DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI
Thích Trí Châu
Thanh Lương Thiền Thất - Phật Lịch 2549, 2005
CHƯƠNG
II
ĐẠI
CƯƠNG VỀ A LẠI DA THỨC
Như
trên đã giải thích, thế giới và chúng sanh chỉ là huyễn,
đều do tâm thức chuyển biến mà biểu hiện ra. Duy Thức
chia tâm thức ra làm ba phần: Sơ là Dị Thục Thức, Nhị là
Tư Lương Thức và Tam là Liễu Biệt Cảnh Thức.
Trong
chương này chúng ta sẽ nghiên cứu thức năng biến thứ nhất
còn được gọi là Thức Sơ Năng Biến. Sơ năng biến tức
là thức năng biến đầu tiên. Trong nửa cuối của bài tụng
thứ hai, ngài Thế Thân viết Sơ A lại da thức, Dị thục,
Nhất thiết chủng, có nghĩa là thức sơ năng biến này có
ba đặc tánh và tùy theo mỗi đặc tánh mà có các tên gọi
khác nhau: A lại da thức, Dị thục thức và Nhất thiết chủng
thức.
A lại
da là âm của tiếng Phạn Alaya, có nghĩa là cái kho mà tiếng
Hán Việt gọi là tàng. Gọi thức sơ năng biến là A lại
da thức là muốn nói đến cái công năng chứa đựng và tích
lũy của nó. Tất cả mọi chủng tử và hiện hành đều được
chứa trong A lại da thức. Các chủng tử và hiện hành này
do mê vọng chuyển hiện ra, sau đó lại tự làm nhân duyên
cho nhau mà chuyển biến ra muôn loại chủng tử và hiện hành
khác. Các chủng tử và hiện hành này cứ như thế, như thế
trùng trùng duyên khởi mà phát triển thành vô lượng, đủ
loại mọi hạt giống, xấu có, tốt có và có cả loại không
xấu lẫn không tốt.
Nhất
thiết chủng là muốn nói đến đủ mọi hạt giống chủng
tử đều được chứa đựng trong tàng thức. Các chủng tử
này gồm đủ loại, sanh tử và niết bàn, mê ngộ và khổ
vui. Có những chủng tử sẵn có từ thời vô thủy, có những
chủng tử đang được huân tập, chuyển biến và có cả những
chủng tử đã và đang bị hủy diệt. A lại da thức ví như
mảnh đất trong đó đủ mọi hạt giống được vun trồng.
Tất cả các pháp hiện hành trong thế gian và xuất thế gian
đều có chủng tử tiềm tàng trong A lại da thức nên thức
này còn được gọi là Nhất thiết chủng thức.
Dị
thục là muốn nói đến sự chuyển biến và hiện khởi ra
chúng sanh và quốc độ của thức sơ năng biến, đòi hỏi
phải có một thời gian để các chủng tử hội đủ được
các điều kiện nhân duyên để chín mùi. Các chủng tử trong
A lai da thức khi thuận duyên thì hòa hợp với nhau rồi huân
tập và tăng trưởng lên. Huân nghĩa là xông ướp, là hun
đúc, tập là nhóm hợp lại, tỷ như trà mạn sen là trà đã
được xông ướp bằng hương thơm của hoa sen, mùi trà đã
hợp lại với mùi thơm của hoa sen nên trà mạn sen lúc nào
cũng có hương vị của sen. Các chủng tử được huân tập
là các chủng tử được xông ướp trong một thời gian nào
đó để cho các đặc tính của chúng hợp lại và thẩm thấu
vào nhau. Nếu ví chủng tử như hạt giống thì sự huân tập
được hiểu theo nghĩa là hạt giống được luôn luôn tưới
bón cho đến khi thuần thục thì nẩy mầm và tăng trưởng
thành cây nhánh và hoa trái. Nếu ví như bức tranh thì sự
huân tập ví như các mầu sắc cứ được tô điểm lên hình
vẽ cho đến khi nó trở thành một bức tranh có mầu sắc
và ý nghĩa.
