DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
XI
TAM
TÁNH
Các
sự chuyển biến bên trong tâm thức đều do các chủng tử
và hiện hành làm nhân duyên cho nhau mà hiện khởi. Tất cả
dều trải qua các chu kỳ của nhân duyên, sở duyên duyên,
đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên. Tất cả các hành
tướng này đều thật âm thầm và vi tế mà tri giác
không thể nhận biết được. Như đã nói trong các chương
trước, các chủng tử và hiện hành cứ bị chiếu soi, phân
biệt, khi thì là nhân, khi thì là quả. Chủng tử bị chiếu
soi thành quả hiện hành, hiện hành này lại được đưa vào
tâm thức để thành một chủng tử mới. Các chủng tử và
hiện hành trong A lại da thức cứ liên tục huân tập và chuyển
biến, cứ hết làm nhân thì lại làm quả, tương duyên tương
sanh, cứ thế mà chuyển biến mà huân tập, làm sanh khởi
ra đủ loại mầm mống của các pháp khác nhau. Vì A lại da
thức có cái khả năng lưu giữ tất các mầm mống của đủ
mọi pháp trong tam giới lục đạo nên duy thức còn gọi nó
là Nhất Thiết Chủng Thức. Hãy bàn về bài tụng thứ
mười tám của Bồ tát Thế Thân.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI TÁM
Do
Nhất Thiết Chủng Thức
Như
thị như thị biến
Dĩ
Triền Chuyển lực cố
Bỉ
bỉ Phân Biệt sanh.
Dịch
là:
Do
thức Nhất Thiết Chủng
Biến
như vậy như vậy
Vì
năng lực Triền Chuyển
Kia
kia Phân Biệt sanh.
Chỉ
vì mê vọng mà Tâm thể vốn uyên nguyên trong sáng và không
ngằn mé khởi ra có cái năng chiếu soi và cái sở chiếu soi,
khiến bị nhiễm ô và lưu ngại rồi kết cấu lại thành
cái tàng thức chứa đủ mọi hạt giống của sanh tử luân
hồì.
Bồ
tát Thế Thân nói biến như vậy như vậy là muốn diễn tả
sự chuyển biến liên tục không ngưng nghỉ. Sự chuyển biến
trùng trùng duyên khởi của các chủng tử nơi Tàng Thức là
nguyên nhân của tất cả các nghiệp chướng sau này.
Cái
năng lực tự tăng trưởng, xông ướp, huân tập, chuyển biến
sanh khởi liên tục triền miên không ngưng nghỉ của các chủng
tử và hiện hành nơi A lại da thức, được gọi là cái Năng
Lực Triền Chuyển. Vì cái năng lực Triền Chuyển chiếu soi
này mà các chủng tử và hiện hành trong A lại da thức bị
phân biệt liên tục mà khởi sanh ra vô lượng hạt giống
sanh tử. Các hạt giống này có đủ loại, xấu có, tốt có
và có cả không tốt lẫn không xấu.
Ngài
Thế Thân dùng chữ bỉ bỉ (kia kia) là có ý nói rất nhiều,
vô lượng hạt giống của các pháp đều do cái năng
lực Triền Chuyển này mà khởi sanh.
Sự
chiếu soi và huân tập liên tục trong A lại da thức tạo nên
một dòng nghiệp lực. Vì sức mạnh của các nghiệp lực
này mà chúng sanh bị luân hồi trong sanh tử.
Hãy
nghe Bồ tát Thế Thân nói về các nghiệp lực này trong bài
tụng thứ mười chín.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI CHÍN
Do
chư nghiệp tập khí
Nhị
thủ Tập Khí câu
Tiền
Dị Thục ký tận
Phục
sanh dư Dị Thục.
Dịch
là:
Do
tập khí các nghiệp
Cùng
tập khí hai Thủ
Nên
Dị Thục trước hết
Lại
sanh Dị Thục sau.
Như
trên đã nói các chủng tử có cái khả năng tự chuyển biến,
tự huân tập, tự tăng trưởng thuần thục và chín mùi rồi
chuyển hiện ra quả Dị Thục. Những huân tập, tăng trưởng
và chuyển biến đó tạo ra những tập khí, tức là những
thói quen. Những thói quen này lâu dần sẽ tạo ra cái nghiệp
lực. Khi nghiệp lực chín mùi thì sanh ra nghiệp báo. Khi cái
nghiệp báo này hết rồi thì lại có nghiệp báo khác sanh
ra.
