DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
VIII
DUYÊN,
CẢNH VÀ LƯỢNG
Chương
này sẽ nói sâu về các loại duyên, cảnh và lượng thường
dùng trong Duy Thức Học. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn thế nào
là nhân duyên, thế nào là sở duyên, sở duyên duyên, tăng
thượng duyên, đẳng vô gián duyên; thế nào là đới chất
cảnh, độc ảnh cảnh, tánh cảnh; thế nào là tự chứng
phần, chứng tự chứng phần; thế nào là hiện lượng, tỷ
lượng và phi lượng.
Khi
khởi vọng niệâm chiếu soi là lúc gieo vào tâm thức một
chủng tử mới, chủng tử này chuyển biến và hiện khởi
thành đối tượng đuợc gọi là hiện hành. Các chủng tử
và hiện hành cứ huân tập ra vô nơi tâm thức, khi thì là
nhân chủng tử, khi thì là quả hiện hành. Chủng tử diệt
thì khởi sanh hiện hành, hiện hành diệt thì khởi sanh chủng
tử, những sự sanh diệt này nói thì lâu nhưng xẩy ra thì
chớp nhoáng được duy thức gọi là sát na sanh diệt.
Để
đưa ra một hình ảnh cụ thể về việc chủng tử sinh hiện
hành và hiện hành sinh chủng tử, thiền sư Thanh Từ có nói
một ví dụ trong khi thuyết giảng về kinh Hoa Nghiêm. Tỷ như
ta lấy một nắm hạt giống của cây mắc cở rải trên một
mảnh đất hoang. Hạt giống này sẽ sanh ra cây mắc cở. Cây
mắc cở giống như những cây cỏ gai, thường thấy mọc nơi
những cánh đồng hoang ở Việt Nam, lá như lá me nhưng nhỏ
hơn nhiều, bình thường khi có ánh mặt trời thì lá nở xòe
ra nhưng khi ta đụng vào thì lá cụp lại nên gọi là cây
mắc cở. Chỉ một thời gian ngắn cây mắc cở trổ hoa rồi
trở thành hạt mắc cở. Những hạt mắc cở này rơi xuống
đất và chẳng bao lâu cả mảnh đất hoang nói trên biến
thành một rừng cây mắc cở.
Những
hạt mắc cở ví như những hạt giống chủng tử nơi A lại
da thức. Hạt giống được huân tập và chuyển biến thành
hiện hành ví như hạt mắc cở khi rải xuống đất thì ăn
rễ, nẩy mầm rồi tăng trưởng thành ra cây mắc cở. Cây
mắc cở lại trổ ra hạt mắc cở là dụ cho hiện hành sanh
chủng tử. Và cứ như thế sanh diệt chuyển biến tương tục,
cây mắc cở nở hoa, hoa diệt sanh ra hạt, hạt chết rớt
xuống thành mầm mắc cở, mầm tăng trưởng trở thành cây
mắc cở, các chuyển biến cứ như vậy như vậy chuyển biến
thành cả rừng mắc cở. Các mầm mống, thân lá, hoa và hạt
mắc cở đó khi thì là nhân, khi thì là quả, nói theo duy thức
học thì các thứ này khi thì là chủng tử khi thì là hiện
hành. Tất cả mọi sự chuyển biến nơi A lại da thức cũng
tương tự như vậy.
Các
chủng tử và hiện hành cứ trùng trùng duyên khởi, sanh diệt
và tăng trưởng một cách tương ưng, tương duyên, tương tức
và tương tục. Từ một trở thành nhiều, các chủng tử và
hiện hành càng ngày càng làm các quang minh nơi tâm thức bị
lưu ngại, trì trệ và thô kệch thêm. Từ đó bắt đầu một
dòng nghiệp lực với tất cả những giao thoa trộn lẫn những
chấp trước có không, yêu ghét, thiện ác kèm theo vô lượng
những cảm ứng vi tế phức tạp làm nhân duyên cho nhau, khiến
cho chân tâm thanh tịnh khi xưa bị vọng tưởng phân biệt
làm vẩn đục và chuyển hiện ra căn thân và thế giới mà
chúng ta đang hiện hữu.