Huân
tập còn được hiểu theo nghĩa là một việc gì cứ lập
đi lập lại thành thói quen, lúc đầu thì lọng cọng nhưng
khi đã quen rồi thì làm không cần phải suy nghĩ. Thí dụ
khi đứa bé mới tập đi thì lúc đầu cứ đứng lên đi một
vài bước là ngã nhào xuống, khi quen rồi thì chạy nhẩy
rất nhanh. Hay lấy thí dụ như khi mới bắt đầu tập viết
chẳng hạn thì lúc đầu viết mẫu tự A cũng rất khó, khi
viết quen rồi thì nhắm mắt viết cũng thành chữ, thành thơ.
Lấy một ví dụ nữa như hằng ngày đi làm, ta cứ đi một
con đường để đi từ nhà tới sở. Đi riết thành quen nên
có ngày ta không phải đi làm nhưng nếu lơ đãng, đôi khi
thay vì lái xe đến chợ ta lại lái xe đến sở làm. Hoặc
như việc hút thuốc hay uống rượu chẳng hạn; ban đầu hút
thuốc thì bị sặc sụa, ho và khó chịu vì khói thuốc; lúc
mới bắt đầu uống rượu thì thấy đắng, uống không muốn
vô; thế mà khi đã thành nghiền rồi thì thiếu điếu thuốc
hay chén rượu là không thể chịu được.
Xem
thế thì huân tập một việc gì là làm việc đó nhiều lần
cho đến khi thuần thục thành thói quen. Sự huân tập đưa
đến các thói quen khiến sự việc được tiến hành mà không
cần phải suy nghĩ. Các thói quen hay là tập quán này còn gọi
là tập khí, là nghiệp nhân, chúng tạo thành nghiệp lực
và đưa đến nghiệp quả. Nghiệp Quả ở các ví dụ trên
là những cây cối được mọc lên do sự thường xuyên tưới
bón các hạt giống, là sự biết đi của đứa bé, là sự
hoàn thành một bức tranh mầu sắc đẹp đẽ hay là sự nghiền
uống rượu say sưa hút sách bê bối.
A Lại
Da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống
chủng tử tăng trưởng, chuyển biến dị thục cho đến khi
có đầy đủ nhân duyên thuần thục chín mùi thì hiện khởi
ra căn thân và thế giới.
Căn
thân là quả dị thục của các chủng tử biệt nghiệp nơi
mỗi chúng sanh, còn được gọi là Chánh Báo. Căn thân gồm
hai phần là danh và sắc. Danh là tâm thức bao gồm cả bốn
uẩn thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là thân xác thô kệch,
là sự kết hợp của tứ đại đất, nước, gió, lửa, với
các lục phủ ngũ tạng và phù trần căn.
Thế
giới hay là quốc độ là quả dị thục của các chủng tử
cộng nghiệp nơi các chúng sanh. Thế giới là Y Báo, là nơi
mà chánh báo nương tựa để sinh sống. Nếu chánh báo là
người thì y báo là đất đai, nhà cửa, sông núi, cây cối,
là tất cả các cảnh giới và tất cả các loài chúng sanh
khác cần thiết cho sự hiện hữu và sinh tồn của con người
trên trái đất này.
Tùy
theo nghiệp lực mà mỗi chúng sanh đắc được một thân căn
nào đó trong tam giới cửu địa.
Tam
giới gồm có ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Dục
giới là nơi có năm loài chúng sanh ở lẫn lộn gọi là ngũ
thú tạp cư địa. Năm loài này gồm Trời, Người, Súc Sanh,
Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Ở đây chỉ nói đến năm loài thôi
mà không nói đến loài A tu la vì loài này có thể hiện thân
là bất cứ loài nào trong năm loài trên. A tu la là một loài
rất sân và ác độc; nếu ở trên trời thì là một vị ác
thần; nếu là người thì là một ác nhân như những tên sát
nhân, những tướng cướp hung dữ, những cường hào ác bá,
những lãnh chúa độc tài; nếu ở trong loài súc sanh thì là
loài ác thú như loài lang sói, hổ báo; nếu ở loài ma quỷ
hay địa ngục thì là loài quỷ dữ chuyên quấy phá và
não hại loài khác.
