý, vô tham, vô
sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả và
bất hại.
Vì
vô minh nên khởi vọng niệm. Vì có vọng niệm nên phát sinh
kiến phần và tướng phần. Các kiến phần và tướng phần
luân phiên huân tập thành chủng tử và hiện hành. Các chủng
tử và hiện hành trùng trùng duyên khởi, tương sanh tương
duyên tạo nên nghiệp nhân và đến khi chín mùi thì chuyển
hiện thành nghiệp quả, là căn thân mới trong một quốc độ
mới. Cùng cộng nghiệp thì chúng sanh có chung loài thọ mạng
và sống chung trong cùng một quốc độ.
Cùng
cộng nghiệp, cùng loại thọ mạng và cùng sống chung trong
một quốc độ mà mỗi chúng sanh lại có một cuộc sống
tâm linh và vật chất khác biệt nhau vì mỗi chúng sanh đều
có những nghiệp riêng gọi là biệt nghiệp. Vì những biệt
nghiệp này mà mỗi chúng sanh có những quả báo khác nhau.
Ví dụ cùng thọ mạng làm người chẳng hạn, con người có
những nghiệp báo khác nhau nên có những môi trường sinh sống,
những suy nghĩ, những tin tưởng, những mục đích, những
lý tưởng, những lựa chọn và những hành động khác nhau.
Chính vì những khác biệt về tâm ly, sinh và vật lý đó mà
đức Thế Tôn đã phải tùy theo trình độ, căn cơ của mỗi
hạng người mà phương tiện chỉ bày ra những pháp môn phù
hợp hầu nâng tâm thức của chúng ta lên để có thể từ
từ hội nhập được vào tri kiến của Phật.
Người
thượng căn thì ngay đó giác ngộ được chân tâm, người
trung căn và hạ căn thì phải thứ lớp tiệm tu. Tu trì thì
có mau có chậm nhưng khi giác ngộ được chân tánh thì đồng
một thể chân như. Hãy nghe tổ Hoàng Bá nói trong Truyền Tâm
Pháp Yếu:
Phật
cùng chúng sanh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không
tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp
thiên hạ; khi mặt trời lên, chiếu sáng khắp nơi, hư không
chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn, u tối khắp nơi, hư không
chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của
hư không thì rỗng rang không thay đổi. Tâm của Phật và tâm
của chúng sanh cũng như vậy. Nếu quán Phật mà thấy cái
tướng thanh tịnh, quang minh, giải thoát và nếu quán chúng
sanh mà thấy cái tướng ô nhiễm, ám muội, sanh tử thì với
kiến giải như thế, trải qua hằng hà sa số kiếp vẫn không
đạt được chứng quả Bồ đề. Đấy là vì chấp sắc tướng
vậy.
Chỉ
có tâm này thôi, ngoài ra không có một chút mảy may pháp gì
có thể đạt được. Tức Tâm là Phật.
Tâm
đó là tâm vô tâm. Xa rời mọi tướng, chúng sanh và chư Phật
đều không khác. Chỉ cần được vô tâm thời đấy là cứu
cánh. Người học Đạo nếu không ngay đó mà được cái vô
tâm thì tu hành kiếp kiếp, rốt cũng không thành Đạo, bị
công hạnh tu tập của tam thừa trói buộc không thể giải
thoát được.
Chứng
được tâm này thì có mau có chậm. Có kẻ mới nghe pháp liền
được vô tâm. Có kẻ đến thập tín, thập trụ, thập hạnh,
thập hồi hướng mới được vô tâm. Lại có kẻ đến hàng
thập địa mới được vô tâm. Dù mau dù chậm, hễ cứ được
vô tâm là an trụ ở đó chứ chẳng còn gì để tu, để chứng
nữa. Thật chẳng có gì sở đắc. Sự thực như vậy, quả
không hư dối.