Các
chủng tử khi đủ duyên thì chuyển biến ra hiện hành. Chủng
tử là nhân, hiện hành là quả. Quả hiện hành này do nhân
đã hội đủ các duyên nên chuyển biến và hiện khởi nên
được gọi là Sở duyên. Sở duyên này lại trở thành nhân,
và khi có đủ duyên mới thì chuyển biến thành một hiện
hành mới. Hiện hành mới này được gọi là Sở duyên duyên
của chủng tử đầu tiên. Ví dụ như cây lúa khi hội đủ
các duyên như đất đai, phân bón, mưa thuận, gió hòa,
có người săn sóc nhổ các cây cỏ hoang dại thì sau một
thời gian sẽ tăng trưởng chuyển biến và trổ ra những hạt
lúa. Những hạt lúa này là sở duyên của cây lúa. Những
hạt lúa này khi hội đủ các duyên khác như có người gặt
đem về đập ra thành thóc, rồi dã ra thành gạo hay là xay
ra thành bột thì những thóc đó, những gạo đó hay những
bột đó gọi là sở duyên duyên của cây lúa.
Các
nhân duyên khi thì thuận, khi thì nghịch. Khi thuận thì
tăng trưởng, khi nghịch thì héo tàn, khô chết. Khi thuận
thì gọi là Thuận tăng thượng duyên, khi nghịch thì gọi
là Nghịch tăng thượng duyên.
Các
nhân duyên nơi tâm thức thì trùng trùng duyên khởi, khi thì
là sở duyên, khi thì là sở duyên duyên, cứ sát na loé lên
rồi chợt tắt, quay cuồng liên miên bất tận không bao giờ
ngưng nghỉ. Sự liên tục miên viễn, loé lên và chợt tắt
không ngưng nghỉ đó gọi là Đẳng vô gián duyên.
Các
tiến trình nhân duyên nơi tâm thức cứ tiếp tục triền miên
cho đến khi chín mùi thì chuyển hiện ra cái thế giới và
chúng sanh chập chùng duyên khởi này. Duy thức gọi thế giới
và chúng sanh đầy mê vọng, điên đảo và hạn hẹp này là
cảnh giới đới chất hoặc là Đới chất cảnh. Đới có
nghĩa là ngăn ngại, là bị bao lại.
Vì
chân tâm bị vẩn đục nên các cảnh giới đều bị thấy
một cách méo mó không còn trung thực nữa, ví như các cảnh
giới bị nhìn qua một cặp kính màu, nếu đeo cặp kính mầu
đỏ, cảnh giới sẽ hiện ra đỏ, nếu đeo cặp kính màu
xanh thì cảnh giới sẽ hiện ra mầu xanh. Tất cả những nhận
thức và phân biệt nơi tâm thức đều vì lý do này hay lý
do khác bị biến đổi đi, không còn chân thật nữa được
duy thức gọi là Biến kế sở chấp.
Trong
cảnh giới chập chùng điên đảo này ta đã bị chìm đắm
trong mê đồ ảo phố, không biết ta là ai, ta từ đâu đến
và ta sẽ đi về đâu? Đâu là chân lý, và ta phải làm gì?
Thế nào là đúng, thế nào là sai? Và cứ như thế, trăm
nghìn vạn ức câu hỏi không giải đáp khiến ta chuếnh choáng,
tay cầm bầu rượu lắc lư, say trong giấc mơ tiên, lảo đảo
trong bản luân vũ triền miên, không biết đâu là mơ đâu
là thật. Khi thì lấy giấc mơ để luận cảnh giới, khi thì
lấy cảnh giới để luận giấc mơ. Trong Nam Hoa Kinh, Trang
tử viết không biết ta mơ thấy thành bướm hay là bướm
mơ thấy thành ta.
Vì
một niệm mê vọng thôi, mà cái tâm thể uyên nguyên, bất
sanh bất diệt đó bị nhiễm ô. Rồi những nhiễm ô cứ tăng
trưởng, huân tập không ngưng nghỉ, tạo thành nghiệp nhân,
cho đến khi đầy đủ nhân duyên thì chín mùi, cấu kết thô
kệch lại và chuyển biến thành một thế giới có ngằn mé,
có sanh, có diệt đới chất cảnh này. Chỉ vì một niệm
bất giác mà khởi ra trùng trùng những điên đảo biến kế
sở chấp, khiến cho cái tâm thể uyên nguyên này tách ra thành
kiến phần và tướng phần. Kiến phần trở thành cái
ta tức là cái ngã này và tướng phần trở thành cái
thế giới tức là cái pháp này.
Khi
chưa giác ngộ thì ta không thể nào tin được đó là hai khía
cạnh của tâm thức, người bình thường chỉ thấy tâm ở
trong ta và thuộc về ta, thế giới và mọi loài là những
vật thể bên ngoài, không phải là ta và cũng không phải trong
tâm. Ta có thể là sở hữu chủ của một cõi nước, một
làng xã, một số đền đàì, dinh thự, một vài nhánh sông,
một vài bãi biển, v.v..., nhưng những vật sở hữu này không
phải là ta và rõ ràng chúng ở ngoài tâm của ta.
