DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
VI
CÁC
TÂM SỞ THIỆN, PHIỀN NÃO VÀ BẤT ĐỊNH
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI MỘT
Thiện
vị: Tín, Tàm, Quý
Vô
tham đẳng tam căn
Cần,
An, Bất phóng dật
Hành
xả cập Bất hại.
Dịch
là:
Thiện
gồm: Tín, Tàm, Quý,
Vô
tham thẩy ba căn
Cần,
An, Bất phóng dật,
Hành
xả và Bất hại.
Mười
một món Tâm sở Thiện chỉ tương ưng với các tâm thiện.
Tất cả có 11 thứ: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si,
Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả và Bất hại.
Tín
là tánh của sự hiểu biết và lòng tin sâu sắc vào phẩm
chất và nghiệp dụng của các pháp mà vui lòng nhẫn chịu
theo. Lòng tin vào các thật tế về lý và sự của các pháp
hiện hữu, vào đặc tính và phẩm chất thanh tịnh của Tam
bảo, vào các năng lực của thiện pháp mà khởi tâm ham muốn,
dũng mãnh tu trì để vào được Thánh đạo. Do đó đối trị
được tâm bất tín và giữ được tâm thanh tịnh.
Tàm
là biết xấu hổ với chính mình. Do sự hiểu biết của chính
mình hoặc do giáo pháp đã học được mà đem lòng tôn kính
các bậc hiền thiện và ưa thích việc lành. Xấu hổ với
việc làm ác, đối trị tâm không biết xấu hổ.
Quý
là biết thẹn với người. Tánh của tâm sở này là khi làm
việc ác hay việc gì sai quấy thì hay hổ thẹn với người,
do đó mà không gần ngươi dữ và không làm việc ác, đối
trị với tâm không biết thẹn và ngăn việc làm ác.
Vô
tham, vô sân, vô si được gọi chung Vô tham đẳng tam căn,
là ba thiện căn, là yếu tố cần thiết để phát sinh điều
thiện và đối trị được ba độc tham, sân và si, là những
nguồn gốc của các phiền não.
Cần
là tinh tấn, chuyên cần, siêng năng đoạn các việc dữ và
làm các việc lành. Nghiệp dụng của nó là đối trị sự
giải đãi.
An
là khinh an, là trạng thái trầm tĩnh, luôn giữ cho thân tâm
được an nhàn, cởi mơ,û xa lìa những gì rắc rối, thô trược,
bực bôi, khó chịu. Nghiệp dụng của nó là đối trị hôn
trầm, giữ thân tâm được an vui, xa lìa các chướng ngại
cho sự thiền định.
Bất
phóng dật là sự phối hợp của tinh tấn với ba thiện căn
vô tham, vô sân, vô si, xa rời các pháp ô nhiễm, vun trồng,
bồi dưỡng và tu trì các pháp thiện trong thế gian và xuất
thế gian. Nghiệp dụng của nó là đối trị sự giải đãi,
buông lung và phóng túng, luôn nghiêm mật tu trì hầu đạt
đạo quả.
Hành
xả là không chấp trước, giữ cho tâm luôn được yên tịnh
khiến được an trú nơi vô công dụng hạnh, làm mà như không
làm, làm điều thiện mà không chấp trước. Nghiệp dụng
của nó là đối trị sự lăng xăng trạo cử, xa lìa mọi
tạp nhiễm khiến tâm được bình lặng trong trạng thái thiền
định.
Bất
hại là không làm tổn hại đến các chúng sanh khác. Bản
chất của nó là vô sân. Không sân hận nên không làm cho các
chúng sanh khác đau khổ hay bị tổn hại. Vô sân và bất hại
là hiển thị của Từ và Bi, sự cứu khổ và ban vui đến
mọi người, lòng vị tha và thương xót khiến đem lại an
vui và không làm tổn hại đến các loài chúng sanh khác.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI HAI
Phiền
não vị: Tham, Sân
Si,
Mạn, Nghi, Ác kiến
Tùy
phiền não vị: Phẫn
Hận,
Phú, Não, Tật, Xan
Dịch
là:
Phiền
não gồm: Tham, Sân,
Si,
Mạn, Nghi, Ác kiến.
