DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
XIV
TÓM
TẮT
Do
tập khí có từ vô thủy, con người có những kiến chấp
thật kiên cố, xâu dầy rất khó mà phá trừ và buông xả.
Muốn buông xả phải nhận chân ra được các pháp là giả
có và như huyễn. Chính vì thế mà trong bài tụng đầu và
trong hai câu đầu của bài tụng thứ hai bồ tát Thế Thân
đã nhấn mạnh đến cái giả có của các pháp và chúng
đều do thức biến hiện; các thức gồm có ba thứ là dị
thục, tư lương và liễu biệt cảnh :
Do
giả thuyết ngã pháp
Hữu
chủng chủng tướng chuyển
Bỉ
y thức sở biến
Thử
năng biến duy tam
Vị:
dị thục, tư lương
Cập
liễu biệt cảnh thức.
Tiếp
theo đó ngài diễn tả chi thiết về tánh chất của thức
thứ nhất. Tánh chất tổng quát của thức thứ nhất được
biểu hiện ở ba cái tên gọi là: A lại da, Dị thục và Nhất
thiết chủng. Khi muốn diễn ta tánh chất chứa nhóm của thức
này thì gọi nó là tàng thức tức là kho chứa mà tiếng phạn
gọi là A lại da. Khi muốn diễn tả sự chuyển biến mà hiện
khởi của thức này thì gọi nó là Dị thục nghĩa là chín
mùi mà thành quả. Khi muốn nói đến tất cả mọi hạt giống
của tất cả các pháp đều được chứa trong thức này thì
gọi nó là Nhất thiết chủng.
Tất
cả mọi suy nghĩ, hành động, thấy biết hoặc xấu, hoặc
tốt, hoặc không xấu lẫn không tốt của ta đều được
lưu giữ trong tàng thức sơ năng biến này và các dữ kiện
được lưu giữ đó cứ liên tục chuyển biến không lúc nào
ngưng nghỉ tựa như dòng thác đổ, hết khối nước này đổ
xuống thì có khối nước tiếp theo, liên miên bất tận. Những
chuyển biến này khi đã đầy đủ nhân duyên, tăng trưởng
chín mùi thì chuyển hiện ra căn thân và thế giới tức là
chánh báo và y báo. Với tri kiến phàm phu không thể nào có
thể hiểu biết tường tận được những chuyển biến trong
thức này, cũng không thể biết được sự thọ nhận và nơi
chốn được thọ nhận, không thể biết chắc chắn được
sẽ nhận lãnh thân mạng nào trong sáu loài chúng sanh và cũng
không thể biết rõ ràng các cõi sẽ được thọ mạng tức
là không thể biết rõ sự nhận thọ của chánh báo và y báo.
Những sự chứa nhóm và chuyển biến nơi A lại da thức sẽ
chấm dứt khi đạt được quả vị A la hán. Khi ấy A lại
da thức hoàn toàn vô lậu và được gọi là Bạch tịnh thức.
Tất cả đặc tính nói trên của tàng thức sơ năng biến
được bồ tát Thế Thân thâu gọn trong hai câu sau của bài
tụng thứ hai, bài tụng thứ ba và bài tụng thứ tư:
Sơ
A lại da thức
Dị
thục, Nhất thiết chủng
Bất
khả tri chấp thọ
Xứ,
liễu. Thường dữ xúc
Tác
ý, thọ, tưởng, tư
Tương
ưng duy xả thọ
Thị
vô phú vô ký
Xúc
đẳng diệt như thị
Hằng
chuyển như bộc lưu
A
la hán vị xả.
Tiếp
đến bồ tát Thế Thân nói đến thức đệ nhị năng biến
tức là thức mạt na. Tánh chất của thức này là luôn chấp
A lại da thức và các chủng tử cùng hiện hành nơi A lại
da thức là thiệt có rồi khởi sinh những chấp trước và
nắm giữ. Những chấp trước và nắm giữ này là nguồn gốc
của những ngã ái, ngã kiến cùng ngã mạn và ngã si, là bốn
món trong căn bản phiền não. Thức này luôn hiện khởi và
không rời A lại da thức. Khi đạt được quả vị A la hán
hay khi đắc được Diệt tận định của bậc xuất thế đạo
tức là bồ tát đệ bát địa thì mới loại trừ được
các tánh chất tư lương và chấp trước nơi mạt na thức.