Thật
ra ta và thế giới không phải là một nhưng cũng không phải
là hai. Nếu là một thì sao không gọi ta là thế giới, và
nếu là hai thì tại sao ta và thế giới không thể hiện hữu
tách rời khỏi nhau. Nếu tách ta ra ngoài thế giới thì làm
sao ta biết có thế giới. Và nếu thế giới không có ta thì
thế giới chỉ như lông rùa, sừng thỏ. Ta và thế giới ví
như mặt trái và mặt phải của đồng tiền. Mặt trái và
mặt phải không thể hiện hữu tách biệt khỏi đồng tiền
và cả hai mặt trái phải này đều có đồng một thể, thể
vàng hay thể đồng của đồng tiền. Ta và thế giới này
cũng vậy thôi. Ta và thế giới tức là ngã và pháp chẳng
phải khác, chẳng phải là chẳng khác và đều chung một bản
thể, đó là tâm thức, một trạng thái vẩn đục của chân
tâm.
Như
trên đã nói, chỉ vì mê vọng mà tâm thể uyên nguyên bị
chia thành kiến phần và tướng phần. Kiến phần là phần
năng thấy và tướng phần là phần bị thấy tức là sở
thấy. Khi ta thấy được đối tượng là ta biết được ta
đang thấy. Cái biết được ta đang thấy đó duy thức gọi
là Tự chứng phần.
Nếu
tu thiền quán, quán chiếu ngược vào tự tâm, phá tan những
mê vọng của phiền não chướng và sở tri chướng, thâm nhập
được tự chứng phần, tiếp tục tu trì phá trừ được
các mây mù ngăn che của ngũ ấm, sống được trong tánh giác,
có được một sự hiểu biết chân thật, sẽ thấu suốt
được cái tự chứng phần, đó là sự Chứng tự chứng phần,
biết được nơi nương dựa của Tự Chứng Phần. Và cứ
đi ngược mãi đến khi phá hết những mê vọng thì ta trở
về được cái chân tâm bản hữu thường còn bất biến.
Khi ấy mọi sự nhận biết đều là nhận biết chân thực,
cái tánh chất chân thực đó đưọc duy thức gọi là Hiện
lượng; mọi đối tượng đều được thấy như thị, chân
thực không bị biến kế sở chấp. Cảnh giới chân thật
này được duy thức gọi là Tánh cảnh. Tánh là chân thực,
và cảnh là sở kiến, là đối tượng cuả nhận thức.
Đới
chất cảnh được dệt nên bởi trùng trùng những mê vọng
do tâm thức bị vọng niệm chuyển biến màø khởi hiện ra.
Thế giới mà chúng ta đang hiện hữu là một cảnh giới đới
chất. Con người sống trong cảnh giới này luôn luôn phân
biệt và so sánh, rồi đưa ra những giả thuyết để đánh
giá, biện minh và đặt tên cho mọi sự thể. Vì nương vào
sự so sánh và phân biệt nên sự nhân xét và đặt tên này
thuộc về Tỷ lượng. Tỷ là so sánh, lượng là đánh giá.
Cảnh
tượng có thể hiện ra trong ý thức vì liên tưởng, hồi
tưởng hay tưởng tượng, được gọi là Độc ảnh cảnh
tức là cảnh giới nương vào sự tưởng nhớ lại nơi tâm
thức.
Cũng
có khi vì quá sợ hãi hoặc quá ao ước mà hình ảnh được
thấy bị méo mó, khác hẳn với hình ảnh thật của nó. Thí
dụ đang lo lắng và sợ hãi khi đi lạc trong rừng ta có thể
nhận lầm sợi dây gai thành con rắn. Hoặc khi đang quá khát
nước trong sa mạc, ta có thể nhận lầm ánh nắng phản chiếu
ở đàng trước là hồ nước. Sự quá sợ hãi hay quá mong
muốn này khiến chủng tử được lấy ra ở A lại da thức
không được chính xác. Thay vì hình ảnh được đưa lên ý
căn để so sánh là sợi dây hay là ánh nắng thì lại là con
rắn và hồ nước. Tất cả những tánh chất của nhận thức
này không thuộc về hiện lượng và cũng không thuộc về
tỷ lượng được duy thức đánh gía là Phi lượng.