Sắc
giới có bốn cõi thiền là: Ly sanh hỷ lạc địa tức là
cõi Sơ Thiền, Định sanh hỷ lạc địa tức là cõi Nhị Thiền,
Ly hỷ diệu lạc địa tức là cõi Tam Thiền, Xả niệm thanh
tịnh địa tức là cõi Tứ Thiền.
Vô
sắc giới có bốn cõi là: Không vô biên xứ địa, Thức vô
biên xứ địa, Vô sở hữu xứ địa và Phi tưởng phi
phi tưởng xứ địa.
Trong
cả ba cõi có chín địa nên có danh từ Tam Giới Cửu Địa.
Tam Giới Cửu Địa còn được gọi là Tam Giới Lục Đạo,
ý nói trong tam giới có sáu loài chúng sanh gồm có trời, người,
a tu la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục.
Trong
quá khứ các hạt giống chủng tử sẵn có trong A lại da thức
duyên với thế giới trần cảnh bên ngoài cùng với các hành
tướng của các uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức bổ xung cho
nhau, tăng trưởng rồi chuyển biến và hiện khởi ra Chánh
Báo và Y Báo của kiếp hiện tại. Căn thân và Thế giới
của chúng ta bây giờ là quả dị thục của các nghiệp nhân
đã tạo trong quá khứ. Các chủng tử câu sanh (các chủng
tử vốn sẵn có từ trước) và các chủng tử hiện tại
lại tiếp tục làm nhân duyên cho nhau để rồi chuyển biến
thành một Chánh Báo và Y Báo mới trong đời vị lai.
Ta
hãy nghiên cứu bài tụng thứ ba của Bồ tát Thế Thân nói
về đặc tính của Tàng thức sơ năng biến này.
BÀI
TỤNG THỨ BA
Bất
khả tri chấp thọ,
Xứ
liễu. Thường dữ Xúc,
Tác
Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
Tương
ưng duy xả thọ.
Dịch
là:
Không
thể biết thọ thân
Xứ
nào. Thường cùng Xúc,
Tác
Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
Chỉ
tương ưng xả thọ.
Các
sự huân tập và chuyển biến trong A lại da thức thì thật
tiềm ẩn và vi tế nên người chưa đắc đạo không thể
biết được sẽ thọ thân làm loài gì và ở trong quốc độ
nào. Dựa trên lý nhân duyên, nghiệp báo và nhân quả ta sẽ
biết một cách đại khái rằng nếu muốn thọ lại thân người
thì phải giữ ngũ giới, nếu muốn thọ thân trời thì phải
giữ thập thiện. Thọ thân người và trời ra sao, làm thân
trưởng giả hay bần hàn, làm người giỏi giang hay ngu xuẩn,
làm vị trời cõi nào, cõi dục giới, sắc giới hay vô sắc
giới thì cũng rất khó mà biết chính xác, chỉ biết càng
thọ trì nghiêm mật, càng tạo nhiều phước báu thì cảnh
giới càng cao hơn.
Tiện
đây cũng nên nói sơ lược về ngũ giới và thập thiện vì
cũng có một số đông còn chưa thọ tam quy ngũ giới.
Tam
quy là tam quy y, quy y là nương tựa, tam là ba. Tam quy y cũng
gọi là quy y tam bảo là nương tựa vào ba nơi tôn quý Phật,
Pháp, Tăng để tu trì. Nương tựa vào Phật là vị đã giác
ngộ và chỉ dậy cho chúng ta đường lối tu hành để được
giải thoát. Nương tựa vào Pháp là thực hành đường lối
Phật đã chỉ dậy. Nương tựa vào Tăng, là đoàn thể những
người đã bỏ được đời sống thế tục, quyết tâm tu
hạnh giải thoát. Dưới đây là các câu tụng Tam quy dựa
theo thiền sư Nhất Hạnh:
Con
về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho con
trong cuộc đời.