Tánh
chất của thức này được bồ tát Thế Thân diễn tả trong
ba bài tụng thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy:
Thứ
đệ nhị năng biến
Thị
thức danh mạt na
Y
bỉ chuyển duyên bỉ
Tư
lương vị tánh tướng
Tứ
phiền não thường câu
Vị:
ngã si, ngã kiến
Tinh
ngã mạn, ngã ái
Cập
dữ xúc đẳng câu
Hữu
phú vô ký nhiếp
Tùy
sở sanh sở hệ
A
la hán, Diệt định
Xuất
thế đạo vô hữu.
Tiếp
đến ngài nói đến thức đệ tam năng biến gồm thức thứ
sáu và năm thức trước gọi là thức liễu biệt cảnh. Khi
đã có thọ mạng rồi nghĩa là khi các nghiệp quá khứ đủ
duyên chín mùi chuyển hiện ra thân căn của một chúng sinh
rồi thì sáu thức này nương nơi thân căn mà phân biệt thế
giới bên ngoài. Tất cả các loại tâm sở đều tương ưng
với thức liễu biệt cảnh này. Tất cả các pháp thiện hay
phiền não hoặc bất định đều do thức này phân biệt mà
khởi sanh. Các tâm sở có 51 món tất cả và được phân chia
thành sáu loại như sau: 5 biến hành, 5 biệt cảnh, 11 thiện,
6 căn bản phiền não, 20 tùy phiền não và 4 bất định tâm
sở.
Thiết
nghĩ chúng ta cũng nhân đây ôn lại 100 pháp trong Bách Pháp
Minh Môn Luận bao gồm cả 51 tâm sở pháp vừa nói. 100 pháp
đó được chia làm 5 loại:
I.
TÂM PHÁP có 8 món là: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt
Thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức.
II.
TÂM SỞ HỮU PHÁP gồm 51 món là:
-
5 Biến Hành: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư.
-
5 Biệt Cảnh: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ.
-
11 món Thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn,
Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại.
-
6 Căn Bản Phiền Não: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến.
-
20 Tùy Phiền Não gồm 10 Tiểu tùy, 2 Trung tùy và 8 Đại tùy.
10 Tiểu tùy là: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm,
Hại, Kiêu. 2 Trung tùy là: Vô tàm, Vô quý. 8 Đại tùy là:
Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất
niệm, Tán loạn, Bất chánh tri.
-
4 Bất Định: Hối, Miên, Tầm, Tư.
III.
SẮC PHÁP gồm 11 món là: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt
căn, Thân căn, Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần,
Xúc trần và Pháp trần. Những món này gồm 5 căn và 6 trần.
Theo thiển ý của tác giả thì sắc pháp phải có 12 món mới
trúng. Món thứ 12 là bộ não là nơi tập trung tất cả các
dữ kiện do ngũ căn đưa tới, nhưng vì nó ẩn tàng bên trong
nên không tính.
IV.
BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH PHÁP gồm 24 món: Đắc, Mạng căn, Chúng
đồng phận, Dị sanh tánh, Vô tưởng định, Diệt tận định,
Vô tưởng báo, Danh thân, Cú thân, Văn thân, Sanh, Trụ, Lão,
Vô thường, Lưu chuyển, Định vị, Tương ưng, Thế tốc,
Thứ đệ, Thời, Phương, Số, Hòa hiệp, Bất hòa hiệp.
V.
VÔ VI PHÁP có 6 món là: Hư không vô vi, Trạch diệt vô vi,
Phi trạch diệt vô vi, Bất động diệt vô vi, Tưởng thọ
diệt vô vi, Chơn như vô vi.