Ở
đây mặc dù có sự hoạt động của nhãn căn, nhưng hình
ảnh thấy lại không phải hình ảnh thật sự thấy ở cảnh
giới đới chất bên ngoài mà là hình ảnh lấy từ A lại
da thức chuyển đến Mạt na thức do sự quá hoảng hốt hay
do sự quá mong cầu khiến cho Ý thức lầm nhận. Các hình
ảnh nhận biết sai lầm này không phải là Đới chất cảnh
nữa mà là Độc ảnh cảnh.
Các
Độc ảnh cảnh dựa trên những hình ảnh đã được thấy
trong cảnh giới đới chất, chẳng hạn như hình ảnh dây
gai bị nhận lầm là con rắn, hình ảnh sóng nắng thấy lầm
là hồ nước v.v được gọi là Hữu chất độc ảnh
cảnh vì do những hình ảnh dây gai, con rắn, sóng nắng, hồ
nuớc đã từng thấy qua nên mới có sự nẩy sinh vọng tưởng
sai lầm.
Các
Độc ảnh cảnh có thể khác hẳn những gì ta đã kinh nghiệm,
chưa thấy trong cảnh giới đới chất. Các hình ảnh này có
thể thật lộng lẫy đẹp đẽ, thật thanh tịnh trang nghiêm
như những cung điện cùng tiên trời trong cảnh giới thần
tiên và cảnh giới ở cõi Tịnh Độ, hoặc thật kinh sợ
như những cảnh giới ở địa ngục. Tất cả các cảnh giới
này là do sự tưởng tượng nơi tâm thức, được gọi là
Vô chất độc ảnh cảnh.
Chỉ
khi nào đạt được Chân Như, trở lại được với cái Chân
Không Diệu Hữu bổn lai, chuyển được Thức thành Trí, A
lại da thức chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí thì sự vật
mới hiện ra một cách như thị, hiện ra một cách mà không
lời nói và ngôn từ nào có thể diễn tả được. Nơi đây,
mọi nhận biết mới thật là chân hiện lượng. Và hình ảnh
nào được nhận biết cũng đều là chân thật, đều là tánh
cảnh.
Duy
Thức học tạm coi cái sát na đầu tiên mà ngũ căn tiếp xúc
với đối tượng trần cảnh khi chưa có sự phân biệt của
ý thức là một sự chiếu soi thuộc về hiện luợng. Các
hình ảnh tiếp nhận được bởi ngũ căn được ngũ thức
đưa thẳng vào A lại da thức mà không qua sự phân biệt của
ý thức. Hình ảnh đó được coi như chưa bị bóp méo, một
hình ảnh trung thực, một tánh cảnh. Tánh cảnh này xẩy ra
chớp nhoáng trong vô thức nên ý thức không thể nhận biết
được, các hình ảnh được trực tiếp đưa thẳng vào A
lại da thức.
Khi
đã thấy có thế giới và chúng sanh thì tánh chất của bất
cứ một cái thấy nào cũng xuyên qua nhiều lớp mây mờ của
vọng thức nên tánh chất của nhận thức chỉ có thể là
Tợ hiện lượng. Tợ hiện lượng có thể là Tỷ lượng
hay là Phi lượng.
Ví
dụ khi một bông hoa vừa tiếp xúc với nhãn căn, hình ảnh
của nó được đưa thẳng vào A lại da thức, trước khi tâm
thức nhận biết nó là cái gì, mầu sắc và mùi vị ra sao,
thì hình ảnh đó thuộc về tánh cảnh, tánh chất của nó
thì như thị, chân thật mà Duy thức gọi là hiện lượng.
Tánh
chất của hình ảnh này sẽ mất đi sự chân thực và không
được gọi là hiện lượng nữa khi ta biết nó là bông hoa
hồng, khi ta biết nó đẹp hay xấu. Khi biết là bông hoa hồng
và bông hoa này mầu vàng và đẹp là đã có sự so sánh trong
tâm thức rồi nên tánh chất của cái thấy này là tỷ lượng.
Hình ảnh bông hoa đó được đưa vào A lại da thức, xuyên
qua ý căn (mạt na thức) và được ý thức so sánh với những
chủng tử hoa tương tự được lấy ra từ kho tàng A lại
da thức. Do đó ý thức mới biết cái được thấy là hoa
hồng mầu vàng và rất đẹp.
Nhiều
khi tánh chất nhận thức biến đổi vì một sự sợ hãi hoặc
mong cầu quá độ, lục căn và lục thức bị che phủ thêm
một lớp mây dầy vọng thức thì tánh chất của nhận thức
sẽ không chính xác nữa, cảm nhận không đúng và so sánh
cũng không đúng. Tánh chất của nhận thức không là hiện
lượng và tỷ lượng nữa nên được xếp loại là phi lượng.