Tóm
lại nguyên nhân của sanh tử luân hồi là vì các thói quen
phân biệt do mê vọng mà khởi sanh. Do mê vọng mà Chân tâm
bị chia ra làm hai phần, kiến phần và tướng phần tức là
phần chủ thể và phần đối tượng. Mạt na thức chấp chặt
vào hai phần này và khởi ra hai caí thủ (nhị thủ) mà duy
thức gọi là năng thủ và sở thủ.
Năng
thủ tức là cái năng chiếu soi và phân biệt, là cái chủ
thể chiếu soi và phân biệt. Sở thủ là các pháp bị chiếu
soi và phân biệt nghĩa là cái đối tượng bị chiếu soi và
phân biệt. Nói một cách đơn giản thì các năng chiếu soi
và phân biệt đó gọi là các niệm khởi nơi tâm thức. Các
niệm này cứ liên tục sanh khởi như dòng thác lũ, cứ hết
dòng nước này qua thì có dòng khác chẩy tới, không lúc nào
ngưng nghỉ. Cứ mỗi lần niệm khởi là có một dòng nghiệp
lực, theo thời gian khi đủ duyên thì sanh khởi một quả báo
tương ưng. Các niệm thì cứ liên tục sanh khởi, niệm niệm
sanh khởi, nên các quả báo cũng vậy. Vì thế cho nên bài
tụng nói dị thục trước hết lại sanh dị thục sau.
Các
phân biệt và chiếu soi đó làm cho các pháp bị biến đổi
khác với cái chân thật của chúng. Sự thấy khác đó được
duy thức học gọi là Biến Kế Sở Chấp. Hãy nghe Bồ tát
Thế Thân diễn tả tánh Biến Kế Sở Chấp trong bài tụng
thứ hai mươi.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI
Do
bỉ bỉ biến kế
Biến
kế chủng chủng vật
Thử
Biến Kế Sở Chấp
Tự
tánh vô sở hữu
Dịch
là:
Do
kia kia biến kế
Biến
kế mọi mọi vật
Biến
Kế Sở Chấp này
Tự
tánh không thật có
Bỉ
bỉ biến kế là muốn nói đến cái tác dụng biến kế tức
là cái năng biến kế. Do cái năng biến kế này mà mọi vật,
mọi sự, mọi ngã và pháp trong tam giới lục đạo bị phân
biệt và chấp trước.
Biến
kế chủng chủng vật là nói đến đối tượng bị biến
kế tức là cái sở biến kế. Chủng chủng là mọi sự, mọi
vật, mỗi cái, mỗi cái đều bị so đo và phân biệt. Tất
cả các ngã và pháp đều do phân biệt chấp trước mà chuyển
biến sai khác.
Bồ
tát Thế Thân nói biến kế sở chấp này tự tánh không thật
có. Tánh biến kế sở chấp không thật có mà chỉ vì mê
lầm mà hiện khởi. Tánh biến kế sở chấp ví như sự tưởng
tượng một vật không thật có thành ra có, hoặc thấy một
sự việc một cách sai lầm thành ra sự việc khác. Tỷ như
trong hư không không có hoa đốm mà vì bị bệnh nơi con mắt
mà thấy có hoa đốm; như trong sa mạc, nhìn ánh nắng chiếu
nơi xa tưởng là mặt nước hoặc trong bóng tối nhận lầm
sợi dây là con rắn.
Trong
kinh Lăng Nghiêm, Phật nói với ông Phú Lâu Na rằng các pháp
nguyên là Chơn, là Tánh Giác Diệu Minh nhưng nếu mình vọng
chấp phát minh ra có hư không, đất, nước, gió, lửa thì
mỗi thứ mỗi hiện ra. Các sự hiển hiện ra đó là do hư
vọng. Hãy đọc lời kinh này:
"Tánh
Giác Diệu Minh chơn thật cũng lại như thế. Nếu ông phát
minh cái hư không thì có hư không hiện ra; địa đại, thủy
đại, hỏa đại, phong đại mỗi thứ mỗi phát minh thì mỗi
thứ hiện ra; nếu cùng phát minh thì cùng hiện ra. Thế nào
là cùng hiện ra? Phú Lâu Na, như trong một ao nước hiện ra
một bóng mặt trời. Hai người đồng xem bóng mặt trời trong
ao nước, một người đi qua hướng đông, một người đi
qua hướng tây, thì hai bên đều có mặt trời đi theo mình,
một về phương đông, một về phương tây, không có chuẩn
đích trước. Không nên gạn hỏi mặt trời đó chỉ có một,
làm sao mỗi cái lại đi theo mỗi người? Mặt trời đã thành
hai, làm sao hiện chỉ có một? Hư vọng xoay vần như thế,
không thể lấy gì làm bằng cứ".