Bồ
tát Thế Thân diễn tả thức liễu biệt cảnh và tất cả
các tánh chất của nó trong trong bẩy bài tụng kế tiếp tức
từ bài tụng thứ tám đến bài tụng thứ mười bốn như
sau:
Thứ
đệ tam năng biến
Sai
biệt hữu lục chủng
Liễu
cảnh vi tánh tướng
Thiện
bất thiện câu phi
Thử
tâm sở biến hành
Biệt
cảnh, thiện, phiền não
Tùy
phiền não, bất định
Giai
tam thọ tương ưng
Sơ
biến hành: xúc đẳng
Thứ
biệt cảnh vị: dục
Thắng
giải, niệm, định, huệ
Sở
duyên sự bất đồng
Thiện
vị: Tín, tàm, quý
Vô
tham đẳng tam căn
Cần,
an, bất phóng dật
Hành
xả cập bất hại
Phiền
não vị: tham, sân
Si,
mạn, nghi, ác kiến
Tùy
phiền não vị: phẫn
Hận,
phú, não, tật, xan
Cuống,
siễm dữ hại, kiêu
Vô
tàm cập vô quý
Trạo
cử dữ hôn trầm
Bất
tín tinh giải đãi
Phóng
dật cập thất niệm
Tán
loạn, bất chánh tri
Bất
định vị: hối, miên
Tầm
tứ nhị các nhị
Sau
đó bồ tát Thế Thân nói đến duyên khởi của tiền lục
thức, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức và ý thức. Ngài
nói các thức đó đều có hạt giống nơi thức thứ tám,
lấy thức này làm căn bản và nương nơi thức này mà phân
biệt và chuyển biến ví như sóng nương nơi nước (như đào
ba y thủy). Ngũ thức thì tùy duyên mà hiện khởi tức là
khi có đủ duyên mới có tác động còn ý thức thì thường
hiện khởi nghĩa là luôn luôn tác động, chỉ trừ khi ngủ
mê thiếp đi không có mộng mị, khi chết ngất hoặc khi nhập
diệt tận định hay vô tưởng định là hai định thật tĩnh
lặng, không còn thọ và tưởng nữa. Ngoài ra khi sanh lên cõi
trời vô tưởng thì thức thứ sáu này cũng ngưng hoạt động.
Do
các thức chuyển biến mà phát sinh năng phân biệt và sở
phân biệt. Năng phân biệt và sở phân biệt này cứ liên
tục chuyển biến nên khởi sanh tất cả các pháp. Năng và
Sở phân biệt này đều do nơi tâm thức động niệm mà khởi
sanh nên không có thực và do đó ngài Thế Thân nói tất cả
đều là duy thức. Bài tụng thứ mười lăm cho đến mười
bẩy diễn tả ý này:
Y chỉ
căn bản thức
Ngũ
thức tùy duyên hiện
Hoặc
câu hoặc bất câu
Như
đào ba y thủy
Ý
thức thường hiện khởi
Trừ
sanh vô tưởng thiên
Cập
vô tâm nhị định
Thùy
miên dữ muộn tuyệt
Thị
chư thức chuyển biến
Phân
biệt sở phân biệt
Do
thử bỉ giai vô
Cố
nhất thiết Duy thức
Sau
dó ngài cắt nghĩa về nghiệp quả. Theo ngài sở dĩ chúng
sanh phải thọ báo thân liên tục mãi trong sanh tử luân hồi
là vì ở trong tàng thức có cái năng lực triền chuyển, là
cái năng lực làm cho nghiệp nhân cứ phát triển tiếp nối
không bao giờ ngưng nghỉ, tất cả những phân biệt hay nói
rõ hơn là tất cả những gì ta cảm thọ, suy nghĩ hay hành
động đều được đưa vào lưu trữ trong tàng thức như một
chủng tử, chủng tử này cứ tiềm ẩn huân tập, chuyển
biến thành nghiệp nhân và các nghiệp nhân này cứ tương
duyên, tương sanh mà chín mùi thành nghiệp quả dị thục.