Tùy
phiền não gồm: Phẫn,
Hận,
Phú, Não, Tật, Xan.
Các
phiền não thuộc về Ác nghiệp được chia làm 2 loại là
Căn bản phiền não và Tùy phiền não.
Căn
bản phiền não gồm 6 món là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác
kiến. Tùy phiền não gồm 20 món được chia làm 3 thứ là
10 thứ Tiểu tùy, 2 thứ Trung tùy và 8 thứ Đại tùy.
Tham
là tham lam, đắm nhiễm, muốn thủ đắc những gì ưa thích
như tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ
(tài, sắc, danh, thực, thùy thuộc ngũ dục). Nghiệp dụng
của nó là chướng ngại tánh Vô tham, là nguyên nhân của
khổ đau, khiến bị lôi cuốn trong sanh tử luân hồi.
Sân
là tánh khó chịu, bực mình, ghét giận những gì không vừa
ý, khởi sinh nóng giận và khổ đau khi gặp những chướng
ngại. Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại tánh Vô sân
và khởi lên các ác nghiệp gây khổ não cho chúng sanh khác
khiến chìm đắm trong tam giới.
Si
là tánh vô minh mê muội đối với mọi sự lý, không phân
biệt được đúng sai, phải quấy. Nhiệp dụng của nó là
làm chướng ngại tánh Vô si, là nguyên nhân khởi sinh tánh
nghi ngờ, tà kiến cùng các căn bản phiền não khác, khiến
cho mê mờ ngụp lặn trong tam giới lục đạo.
Mạn
là tánh cao ngạo, luôn thấy mình hơn người khác. Nghiệp
dụng của nó là làm chướng ngại tánh không ngã mạn, khiến
không được khiêm tốn với người khác, là nguyên nhân của
khổ đau, sanh tử luân hồi. Tánh này sẽ đoạn được khi
tu tập đến địa vị Kiến Đạo.
Nghi
là tánh do dự không quyết định và không phân biệt rõ ràng
các nguyên tắc và đạo lý. Nghiệp dụng của nó là nghi ngờ
các thiện pháp khiến các pháp này không thể sanh khởi được.
Ác
kiến là những nhận định và xét đoán nhiễm ô và sai lầm
đối với các đạo lý và nguyên tắc, là những sự hiểu
biết không chơn chánh. Nghiệp dụng của nó là làm chướng
ngại các thiện pháp và chân đế, chiêu cảm sự khổ đau
trong sanh tử luân hồi. Ác kiến này lại được chia làm 5
loại:
-
Thân kiến là chấp các uẩn cho là ngã và ngã sở.
-
Biên kiến là chấp đoạn, chấp thuờng gây chướng ngại
cho con đường trung đạo.
-
Tà kiến là kiến chấp sai lầm, không nhận ra được luật
nhân quả và sự thật của mọi sự việc. Thí dụ như mê
tín dị đoan.
-
Kiến thủ là chấp các tà kiến, biên kiến và thân kiến
là đúng. Không chịu sửa đổi và không chấp nhận sự thật.
-
Giới cấm thủ là chấp vào các giới cấm sai lầm do tà kiến
khiến chịu đựng khổ đau vô ích. Như mù quáng thực hành
những giới cấm của tà đạo.
Do
các Căn bản phiền não trên mà phát sanh 20 thứ Tùy phiền
não được nói đến ở hai câu cuối của bài tụng thứ 12,
ở bài tụng thứ 13 và ở hai câu đầu của bài tụng thứ
14, sẽ được bàn đến ở đoạn sau.
BÀI
TỤNG THỨ MƯỜI BA VÀ MƯỜI BỐN
Cuống,
Siễm dữ Hại, Kiêu
Vô
tàm cập Vô quý
Trạo
cử dữ Hôn trầm
Bất
tín tinh Giải đãi
Phóng
dật cập Thất niệm
Tán
loạn, Bất chánh tri
Bất
định vị: Hối, Miên
Tầm,
Tứ nhị các nhị.