Trong
kinh Lăng Nghiêm có nói đến 57 thứ lớp mà hành giả phải
trải qua. từ Càn Huệ Địa tiến dần lên đến các quả
vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ
Gia Hạnh, rồi đến mười hai quả vị sau cùng là Thập Địa,
Đẳng Giác và Diệu Giác. Có nơi chỉ liệt kê 52 quả vị
vì không nhắc địa vị đầu tiên là Càn Huệ Địa và bốn
thứ gia hạnh..
Không
bắt buộc phải theo các thứ lớp đó mới đến quả vị
sau cùng là Diệu Giác, một vị bồ tát ở bất cứ địa
vị nào cũng có thể ngay đó bừng nở Tâm thức và ngộ nhập
được quả vị viên mãn sau cùng, thấy được Thật Tánh
Chân Như, thấy được cái Như Huyễn Tam Muội, thấy được
cái Chân Minh Diệu Không. Nơi đó không có người tu và pháp
tu, không có Phật và chúng sanh, không có người đắc và pháp
để đắc. Tất cả như hòa vào một, một là tất cả và
tất cả là một. Pháp giới trùng trùng điệp điệp hiện
ra trên đầu một sợi tóc, một sợi tóc bao trùm cả tam thiên
đại thiên thế giới. Tất cả đều từ cái Chân không Diệu
Hữu, tức Thể Tánh Chân Như, tức Biển Tỳ Lô Tánh Hải,
tức Biển Diệu Tâm bất khả tư nghì chuyển biến ra.
Còn
tu tập theo thứ lớp thông thường thì mười quả vị sau
cùng của hàng Thập Địa Bồ Tát trước khi đến quả vị
Đẳng Giác và Diệu Giác là: Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa,
Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Cực Nan Thắng Địa, Hiện
Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ
Địa và Pháp Vân Địa.
Hàng
bồ tát khi đến đệ bát địa thì không còn hai món phiền
não chướng và sở tri chướng nữa; các việc làm đã dứt,
không còn hiện khởi tâm thế gian nữa, ngay cả tâm Phật,
tâm Bồ tát và tâm Niết bàn cũng không hiện khởi vì là
bậc Xuất Thế Gian Vô Sở Đắc Trí. Quả vị này gọi là
Bất Động Địa tương đương với quả vị A la hán của
hàng Thanh văn.
Khi
đến bậc này thức thứ tám xả cái tên A lại da thức vì
không còn phiền não vô minh che lấp, không có các chủng tử
hữu lậu để huân tập nữa. Không còn vật để chứa thì
đâu cần kho để chấp chứa nên các tên gọi là kho chứa,
là tàng thức hay là a lại da thức không còn tồn tại nữa,
khi ấy A lại da thức chuyển thành Bạch Tịnh Thức hay là
Vô Cấu Thức.
Trong
Bách Pháp Quy Củ Tụng có kệ rằng:
Bất
động địa tiền tài xả tạng
Kim
cang đạo hậu Dị thục không
Đại
viên vô cấu đồng thời phát
Phổ
chiếu thập phương trần sát trung.
Dịch
là:
Đến
Bất động địa bỏ tên Tàng
Chứng
Kim cang đạo, không Dị thục
Gương
trí không nhơ đồng thời phát
Khắp
chiếu mười phương vô số cõi.
Có
nghĩa là khi đến đệ bát địa thì thức thứ tám không còn
có tên là Tàng thức hay A lại da thức nữa mà chỉ gọi là
Dị thục thức. Khi đến địa vị Đẳng Giác tức là chứng
được Kim Cang Đạo thì tên Dị thục cũng không còn nữa
vì không còn câu sanh pháp chấp và không còn cảm thọ về
sanh tử nên không còn nhận nghiệp quả dị thục nữa. Khi
ấy các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này
chuyển thành trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các
cõi nhiều như vi trần nên gọi là Đại Viên Cảnh Trí. Lúc
này vị Bồ tát có thể tùy duyên hóa hiện khắp pháp giới
hoằng pháp hóa độ chúng sanh.