Trong
một đoạn kinh trước đó, Phú Lâu Na hỏi Phật rằng chân
tâm vốn là giác rồi thì tại sao lại khởi vọng chiếu soi
để đến nỗi nó chuyển biến ra sơn hà hải địa, thế
giới và vũ trụ như chúng ta hiện thấy. Phật hỏi ông Phú
Lâu Na rằng theo ông thấy thì cái sáng suốt gọi là tánh
giác (vi phục tánh minh xưng danh vi giác) hay là cái không sáng
suốt gọi là tánh giác (vi giác bất minh xưng vi minh giác).
Phú Lâu Na trả lời nếu nói không sáng suốt là tánh giác
thì không có gì là sáng cả (nhược thử bất minh danh vi giác
giả, tắc vô sở minh). Phật dậy: Theo ông thì không sáng
suốt không phải là tánh giác vì nó không thấy đúng, nhưng
nếu nói sáng suốt là tánh giác thì cũng không trúng vì khi
thấy là có phân biệt thì không còn là chơn nữa, không còn
là tánh giác trạm minh (vắng lặng mà sáng suốt) nữa. Tánh
giác vốn vắng lặng nhưng vì vọng động mà có năng đối
với sở.
Thật
ra không thể dùng lời nói để chỉ ra cái rốt ráo của Chân
Tâm. Không thể dùng lời lẽ giới hạn để chỉ bày
một cái vô giới hạn. Phật nói ra thì chỉ cho hạng A la
hán đã có công năng tu trì thâm hậu mới nương vào đó trực
ngộ thôi chứ hạng sơ cơ như chúng ta cứ lấy cái tâm phân
biệt để tìm hiểu thì biết đến bao giờ mà khai ngộ.
Lời
nói của Phật là lời nói của vị đã tu hành đến quả
vô lậu thì không thể nào nghĩ bàn được. Chúng ta phải
tin và dựa vào đó để tu hành thiền quán, diệt tham sân
si cho đến khi đắc quả bồ đề. Lời Phật nói chưa từng
sai. Khoa học càng tiến bộ thì con người càng thấy rõ sự
chân thực của các lời kinh. Phật từng nói hãy quán trong
bát nước có tám vạn bốn ngàn chúng sanh, sau này khoa học
quả nhiên khám phá trong nước có rất nhiều vi trùng. Kinh
thường nói đến chữ tam thiên đại thiên thế giới,
có nghĩa là ngoài vũ trụ này còn có hằng tỷ tỷ vũ trụ
khác và quả nhiên bây giờ với những siêu viễn vọng kính
con người đã có thể thấy hằng triệu triệu các giải ngân
hà khác ngoài giải ngân hà mà chúng ta đang hiện hữu. Phật
nói chỉ có một cái khẩy móng tay thôi mà âm ba của nó cũng
đi tận tới tam thiên đại thiên thế giới và quả nhiên
bây giờ với hệ thống vệ tinh ta có thể bắt được các
làn sóng âm thanh thật nhỏ nhiệm và vi tế từ nơi thật
xa xôi và do đó đã phát minh ra mạng lưới liên lạc viễn
thông bằng những điện thoại không dây. Phật nói tam thiên
đại thiên thế giới có thể thâu tóm trong một hạt cải
và một hạt cải có thể chứa được tam thiên đại thiên
thế giới thì nay với đà phát minh của điện toán người
ta có thể phát minh ra một thứ kim loại nhỏ xíu mà khả
năng của nó có thể lưu giữ hàng tỷ tỷ dữ kiện. Trong
kinh Phật thường nói đến những quang minh tức những ánh
sáng thì bây giờ với sự nghiên cứu về vật lý quang năng,
các nhà khoa học có thể dùng các kính cực vi điện tử,
phóng đại cái nhỏ nhiệm nhất mà ta thường gọi là nguyên
tử, nhìn sâu vào trung tâm cái nhân của nó và quả nhiên
thấy các vật chất không còn hoàn toàn là vật chất nữa
mà là những làn sóng chuyển biến kỳ diệu, chợt hiện rồi
chợt biến, khi thì là vật chất khi thì là những làn sóng
với những tần số và chu kỳ thay đổi chuyển biến thật
nhịp nhàng và linh động.