Dịch
là:
Dối,
Nịnh và Hại, Kiêu
Vô
tàm và Vô quý
Trạo
cử với Hôn trầm
Không
tin cùng Giải đãi
Phóng
dật và Không nhớ
Tán
loạn, Không chánh tri
Bất
định gồm: Hối, Miên
Tầm,
Tứ hai đều hai.
Hai
câu kệ sau của bài tụng thứ mười hai
Tùy
phiền não vị: Phẫn
Hận,
Phú, Não, Tật, Xan
đi
chung với bài tụng thứ mười ba và mười bốn ở trên liệt
kê 20 món Tùy phiền não.
Tùy
phiền não gồm có 20 món, chia ra làm 10 món tiểu tùy: Phẫn,
Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu; 2 món trung
tùy: Vô Tàm, Vô Quý; 8 món đại tùy: Trạo Cử, Hôn Trầm,
Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn và
Bất Chánh Tri.
10
món tiểu tùy:
Phẫn
là tánh hay tức giận khi gặp điều không vừa ý hoặc khi
có ai làm trái ý mình. Tất cả những lời nói, ý kiến hay
hành động của người khác không hạp với ý mình đều có
thể làm mình phiền lòng và giận ghét. Tánh chất của nó
là làm chướng ngại tánh Vô sân. Tánh chất của Phẫn là
do Sân mà ra.
Hận
là sự tiếp nối của Phẫn, là sự kéo dài của sự giận
dữ khiến không quên được những việc không làm vừa ý
mình. Nó làm chướng ngại sự buông xả. Vì không buông xả
được nên luôn cảm thấy khổ đau và phiền não. Tánh chất
của Hận cũng do Sân mà ra.
Phú
là tánh hay che dấu những điều xấu hay ác đã làm của mình
vì sợ mất quyền lợi hay danh dự và thể diện. Nó làm chướng
ngại tâm ngay thẳng, không che dấu và khiến cho luôn luôn
bị bức rức, không an tâm. Tánh này do Tham mà ra.
Não
nghĩa là não loạn do Phẫn, Hận sanh ra, dễ nổi cơn nóng
giận, thịnh nộ khiến có những lời nói thô bạo và hành
động tàn ác. Nó làm chướng ngại tánh không não loạn. Tánh
này cũng do Sân mà ra.
Tật
nghĩa là tật đố, đố kỵ, không muốn thấy ai hơn mình.
Luôn chạy theo danh lợi, ghen ghét khi thấy người khác thành
công hay làm gì hay hơn mình. Nó chướng ngại tâm không tật
đố và khiến luôn ưu phiền vì lúc nào cũng muốn hơn người
khác. Tánh tật đố là do Tham và Sân sanh ra.
Xan
là tánh bỏn xẻn, xan tham, không san xẻ và giúp đỡ ai. Tham
lam, luôn giấu giếm, bòn góp tài vật. Nó chướng ngại tánh
không xan và lòng từ thiện. Tánh này do Tham mà sanh ra.
Cuống
nghĩa là dối trá, là tánh hay dối gạt, lừa dối để được
lợi dưỡng cả về danh lẫn tài. nó làm trở ngại tánh ngay
thẳng. Tánh này do Tham và Si sanh ra làm cho cuộc sống bị
suy đồi, không còn lương thiện. Người luôn dối trá thì
luôn tìm kế để nói dối nên tâm không được an nhiên.
Siễm
là tánh a dua, nịnh hót, nói quanh co để làm vừa lòng hoặc
để tán dương người khác hầu đem lợi dưỡng cho mình.
Tánh này chướng ngại tánh thành thật, không nịnh hót và
làm cho không thể học hỏi và nghe lời chỉ dậy của người
khác. Tánh này do Tham và Si gây ra.
Hại
là tánh hay hại người khác. Không có lòng từ bi và bác ái,
luôn có lòng ác độc, đố kỵ và có ý muốn hãm hại người
khác. Tánh này làm chướng ngại tánh Vô hại. Tánh này do
Sân mà ra.