Con
về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu
biết.
Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện
sống cuộc đời tỉnh thức.
Ngũ
giới là năm giới cho hàng Phật tử nương theo đó mà tránh
vi phạm. Năm giới đó là: Không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không vọng ngữ, không nghiện ngập.
Khi
xưa thời Phật chỉ nói không uống rượu nên hàng tăng lữ
nhiều khi nương vào đó để tha hồ hút sách và cờ bạc.
Giới
cấm là cái căn bản tiêu chuẩn đặt ra cho chúng ta nương
theo mà không vi phạm. Nếu vi phạm thì phải thọ nhận quả
báo. Muốn thọ lại thân người, muốn được có một đời
sống an vui, bớt phiền não thì hãy ráng mà tự giữ gìn.
Quả báo nhãn tiền thì đừng có trách ai. Thiền sư Thanh Từ
nói bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Hàng phàm phu chúng
ta chỉ thích hưởng thu, chừng nào tai họa đến thì la làng,
cầu xin khắp nơi mà đâu biết rằng gieo nhân nào thì thọ
quả đó. Phật là bậc đại trí và đại bi chỉ cho chúng
ta những việc không được làm để có thể đắc được
đạo quả, chúng ta không giữ gìn thì còn than khóc và cầu
xin làm gì. Chính ngay đức Phật cũng phải trả quả báo,
chính ngài cũng phải bị đau đầu ba ngày ba đêm vì trong
kiếp quá khứ đã đập vào đầu con cá ba lần, ngay dòng
họ của ngài cũng bị dòng Lưu Ly giết sạch dù rằng có
Mục Kiền Liên dùng thần thông bảo vệ cũng vô ích.
Còn
Thập Thiện là gì? Thập thiện là mười điều thiện, mười
điều thiện đó là không làm mười điều ác. Mười điều
ác gọi là Thập Ác. Những ai muốn thọ thân trời thì đừng
phạm mười điều ác này: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng
ngữ, lưỡng thiệt (nói hai đầu, nói lời ly gián), ác khẩu
(nói lời thô lỗ, độc ác), uế ngữ (nói lời nhơ nhớp,
dâm dục), tham dục, sân tức (nóng giận, bực tức), Tà kiến
(không tin nhân quả, không tin chánh pháp).
Không
thể biết rõ ràng các chủng tử được gieo vào Alại da thức
như thế nào, chúng kết hợp với các chủng tử có sẵn ở
đó ra sao, chúng tăng trưởng và chuyển biến như thế nào,
khi nào sẽ chín mùi và sẽ thọ nhận cái thân loài nào và
ở quốc độ nào, nên nói Bất khả tri chấp thọ xứ liễu.
Chấp là bám víu vào, thọ là sự thọ nhận một thân căn
(chánh báo), xứ là nơi chốn mà thân căn nương vào để sinh
sống tức là y báo, liễu là sự phân biệt, nhận biết.
Như
trên đã nói, những hoạt động và chuyển biến nơi tâm thức
thì rất vi tế và phức tạp nên không thể biết tường tận
hành tướng của chúng ra sao. Khoa học cũng chỉ nghiên cứu
được phần nào thôi. Sự nghiên cứu đó phần lớn ở trong
phạm trù sắc tướng và hiện tượng chứ khó mà đi sâu
được vào hai phương diện tâm linh và siêu hình.
Còn
cảnh giới y báo thì thật vô biên. Nội cái hư không này
thôi, ta cũng không đo lường đuợc ngằn mé của nó. Làm
sao có thể tưởng tượng ra được trái đất to tướng nặng
nề này lại có thể quay lơ lửng trong hư không. Không những
thế mà ngoài trái đất này còn có bất khả thuyết số các
hành tinh khác to gấp vô số lần trái đất, cũng lơ lửng
và quay cuồng trong các quỹ đạo riêng với vận tốc nhanh
hoặc chậm gấp vô số lần so với sự quay của trái đất.