Đó
là chỉ nói sơ sơ thôi chứ viết ra hết thì không cùng. Ta
đã thấy những cái bất khả tư nghì như thế trong các lời
kinh, thế mà sau Phật cả hơn hai ngàn năm, vào khoảng thế
kỷ thứ 16 giáo hội Ky Tô giáo đã hành hạ, tra tấn và bỏ
tù Galilleo Galilei vì ngài dám nói trái đất tròn trong khi kinh
thánh hồi đó nói trái đất hình vuông. Galileo là một nhà
toán học và đã dùng toán học mà chứng minh rằng trái đất
tròn. Bị hành hạ và tra tấn quá nên trước toà án ngài
cũng phải thều thào nói vâng nếu quý ngài muốn tôi nói
nó là vuông thì tôi nói nó là vuông, nhưng dù nói nó là vuông
thì sự thật nó vẫn tròn. Vì vậy mà Galileo bị bỏ tù chung
thân.
Albert
Einstein, một nhà vật lý học của thế kỷ 20, nổi tiếng
với thuyết tương đối vì đã tìm ra định luật tương quan
giữa vật chất và năng lượng với công thức E=mc2, có nghĩa
là năng lượng bằng tích số của khối lượng và bình phương
của vận tốc, trong đó E là năng lượng, m là trọng khối
và c là là vận tốc. Nhưng với một tốc độ nhanh hơn tốc
độ của ánh sáng tức là nhanh hơn 300,000 km/sec thì định
luật này không đứng vững được. Einstein với trực giác
siêu việt đã phải tuyên bố trước khi chết là nếu phải
lựa chọn một tôn giáo để theo thì tôi chọn Phật giáo
vì Phật giáo thật sự nhân bản và hợp với khoa học. Đó
là nói sơ lược về những bất khả tư nghì, những điều
không thể nghĩ bàn, vượt trên sự suy luận của tri thức
thường tình đối với những lời kinh xưa.
Các
pháp vốn như huyễn nhưng vì Biến Kế Sở Chấp mà chuyển
hiện ra có chủng tử và hiện hành, kiến phần và tướng
phần, tâm thức và hiện tượng. Các năng và sở này làm
nhân duyên cho nhau, trùng trùng duyên nhau mà hiện khởi chứ
thật ra không có tự tánh cố định chân thật. Vì cái này
có nên cái kia có, nên nói các pháp đều duyên khởi.
Cái
nhà không phải là cái nhà, chỉ là tên gọi thôi. Cái nhà
sở dĩ có được là do có người muốn xây dựng, có người
vẽ họa đồ, có người thợ hồ, thợ mộc, có các vật
dụng như thang, dây, cuốc, xẻng, gỗ, đá, vôi, hồ, v.v...
Cho nên nói cái nhà không có tự tánh cái nhà, không có cái
tánh nhất định của nó. Vì bởi do những cái không phải
là nó duyên hợp lại nên cái nhà không có tự tánh là cái
nhà mà chỉ là quy ước đặt tên cho nó là cái nha mà thôi.
Nói
rộng ra mọi sự, mọi vật, tất cả các ngã và pháp trong
tam giới lục đạo đều không có tự tánh chân thật, không
có tự tánh cố định. Chúng chỉ nương nhau mà hiện hữu,
vì cái này có nên cái kia có nên nói chúng đều là y tha khởi.
Bồ
tát Thế Thân nói về Y Tha Khởi trong bài tụng thứ hai mươi
mốt như sau.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI MỐT
Y Tha
Khởi tự tánh
Phân
biệt duyên sở sanh
Viên
Thành Thật ư bỉ
Thường
viễn ly tiền tánh.
Dịch
là:
Tự
tánh Y Tha Khởi
Do
duyên phân biệt sanh
Viên
Thành Thật nơi đó
Xa
lìa Biến Kế trên.
Tất
cả các cảnh giới, tất cả các Ngã và Pháp trong Tam Giới
Lục Đạo, đều do Tâm thức chuyển hiện ra bởi những chiếu
soi, phân biệt và chấp trước có từ vô thủy. Sự chiếu
soi, phân biệt và chấp trước cũng được gọi là tánh Biến
Kế Sở Chấp, là tánh so đo chấp trước cùng khắp mọi thứ.