Kiêu
là coi mình hơn người khác. Tánh này làm trở ngại tánh khiêm
nhường, nhường nhịn. Tánh này do Tham ái mà ra.
2 món
trung tùy:
Vô
tàm là tánh không biết hổ thẹn với chính mình về những
việc xấu, ác, bất thiện đã làm. Nghiệp dụng của Vô tàm
là làm chướng ngại tánh biết hổ thẹn với chính mình,
làm tăng trưởng các điều ác.
Vô
quý là tánh không đếm xỉa đến người khác, không biết
hổ thẹn với mọi người xung quanh về những việc ác và
bất thiện đã làm. Nghiệp dụng của tánh này là chướng
ngại tánh biết hổ thẹn đối với tha nhân về những việc
làm bất thiện của mình khiến coi thường những người tốt
và tăng trưởng các bất thiện pháp.
8 món
đại tùy:
Trạo
cử là tánh chao đảo, không trầm tĩnh và không giữ tâm được
tĩnh lặng. Chướng ngại cho việc hành xả, khinh an và tu chỉ
tức là không thể định tâm được.
Hôn
trầm là tánh hay mệt mỏi, không chú tâm được vào một
vấn đề gì. Không hòa hợp được thân tâm để quán sát
và suy tư về một vấn đề gì. Thân tâm luôn trọng trược,
nặng nề, chướng ngại cho sự khinh an, việc tu quán và sự
phát triển trí huệ. Tánh này do Si sanh ra.
Bất
tín là tánh không tin vào các pháp lành, tâm bị ô nhiễm không
tin ở khả năng của mình và phẩm chất của các pháp chân
thật. Vì không tin vào các pháp chân thật nên thường
hay lười biếng, giải đãi, không tu trì và không mong cầu
giải thoát. Nghiệp dụng của nó là chướng ngại tâm thanh
tịnh và sự tinh tấn.
Giải
đãi là tánh lười biếng, không chịu tu trì các pháp thiện
để xa rời nhiễm ô. Nghiệp lực của nó là chướng
ngại tánh tinh tấn, không lo đoạn ác tu thiện khiến tăng
trưởng tánh nhiễm ô.
Phóng
dật là tánh phóng túng và buông lung. Không làm việc gì được
cẩn thận và không để ý đến công việc đang làm khiến
không thể đoạn được việc ác và trở ngại cho những việc
lành. Nghiệp dụng là làm chướng ngại tánh Bất phóng dật,
làm tăng trưởng việc ác và tiêu trừ việc thiện. Tánh này
do giải đãi và tham, sân, si sanh ra vì khiến không ngăn ngừa
được việc ô nhiễm và không tu tập được pháp thanh tịnh.
Thất
niệm là tánh hay quên, không nhớ các việc đã trải qua tức
các cảnh đã duyên. Nghiệp lực của nó là chướng ngại
Chánh niệm và đưa đến Tán loạn.
Tán
loạn làm cho tâm bị rối loạn, không nhất tâm được vào
một việc gì, cứ hết duyên cảnh này rồi duyên cảnh khác.
Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại chánh định và
khởi sanh các ác huệ nghĩa là không có trí huệ chân chính.
Bất
chánh tri là không hiểu rõ cảnh sở quán, nhiều khi hiểu
sai đi khiến trở ngại cho việc hiểu biết đúng. Nghiệp
dụng của nó là chướng ngại chánh tri và là nguyên do cho
sự phạm các việc ác, các giới cấm.
Bây
giờ hãy bàn đến Bốn món Bất Định Tâm Sở là Hối, Miên,
Tầm và Tứ ở hai câu cuối của bài tụng thứ 14:
Bất
định vị: Hối, Miên
Tầm,
Tứ nhị các nhị.