Khoa học chỉ nghiên cứu các hiện tượng, đặt ra các giả
thuyết và định đề để tìm ra các cơ cấu, các định lý,
các nguyên tắc, các hằng số và các định luật chi phối
các hiện tượng đó nhưng không thể nào cắt nghĩa được
cái cội nguồn rốt ráo của mọi hiện tượng.
Những
khái niệm, những giải thích về nhân quả, về nghiệp báo,
về nhân duyên của A lại da thức đều là những cảnh giới
bất khả tư nghì mà chư Phật trong tam thế mười phương
đã thể chứng được khi các ngài chứng đắc được vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Cảnh giới bất khả tư nghì
này không thể dùng tri kiến và học thức thường tình mà
nghĩ bàn được, nó chỉ có thể trực nhận được khi đạt
đến cảnh giới chân như bằng các phương pháp tu trì như
Lục Độ Vạn Hạnh tức Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh
tiến, Thiền định và Trí huệ.
Chân
Như tuyệt đối hay là Chân Không Diệu Hữu đó chỉ có thể
đạt đến bằng công năng tu trì và thiền quán nhằm loại
bỏ tất cả các tập nhiễm có từ vô thủy, từ thô đến
tế để đưa tâm thức trở về cái bản thể thanh tịnh uyên
nguyên của nó. Chỉ khi ấy ta mới nhận chân ra cái cảnh
giới như thị, không thể nghĩ bàn mà chư Phật trong tam thế
mười phương đã chứng đắc.
Khi
đã có được khái niệm về chân tâm và khi đã thật sự
tin rằng bản tánh của mình vốn là Phật, vốn là Giác Ngộ,
vốn là Chân Như thì hãy ngưng những kiến chấp thường tình,
những hý luận và tranh cãi. Hãy tinh tấn tu hành, giữ giới,
tu thiền, hành từ bi, tập hỷ xả đúng như chánh pháp của
đức Thích Ca và chư Tổ đề ra trong các kinh, luật và luận.
Chỉ khi ấy Trí Huệ Bát Nhã mới phát sinh và Từ Bi Chân
Thực mới nẩy nở.
Kinh
Pháp Hoa nói Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên
là muốn cho chúng sanh hội nhập Tri Kiến Phật. Cái tri kiến
mà không lời nói và văn từ nào có thể diễn tả được.
Có nói đến đâu, bàn cãi, tranh luận đến đâu đi nữa thì
cũng chỉ tốn thì giờ vô ích và chẳng giải quyết được
gì. Tất cả chỉ là một trò hý luận mà thôi. Chính vì thế
mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong bốn mươi chín năm hành
đạo đã tuyên bố là chưa hề nói một lời nào. Cũng trong
chiều hướng này mà tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đến Trung Hoa
để nói lên cái yếu chỉ của Thiền Tông là Giáo ngoại
biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ chân tâm, Kiến
tánh thành Phật, tức là phương pháp trao truyền đặc biệt,
siêu việt trên các giáo lý, không dựa vào lời nói, đi thẳng
vào tâm, thấy tánh thành Phật.
Thường
dữ Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư có nghĩa là A lại da thức
thường tương ưng với Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư là 5
Tâm Sở Biến Hành. Năm tâm sở biến hành này là năm pháp
trong năm mươi mốt pháp của Tâm Sở Hữu Pháp.
Tất
cả các pháp tuy nhiều nhưng gom lại chỉ có 100 thứ và được
phân chia thành năm loại: 8 món Tâm Vương, 51 món Tâm Sở Hữu
Pháp, 11 món Sắc Pháp, 24 món Bất Tương Ưng Hành Pháp và
6 món Vô Vi Pháp. Bài kệ bốn câu tóm lược 100 pháp như sau:
Sắc
pháp thập nhứt, Tâm pháp bát
Ngũ
thập nhứt cá Tâm sở pháp
Nhị
thập tứ chủng Bất tương ưng
Lục
cá Vô vi thành bá pháp.