Vì
biến kế phân biệt mà các pháp làm nhân duyên cho nhau, tương
duyên tương sanh, trùng trùng duyên khởi làm hiện ra thân mạng
chánh báo và thế giới y báo của chúng ta. Y báo và Chánh
báo này là Đới Chất Cảnh, là cảnh giới không có tự tánh
chân thật, không có cái thể tánh cố định, là cảnh giới
dời đổi và sanh diệt liên tục.
Trong
cảnh giới này, tất cả đều nương nhau mà hiện hữu. Cái
cây kia không thể nào hiện hữu được nếu không có mảnh
đất để bám víu vào. Nó không thể tăng trưởng nếu không
có đầy đủ ánh sáng và nước. Nó sẽ khô héo và tàn lụi
khi bị hạn hán tức là khi bị nóng cháy và không có mưa.
Khi đủ duyên, tức là khi mưa nắng thuận hòa thì tăng trưởng
xanh tươi, khi hết duyên tức là khi nắng cháy hoặc ngập
lụt thì héo hon hay mục nát mà tàn tạ. Cái cây đó không
có tự tánh là cái cây vì nó do rất nhiều thành phần tạo
thành. Nào là rễ cây, vỏ cây, nhánh, lá, hoa, quả, v.v...
Cái cây không phải là rễ, vì nếu nó là rễ thì gọi nó
là rễ chứ không gọi là cây. Nó cũng không phải là thân,
vì nếu là thân thì gọi nó là thân chứ không gọi là cây.
Tóm lại cái cây có được là do những thành phần không phải
là cây duyên nhau mà hiện hữu.
Tất
cả mọi cảnh giới đều do những đối tượng của cái tâm
phân biệt duyên nhau mà sanh khởi. Tất cả mọi cảnh giới
đều không có tự tánh cố định, chúng đều do các thành
phần khác với chúng duyên nhau mà thành lập. Nên nói tất
cả các pháp đều là Y Tha Khởi. Hai câu đầu của bài tụng
này Y tha khởi tự tánh phân biệt duyên sở sanh có ý muốn
nói tất cả các ngã và pháp đều do phân biệt duyên khởi
mà sanh ra, chúng đều là giả hợp, không cố định, không
thường còn, không có tự tánh, chúng đều nương nhau mà hiện
hữu.
Vì
sự chấp trước và phân biệt của Biến Kế Sở Chấp mà
các Ngã và Pháp vốn là huyễn mà lại được chấp là thật
có, rồi khởi sinh phân biệt là có hiện hữu, không hiện
hữu, giống nhau, khác biệt, là có cả hiện hữu lẫn không
hiện hữu, có cả khác biệt lẫn không khác biệt, là không
có cả hiện hữu lẫn không hiện hữu, không có cả khác
biệt lẫn không khác biệt. Tất cả những đối đãi có không
đó đều do biến kế sở chấp mà có.
Các
thí dụ sợi dây bị nhận lầm là con rắn, sóng nắng mà
tưởng là mặt hồ và các cây lau gác lên nhau mà tưởng là
người được thấy rải rác trong các kinh luận, đặc biệt
là khi nói về tâm pháp.
Ban
đêm đi trên đường hoang vắng vì lo sợ nên khi thấy sợi
dây lại tưởng lầm là con rắn nhưng khi định tâm nhìn kỹ
lại thì nhận ra đó là sợi dây chứ không phải con rắn.
Khi đi trong sa mạc nắng cháy, vì quá khát nước nên ánh nắng
chiếu sáng trên mặt cát trước mặt thường bị nhận lầm
là mặt hồ cho đến khi tới gần thì mới biết đó là ánh
dương diệm. Trong các cánh đồng những cành lau chặt được
thường được dựng gác lên nhau, nhìn xa tưởng là người
nhưng khi lại gần thì đó chỉ là những cành lau gác lên
nhau mà thôi.
Vì
Biến Kế mà các cảnh giới được nhận biết không còn chân
thật nữa tỷ như sợi dây bị nhận lầm là con rắn, như
ánh dương diệm mà tưởng là hồ nước. Ngay nơi con rắn
đó mà định tâm lại không còn bị biến kế nữa thì ta
sẽ thấy đó là sợi dây gai. Nơi ánh dương diệm đó mà
định tâm không còn bị biến kế nữa thì ta thấy ngay đó
là sóng nắng chứ không phải mặt hồ nữa.