Nghiệp này hết thì nẩy sanh nghiệp khác nối tiếp nhau liên
tục như một dòng nước chẩy. Bài tụng thứ mười tám và
mười chín diễn tả ý này:
Do
nhất thiết chủng
Như
thị như thị biến
Dĩ
triền chuyển lực cố
Bỉ
bỉ phân biệt sanh
Do
chư nghiệp tập khí
Nhị
thủ tập khí câu
Tiền
dị thục ký tận
Phục
sanh dư dị thục.
Ngay
từ vô thủy, vì một niệm bất giác mà Chân tâm thanh tịnh
bị chiếu soi và dấy động mà phát sanh ra hai phần năng kiến
và sở kiến. Năng kiến là phần phân biệt chiếu soi và sở
kiến là đối tượng của sự chiếu soi phân biệt đó. Vì
sự phân biệt đó mà Chân tâm bị biến đổi, thật thanh
tịnh mà biến thành có hình tướng. Khi Chân tâm chuyển hiện
thành căn thân và thế giới thì sự phân biệt đó làm cho
mọi vật vốn như huyễn mà dường như có thật, ví như hoa
đốm giữa hư không. Sự phân biệt này được gọi là biến
kế sở chấp, ý muốn nói vì sự phân biệt này mà mọi vật,
mọi sự bị biến đổi khác với cái tánh chân thật của
chúng. Mọi vật nương nhau mà hiện hữu chứ thật ra đều
không có tánh chất riêng biệt. Thí dụ cái núi kia không phải
có tánh chất riêng biệt của cái núi mà là do các khối đá
và đất họp lại mà thành, những khối đá và những khối
đất đó cũng không có tánh chất riêng biệt của khối đá
và khối đất mà là do vô lượng vô số các vi trần họp
thành, các vi trần đó cũng không thể hiển lộ được nếu
không có hư không, cả vi trần và hư kông cũng không thể
có nếu không có con mắt phân biệt, con mắt hiện hữu là
phải nương vào thân căn.
Thân
căn này cũng không thể hiện hữu nếu không có thế giới
chung quanh, và cứ tiếp tục thì ta sẽ thấy mọi vật trùng
trùng duyên khởi, không có cái gì có thể hiện hữu đơn
độc được, tất cả như những gút mắt của một màng lưới
mà trong kinh thường ví như những hạt châu trong cái khăn
quàng của trời Đế Thích, các hạt châu này lấp lánh phản
chiếu hạt châu kia và mọi hình ảnh trong đó trùng trùng
phản chiếu qua lại, hạt châu này có hình ảnh của hạt
châu kia, tất cả các hình ảnh chiếu sáng đó cứ nương
nhau mà ảnh hiện. Tóm lại mọi vật đều không có tự tánh
chân thật và đều là y tha khởi, tức là nương vào cái khác
mà có. Nếu nương nơi y tha khởi mà xa rời được biến kế
sở chấp thì ngay nơi các pháp duyên sanh mà trở về được
với cái chân thật tức là biết được viên thành thật.
Bồ tát Thế Thân cô động ý này trong hai bài tụng thứ hai
mươi và hai mươi mốt:
Do
bỉ bỉ biến kế
Biến
kế chủng chủng vật
Thử
biến kế sở chấp
Tự
tánh vô sở hữu
Y tha
khởi tự tánh
Phân
biệt duyên sở sanh
Viên
thành thật ư bỉ
Thường
viễn ly tiền tánh.
Ngài
Thế Thân nói tánh y tha và tánh viên thành thật không phải
khác nhau và cũng không phải là không khác nhau ví như sóng
với nước, sóng không phải là nước mà sóng cũng chẳng
khác nước vì sóng từ nước mà ra. Nếu không có gió thì
không có sóng vì sóng đã hòa vào nước. Cũng vậy vì có
biến kế sở chấp nên mới có y tha khởi. Vì có biến kế
sở chấp mà chân như tức viên thành thật bị khuấy động
mà hiện ra tuồng như có pháp nhưng nếu dẹp được biến
kế sở chấp thì các pháp y tha khởi trở lại bản thể tĩnh
lặng thanh tịnh là viên thành thật.