Dịch
là:
Sắc
pháp mười một, Tâm pháp tám
Năm
mươi mốt món Tâm sở pháp
Hai
mươi bốn món Bất tương ưng
Sáu
món Vô vi thành trăm pháp.
Bồ
tát Thế Thân trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận có viết
như sau:
Nhứt
thiết pháp giả, lược hữu ngũ chủng
Nhứt
giả Tâm pháp
Nhị
giả Tâm sở hữu pháp
Tam
giả Sắc pháp
Tứ
giả Tâm bất tương ưng hành pháp
Ngũ
giả Vô vi pháp.
Dịch
là:
Tất
cả các pháp có năm loại:
Thứ
nhất là Tâm pháp,
Nhì
là Tâm sở hữu pháp,
Ba
là Sắc pháp,
Tư
là Bất tương ưng hành pháp,
Năm
là Vô vi pháp.
Chữ
Pháp trong Bách Pháp Minh Môn Luận này không phải đồng như
nghĩa chữ Pháp trong Ngã và Pháp nói ở bài tụng thứ nhất
nhưng cũng chẳng phải khác vì nó bao gồm cả ngã lẫn pháp
đó. Pháp ở đây là tất cả các sự vật hữu hình hoặc
vô hình và tất cả các trạng thái tâm linh nào mà ta có thể
khái niệm được. Nói như thế có nghĩa là cả phi pháp cũng
là pháp. Chúng sanh và phi chúng sanh, ngã và vô ngã, có và
không, tất cả các hiện hữu và không hiện hữu cũng là
pháp vì khi ta có khái niệm về cái có là ta đã có khái niệm
về cái ngược lại là cái không. Lông rùa, sừng thỏ, hoa
đốm, trăng đáy nước, hoa trong gương, thành Càn Thát Bà,
đứa con của Thạch nữ, cùng tất cả những gì biểu trưng
cho sự không có thật cũng là Pháp.
Pháp
là những gì có khuôn khổ riêng mà ta có thể nhận biết
hoặc khái niệm được. Tiếng Hán giải nghĩa Pháp là Nhậm
trì tự tánh quỹ sinh vật giải, dịch là những gì có cái
tánh chất và khuôn khổ riêng mà dựa vào đó ta có thể nhận
biết hay khái niệm ra được. Chữ tự tánh trong câu
nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải phải được hiểu
theo nghĩa thông thường là đặc tính của một vật, của
một sự việc, của một vấn đề mà khi nói đến là ta có
khái niệm về sự vật hoặc vấn đề ấy chứ không phải
là Tự Tánh Chân Thật hay là Chân Như mà kinh Phật thường
nói đến.
Tám
thức tâm vương gồm có Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt
thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức.
Tám món tâm thức này rất thù thắng, tự tại và tự chủ
ví như những vị vua nên gọi là Tâm vương. Có vua thì phải
có cận thần là những vị quan dưới quyền để sai khiến,
để thi hành mệnh lệnh, là những thuộc quyền. Cũng vậy,
có Tâm vương nên phải có những sở hữu của Tâm vương
gọi là Tâm sở hữu hay là Tâm sở. Tâm vương và Tâm sở
có những liên quan rất mật thiết cũng như những sự liên
quan giữa vua và các vị cận thần. Tâm sở luôn luôn thi hành
lệnh của Tâm vương và ngược lại Tâm vương cũng bị ảnh
hưởng bởi Tâm sở. Đôi khi Tâm vương còn bị Tâm sở chi
phối, lôi cuốn hoặc tiếm quyền.