Dịch
là:
Bất
định gồm: hối, miên
Tầm,
tứ hai đều hai
4 món
bất định tâm sở gồm có Hối, Miên, Tầm và Tứ. Cả hai
loại Hối Miên và Tầm Tứ đều không nhất thiết là thiện
hay là ác, có khi là thiện, có khi là ác nên luận chủ nhấn
mạnh là nhị các nhị. Chúng cũng không nhất thiết phải
tương ưng với tất cả các thức tâm vương như năm tâm sở
biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Chúng cũng không
nhất định ở một cảnh nào mà duyên như năm tâm sở biệt
cảnh Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ. Vì vậy chúng
được gọi là Bất Định Tâm Sở.
Hối
là hối tiếc những việc ác hay việc thiện đã làm, là cảm
giác sanh ra do tánh không thích những việc làm ác hay là do
tánh không thích việc làm thiện. Nếu hối tiếc những việc
ác đã làm thì hối này thuộc về thiện pháp, nếu ngược
lại chỉ hối những việc thiện đã làm thì hối này thuộc
về bất thiện pháp. Nghiệp dụng của nó là làm chướng
ngại việc giữ tâm được an nhiên tức là chướng ngại
việc tu chỉ.
Miên
là tánh làm cho thân bị mệt mỏi, tâm bị chướng ngại,
không chú tâm được. Khi đang làm việc gì, hoặc là khi làm
xong việc gì rồi dù là thiện hay ác mà cứ suy nghĩ, tính
toán liên miên, không biết phải làm gì, không nên làm gì,
hoặc là hối tiếc những việc đã làm, cứ ấm ức suy nghĩ
tới lui mãi, tinh thần dễ bị mệt mỏi. Nghiệp dụng của
nó là làm chướng ngại việc tu quán khiến không làm chủ
được thân tâm.
Tầøm
là luôn luôn chạy theo cảnh, hết theo đuổi tìm hiểu việc
này đến tìm kiếm việc khác.
Tứ
là suy nghĩ sâu, theo dõi, truy cập chi tiết vào việc đã theo
đuổi và tìm kiếm lúc đầu. Tứ là sự theo đuổi, dò xét
và tìm hiểu các cảnh một cách sâu xa và tế nhị còn Tầøm
thì theo đuổi và tìm kiếm có tánh chất hời hợt và thô
thiển hơn.
Thí
dụ, nếu thấy một cô gái đẹp thì khởi niệm muốn biết
tên tuổi của cô ta. Đó là bắt đầu của sự truy tầm.
Sau đó bỏ công theo dõi để biết thêm về gia thế của cô
đó, cô ấy ở đâu, bao nhiêu tuổi, con cái của ai, học trường
nào, sở thích của cô ta, v.v.. thì đó là tiến trình của
Tứ.
Nếu
theo đuổi, tìm kiếm và suy nghĩ tính toán về các việc thiện
thì hai Tầm và Tứ này thuộc về thiện pháp, nếu ngược
lại chỉ thích tính toán và theo đuổi những việc có hại
cho người khác thì hai pháp này thuộc về bất thiện pháp.
Thí dụ, được người thân dắt đi chùa, từ đó khởi tâm
tìm hiểu về sinh hoạt của chùa, tìm hiểu giáo lý Phật
đà, khởi tín tâm, tìm cách thân cận và học hỏi nơi các
vị tu sĩ và thiện tri thức trong Phật giáo thì đó là sự
Tầm Tứ hướng về Thiện pháp. Còn như theo dõi tìm hiểu
rõ về sinh hoạt của một người giầu có nào đó với mục
đích làm một kế hoạch để tống tiền thì sự Tầm và
Tứ này thuộc về Bất Thiện pháp.
Tóm
lại hai cặp Hối Miên và Tầm Tứ này tùy theo cái dụng của
chúng mà có thiện và có ác chứ không nhất định phải là
ác hay là thiện nên bài tụng nói nhị các nhị nghĩa là hai
đều hai, hai đều hai cả hai pháp này đều có cả hai tánh
thiện và ác, không nhất thiết là thiện cũng không nhất
thiết là ác, cặp tâm sở này khi thì là thiện khi thì là
ác tùy theo mục đích, nghiệp dụng của chúng. Do đó chúng
được xếp loại là Bất Định Tâm Sở.