Hình
ảnh dây gai bị nhận lầm là con rắn và hình ảnh sóng nắng
bị nhận lầm là hồ nước nói ở trên được coi là độc
ảnh cảnh. Ở đây mặc dầu có sự hoạt động của nhãn
căn nhưng vì quá sợ hãi hoặc quá mong cầu nên dữ kiện
do nhãn căn đưa vào ý thức không phải là hình ảnh của
sợi dây mà làø hình ảnh con rắn do mạt na thức lấy từ
a lại da thức chuyển đến ý thức.
Hình
ảnh thành Càn Thát Bà là một thí dụ về độc ảnh cảnh.
Ban mai đánh thuyền ra biển về hướng rạng đông, nơi mặt
trời đang mọc lên, thấy ở nơi chân trời xa hiện lên một
thành phố tráng lệ huy hoàng. Thành phố này tan biến khi mặt
trời xuất hiện và bấy giờ ta mới biết mê thành ảo phố
Càn Thát Bà đó chỉ là ảo tưởng nơi tâm thức, do ánh sáng,
hơi nước và các sự phản chiếu hòa hợp tạo ra. Hình ảnh
thành phố này không đích thực là hình ảnh được thấy
nơi nhãn căn mà chỉ là hình ảnh sai lầm do ý căn đưa lên.
Trong
kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói về Độc Ảnh Cảnh này lúc
ngài diễn tả cảnh ngủ mê nghe tiếng chầy giã gạo mà mộng
là tiếng trống như sau: Như có người ngủ say trên giường
gối, trong lúc người kia đang ngủ, trong nhà có người giã
gạo, lầm cho là tiếng gì khác, hoặc cho là đánh trống,
hoặc là dóng chuông. Tức ngay khi trong mộng, người ấy tự
lấy làm lạ sao tiếng chuông lại vang lên giống như là tiếng
cây tiếng đá. Khi ấy chợt tỉnh dậy biết là tiếng chầy
giã gạo thì người ấy bảo người trong nhà, chính khi tôi
chiêm bao lầm tiếng chầy này cho là tiếng chuông, tiếng trống
trong chùa.
Trong
trường hợp trên vì mê ngủ nên cảm giác do nhĩ căn nhận
được chỉ có tánh chất mơ hồ và tiếng động được Ý
thức phân biệt là tiếng động sai lầm do A lại da thức
đưa lên Ý căn.
Tất
cả tánh chất phức tạp của duyên, cảnh và lượng nêu trên
chỉ nhằm đưa ra một vài đặc tính căn bản của nhận thức
nơi tâm thức. Nếu cứ tiếp tục chia chẻ ra nữa thì ta cũng
có thể tạo ra một rừng những danh từ, những khái niệm,
định nghĩa và tỷ dụ. Những sự phân chia và những thí
dụ đưa ra chỉ có tánh chất tương đối cốt để làm sáng
tỏ phần nào các tánh chất phức tạp của nhận thức để
ta có một khái niệm về một số danh từ dùng trong Duy Thức
Học mà thôi. Vì thế chúng ta cũng đừng nên chấp vào đó
để tránh trở ngại cho việc nghiên cứu và tu tập.
Một
lần nữa cần nhấn mạnh rằng tất cả những ngôn từ và
hình ảnh, tất cả những gì ta có thể hình dung ra được,
thấy được, tưởng tượng ra được, hiện ra trong khi tỉnh
và khi mê chỉ là biểu hiện của tâm thức và là như huyễn.
Tánh cách chân thực của nó chỉ được nhận ra khi Thức
chuyển thành Trí, khi A lại da thức chuyển thành Đại Viên
Cảnh Trí. Khi ấy các đối tượng sẽ hiện ra như thị như
hình ảnh hiện trên mặt gương sáng.
Hãy
đọc một vài câu kệ trong kinh Hoa Nghiêm:
Tất
cả đều như huyễn
Huyễn
làm hình nam nữ
Và
voi, ngựa, trâu, dê
Nhà,
cửa, núi, suối, ao
Vườn,
rừng cùng bông trái
Vật
huyễn không tri giác
Cũng
không có trụ xứ
Rốt
ráo tướng tịch diệt
Chỉ
theo phân biệt hiện
Bồ
tát được như vậy
Thấy
khắp các thế gian
Tất
cả pháp hữu, vô
Thấu
rõ đều như huyễn.