Giáo
sư Nghiêm Xuân Hồng trong Lăng Nghiêm Ảnh Hiện cho rằng Tâm
vương là các thức năng biến và các món Tâm sở là trạng
thái lục dục của chúng sanh, là những trạng thái tâm lý
sở biến của các Tâm vương. Cho nên Tâm sở không phải là
một với Tâm vương nhưng cũng không phải là khác vì cả
hai đều do thức biến cả. Nếu ví các thức Tâm vương như
những dây đàn thì các Tâm sở là những nhịp điệu rung
động của dây đàn, khiến phát ra những âm ba lúc khoan lúc
nhặt, lúc trầm lúc bổng, lúc vui lúc buồn.
Tâm
vương và Tâm sở hợp với nhau và làm hiện ra sắc pháp.
Các món Bất Tương Ưng Hành Pháp là các món sai khác, không
phải tâm pháp mà cũng không phải sắc pháp. Các món Tâm vương,
Tâm sở, Sắc pháp và Bất tương ưng hành pháp đều là pháp
hữu vi. Do các pháp Hữu vi được diệt mà pháp Vô vi được
hiển bày ra. Tuy phân biệt ra có pháp Hữu vi và Vô vi nhưng
tất cả đều gọi là pháp và đều do tâm biến hiện.
Tàng
thức thường được ví như là mặt đất, Mạt Na thức là
rễ cây luôn bám víu vào mặt đất, Ý thức được ví như
thân cây và Tiền ngũ thức ví như những nhánh chính mọc
ra từ thân cây.
Vì
5 pháp Tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư nằm
trong 51 món Tâm Sở Hữu Pháp nên trước hết xin liệt kê
51 món này để làm quen với danh từ và sau đó sẽ đi sâu
vào chi tiết của 5 món tâm sở biến hành này.
Năm
mươi mốt món Tâm Sở Hữu Pháp được chia làm sáu loại
như sau:
5 món
Tâm sở Biến Hành gồm có Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư.
5
món Tâm Sở Biệt Cảnh gồm có Dục, Thắng giải, Niệm, Định,
Huệ.
11
món Thiện gồm có Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh
tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại.
6
món Căn Bản Phiền Não gồm có Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác
kiến.
5
món Tùy Phiền Não gồm có 10 món Tiểu Tùy, 2 món Trung Tùy
và 8 món Đại Tùy. Tiểu Tùy gồm có Phẫn, Hận, Phú, Não,
Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu. Trung Tùy gồm có Vô tàm,
Vô quý. Đại Tùy gồm có Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín,
Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri.
4 món
Tâm Sở Bất Định gồm có Hối, Miên, Tầm, Tứ.
Năm
món Tâm Sở Biến Hành Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng và Tư luôn
luôn có mặt trên mọi tiến trình diễn biến của tâm thức.
Chúng xuyên qua thời gian bao gồm cả quá khứ, hiện tại và
vị lai. Chúng chu biến khắp không gian, có mặt trong tất cả
các giới và địa. Chúng tiếp xúc với tất cả các tâm vương
cùng tâm sở và thông cả ba tánh: thiện, ác và vô ký (tánh
lành, tánh dữ và tánh không lành không dữ). Chính vì thế
mà tâm sở này gọi là biến hành. Biến là chu biến, phổ
biến, hành là hoạt động, là tác động.
Tâm
sở biến hành thứ nhất là xúc. Xúc là tiếp xúc, là sự
tiếp giáp giữa căn, trần và thức. Tâm sở này là chỗ nương
tựa của các tâm sở Thọ, Tưởng và Tư là các hành tướng
của thức, nghĩa là khi có sự tiếp xúc giữa Căn và Trần
thì có sự phân biệt, có sự thọ nhận, nghĩ đến và suy
tư về đối tượng được tiếp xúc, nói khác đi là có sự
hoạt động của Thức. Ba thứ Căn, Trần và Thức cùng nhau
tùy thuận; Xúc nương ba thứ đó mà phát sanh khiến ba thứ
đó được hòa hợp. Ba thứ Căn, Trần và Thức có công năng
tương ưng nhau mà khởi sanh ra các sự thay đổi biến khác.
Xúc tương ưng với sự thay đổi biến khác đó mà khởi lên.