Viên
thành thật và y tha khởi giống như các pháp vô thường, vô
ngã và không mà đức Phật hằng thuyết, mục đích chính
là để chúng sanh không chấp vào các pháp, để chúng sanh
biết rõ các pháp là giả, là không thật có, là sanh diệt
không thường còn mà phá bỏ được tất cả những chấp
có, chấp không, để có thể vững tâm tu trì trở về được
với Bản Tánh Chân Như. Bồ tát Thế thân cũng nói rằng vì
sợ chúng sanh chấp vào các pháp ngoại đạo, cho rằng các
pháp có thật, hoặc các pháp tự nhiên sanh, hoặc là các pháp
có nguyên nhân xuất xứ đầu tiên, có một nguyên nhân tối
hậu ngoài tâm nên Phật thường thuyết tất cả các pháp
đều vô tánh. Thứ nhất là các pháp không có tướng chân
thật nên nói Tướng Vô Tánh. Thứ hai là các pháp không có
nguồn gốc chân thật đầu tiên, không phải tự nhiên mà
có nên nói Sanh Vô Tánh hay là Vô Tự Nhiên Tánh. Thứ ba là
nếu bỏ được tánh biến kế sở chấp tức là tánh chấp
thật có ngã và pháp thì sẽ biết được cái nghĩa rốt ráo
của tất cả các pháp tức là biết được cái bản thể
Chân Như bất sanh bất diệt của các pháp nên nói Thắng Nghĩa
Vô Tánh. Tánh này cũng được gọi là Duy Thức Thật Tánh.
Tất
cả ý nghĩa vừa diễn tả được bồ tát Thế Thân cô động
trong bốn bài tụng từ bài tụng thứ hai mươi hai đến bài
tụng thứ hai mươi lăm:
Cố
thử dữ y tha
Phi
dị phi bất dị
Như
vô thường đẳng tánh
Phi
bất kiến thử bỉ
Tức
y thử tam tánh
Lập
bỉ tam vô tánh
Cố
Phật mật ý thuyết
Nhất
thiết pháp vô tánh
Sơ
tức tướng vô tánh
Thử
vô tự nhiên tánh
Hậu
do viễn ly tiền
Sở
chấp ngã pháp tánh
Thử
chư pháp thắng nghĩa
Diệc
tức thị chân như
Thường
như kỳ tánh cố
Tức
Duy Thức Thật Tánh.
Lý
thì nói nương nơi Y Tha Khởi Tánh mà viễn ly được Biến
Kế Sở Chấp Tánh là thấy được Viên Thành Thật Tánh chứ
thật sự thì phải tu trì qua nhiều giai đoạn.
Giai
đoạn đầu tiên là trang bị hành trang, học hỏi kinh điển
và đi tham học với các bậc thiện tri thức để khơi dậy
chủng tánh đại thừa câu sanh mà phát lòng tin dũng mãnh cầu
trụ Duy Thức Tánh, quyết chí tu trì cho đến khi đạt đạo
quả Bồ Đề thì bấy giờ mới có cái năng lực để diệt
trừ hai cái chướng ngại tùy miên của năng thủ và sở thủ.
Địa vị này là địa vị Kiến Đạo, là bậc Sơ Thiền của
Sơ Địa Bồ Tát tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn của
Thanh Văn. ở địa vị này các vị tu đà hoàn và bồ tát
vẫn còn thấy mình có sở đắc nên chưa phải là thật trụ
vào Duy Thức Tánh. Giai đoạn này là giai đoạn Tư Lương và
Gia Hạnh như các luận sư về Duy thức thường nói. Bài tụng
thứ hai mươi sáu và hai mươi bẩy nói đến quả vị này:
Nãi
chí vị khởi thức
Cầu
trụ duy thức tánh
Ư
nhị thủ tùy miên
Do
vị năng phục diệt
Hiện
tiền lập thiểu vật
Vị
thị duy thức tánh
Dĩ
hữu sở đắc cố
Phi
thật trụ duy thức.