Cũng
vậy nương nơi cảnh giới Y Tha Khởi mà không còn bị Biến
Kế Sở Chấp nữa thì ta sẽ thấy được cái chân thật của
các pháp tức là thấy được cái Viên Thành Thật.
Viên
Thành Thật là sự viên mãn và toàn hảo, là thể tánh chân
thật của tất cả các pháp. Tánh chất nầy phổ biến và
không có ngằn mé, như như bất sanh bất diệt.
Do
nơi Y Tha Khởi mà lìa được vọng chấp, xa rời Năng thủ
và Sở thủ tức là xa rời được tánh Biến Kế thì ngay
nơi đó thấy được tánh Chân Như tức là ngay đó là thấy
được tánh viên thành thật. Bồ tát Thế Thân nói Viên thành
thật ư bỉ, Thường viễn ly tiền tánh là vậy. Ư bỉ ở
đây nghĩa là nơi Y Tha Khởi Tánh. Viễn ly tiền tánh tức
là xa rời cái tánh nói ở trên, ở đây nghĩa là xa rời Biến
Kế Sở Chấp Tánh. Cả câu này nghĩa là ngay nơi Y Tha Khởi
mà xa rời được Biến Kế Sở Chấp thì đó là Viên Thành
Thật.
Hãy
nghiên cứu bài tụng thứ hai mươi hai của Bồ tát Thế Thân
nói về tánh Viên Thành Thật này.
BÀI
TỤNG THỨ HAI MƯƠI HAI
Cố
thử dữ Y tha
Phi
dị phi bất dị
Như
Vô thường đẳng tánh
Phi
bất kiến thử bỉ
Dịch
là:
Nên
nó cùng Y tha
Chẳng
khác không chẳng khác
Như
các tánh Vô thường
Thấy
đây mới thấy kia
Viên
Thành Thật và Y Tha Khởi không phải khác và cũng không phải
chẳng khác. Nếu là khác thì làm sao nói được rằng nếu
lìa được Biến Kế Sở Chấp thì Y Tha Khởi tức là Viên
Thành Thật. Nếu là giống thì gọi Y Tha Khởi là Viên Thành
Thật chứ không gọi là Y Tha Khởi và cũng không nói Viên
Thành Thật là bản thể Chân Như của Y Tha Khởi.
Y Tha
Khởi và Viên Thành Thật cũng tỷ như sóng và nước. Biến
Kế Sở Chấp tỷ như gió. Sóng chẳng khác nước vì sóng
do nước bị gió thổi mà khởi sanh, nhưng không thể nói sóng
là nước được, vì nếu sóng là nước thì ta gọi nó là
nước chứ không gọi là sóng. Đó là ý nghĩa của cái chẳng
khác và không chẳng khác.
Tánh
Y Tha và Viên Thành Thật cũng giống như các tánh Vô Thường,
Vô Ngã và Không mà ta thường thấy trong các kinh điển. Vô
thường, Vô ngã và Không thường được gọi là Tam pháp ấn.
Vì hiểu được các pháp là vô thường và vô ngã nên ta khởi
được cái tâm tu hành không tạo tác và do đó đạt được
cảnh giới Không tịch tức cảnh giới không sanh không diệt
của Niết Bàn tịch tĩnh.
Nếu
thấy được các pháp là vô thường, vô ngã mà phát tâm tu
trì phá bỏ vọng chấp về ngã và pháp thì sẽ thấy được
Như Lai. Nói cách khác nếu trở về đựơc với tánh Như Lai
thường tịch thường chiếu rồi thì ta sẽ thấy rõ tánh
vô thường, vô ngã của các pháp.
Viên
Thành Thật đối với Y Tha Khởi cũng giống như Vô thường,
Vô ngã và Không đã nói ở trên. Biết được các pháp là
Y Tha Khởi mà khởi tâm tu hành xa rời được Biến Kế Sở
Chấp thì ta sẽ thấy Viên Thành Thật. Nếu không biết các
pháp là Y Tha Khởi thì sẽ không xa rời được Biến Kế Sở
Chấp nên sẽ chẳng bao giờ thấy được Viên Thành Thật.
Khi đã thấy được Viên Thành Thật thì phải rõ là các pháp
đều là Y Tha Khởi.
Đó
là ý nghĩa câu: Như vô thường đẳng tánh, Phi bất kiến
thử bỉ. Phi bất kiến thử bỉ dịch là không thấy đây
thì cũng không thấy kia, ở bài tụng này dịch là thấy đây
mới thấy kia cũng là một nghĩa thôi.