Kế
đến giai đoạn Thông Đạt tức biết được không tánh của
hai thủ nghĩa là biết được các pháp là không tự tánh cho
nên xa rời được các phiền não của chấp thủ. Địa vị
này tương đương với bậc Tư Đà Hàm và A Na Hàm của Thanh
văn cùng bậc Nhị Thiền và Tam Thiền của Bồ Tát từ Nhị
Địa đến Thất Địa. Các vị thanh văn và bồ tát ở địa
vị này đã khởi được Trí Vô Sở Đắc, tu Pháp Không Chân
Như xa rời được hai tướng Năng Thủ và Sở Thủ, trừ được
ngã chấp và pháp chấp phần thô nên mới trụ được vào
tánh Duy Thức. Bài tụng thứ hai mươi tám nói rõ quả vị
này:
Nhược
thời ư sở duyên
Trí
đô vô sở đắc
Nhĩ
thời trụ Duy Thức
Ly
nhị thủ tướng cố.
Các
vị A la hán hồi đầu theo đại thừa cùng các vị Bồ Tát
ở bậc Tứ Thiền từ Bát Địa trở lên đã trụ trong Duy
Thức Tánh tiếp tục khởi Vô Phân Biệt Trí dõng mãnh tu tập,
đối với cảnh sở duyên không còn khởi phân biệt nữa,
không còn chấp có lẫn chấp không, không còn chấp là thật
có ngã và thật có pháp, tiếp tục tu trì miên mật không
gián đoạn tiến lên đến bậc Bồ Tát Thập Địa.
Vị
Thập Địa Bồ Tát với Vô Sở Đắc Trí bất khả tư nghì,
tu Thắng Pháp Không Quán, trừ được hai chướng sở thủ
câu sanh phần tế đắc được bậc Đẳng Giác. Tuy vậy vẫn
còn một chút chướng ngại thậm thâm vi tế, cho đến khi
khởi được Kim Cương Dụ Định đắc Vô Thượng Giác tức
là quả vị Diệu Giác của Phật thì các phiền não thậm
thâm vi tế đó mới hoàn toàn được loại trừ. Hai phiền
não chướng này làm trở ngại khó khăn vô cùng cho việc chứng
quả Giải Thoát nên bài tụng gọi là hai phiền não nặng
nề (nhị thô trọng).
Khi
đắc Vô Thượng Giác rồi thì cảnh giới hữu lậu khi xưa
chuyển thành vô lậu thanh tịnh. Trong cảnh giới vô lậu này
thì tất cả đều tuyệt thanh tịnh, các pháp đều là chân
thiện và thường còn. Cảnh giới này là cảnh giới an vui
và giải thoát. Bậc đã giác ngộ này được gọi là Đại
Mâu Ni. Mâu ni có ba nghĩa. Thứ nhất là nhân từ, hán dịch
là năng nhân. Thứ hai là hoàn thiện. Thứ ba là tịch tĩnh
vắng lặng, hoàn toàn dứt trừ được tất cả mọi phiền
não, thân tâm hoàn toàn an lạc. Đại Mâu Ni cũng được gọi
là Pháp Thân. Hai bài tụng cuối thứ hai mươi chín và ba mươi
diễn tả ý trên:
Vô
đắc bất tư nghì
Thị
Xuất Thế Gian Trí
Xả
nhị thô trọng cố
Tiện
chứng đắc chuyển y
Thử
tức Vô Lậu Giới
Bát
tư nghì thiện thường
An
lạc giải thoát thân
Đại
Mâu Ni danh Pháp.
Để
chấm dứt phần tóm tắt này xin cùng tư duy về một đoạn
trong Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác ở Trung
Hoa:
Ta
sớm bao năm chuyên học vấn
Từng
viết sớ sao tìm kinh luận
Phân
biệt danh tướng mãi không thôi
Vào
biển đếm cát tự chuốc hận
Quả
đáng bị Như Lai quở trách
Châu
báu của người có gì ích?
Lâu
nay đắn đót rõ công suông
Uổng
bấy làm thân phong trần khách!