Tánh của Xúc là khiến cho Tâm vương và Tâm sở cùng tiếp
xúc cảnh.
Tâm
sở biến hành thứ hai là tác ý. Tác ý là móng khởi cái
ý. Nó làm phát động các chủng tử của tâm vương và tâm
sở tức là nó đánh thức các chủng tử làm cho sanh khởi.
Công dụng của nó là hướng tâm duyên đến cảnh. Nếu nhận
thức chưa phát khởi, nó làm cho phát khởi; nếu nhận thức
đã phát khởi, nó khiến cho nhận thức tập trung vào đối
tượng.
Tâm
sở biến hành thứ ba là thọ. Thọ là sự lãnh nhận, lãnh
nạp các cảnh thuận, nghịch hoặc không thuận nghịch. Cảnh
giới của Thọ là lấy sự lãnh nạp làm tướng. Công dụng
của nó là khởi lên sự ưa thích, sự không ưa thích hay là
sự không cả hai.
Tâm
sở biến hành thứ tư là tưởng. Tưởng là nhớ tưởng.
Tánh của tâm sở này là nhớ lại, hình dung lại, có khái
niệm về ảnh tượng của cảnh vật. Cảnh giới của nó
là lấy sự thu nhận cảnh tượng làm tướng. Công dụng của
nó là thiết lập danh ngôn, đặt ra những danh từ để biểu
hiện các cảnh tượng.
Tâm
sở
biến hành thứ năm là tư. Tư là suy nghĩ, so đo. Tánh của
tâm sở này làm cho tâm suy nghĩ tạo tác. Công dụng của
nó là khiến tâm quyết định hành động, hoặc làm lành,
làm dữ hay không làm lành hoặc dữ.
Hãy
thử nghiên cứu tác dụng của các Tâm Sở Biến Hành xúc,
tác ý, thọ, tưởng, tư trong câu chuyện có thật về chàng
Diễn Nhã Đạt Đa trong thành Thất La Phiệt mà Phật nói trong
kinh Lăng Nghiêm. Câu chuyện kể rằng một hôm anh Diễn Nhã
Đạt Đa lấy gương soi mặt bỗng nhiên ưa cái đầu trong
gương cùng lông mày con mắt có thể thấy được rồi giận
trách cái đầu mình sao lại không nhìn thấy mặt mày rồi
cho mình là yêu quái mà phát cuồng bỏ chạy.
Do
đâu mà Diễn Nhã Đạt Đa bỗng ưa cái đầu trong gương cùng
lông mày con mắt? Là vì tác dụng của xúc khi con mắt của
anh ta tiếp xúc với hình ảnh trong gương khiến anh khởi cái
tác ý ngắm nhìn.
Do
đâu mà Diễn Nhã Đạt Đa phát cuồng bỏ chạy? Là vì chàng
ta thọ nhận cảm giác ưa thích cái đầu cùng con mắt và
lông mày trong gương, rồi khởi ra cái tưởng, rồi suy tư
cho rằng mình không có đầu, cho rằng mình là yêu quái, mà
có hành động phát cuồng bỏ chạy.
Hoặc
lấy một câu chuyện ngắm hoa làm thí dụ. Thí dụ hằng ngày
tôi đều đi bách bộ ngang qua một vườn đào nhưng vì không
có gì đặc biệt đập vào con mắt nên tôi không biết rằng
mình đi ngang một vườn đào. Khi mùa xuân đến, hoa đào nở
rực rỡ đập vào mắt tôi, do sự tiếp xúc đó mà tôi mới
biết có sự hiện hữu của vườn đào đẹp đẽ này. Vì
hoa đào nở mình mới chú ý đến và nhận ra sự hiện hữu
của hoa đào và cảm thấy thích thú. Về nhà tưởng nhớ
lại thì thấy hoa đào quả là đẹp, rồi suy tư ước
muốn có một vài cây đào ở trước sân nhà để được
ngắm nhìn hoa nở khi xuân về, vì thế mà tôi quyết định
phải mua vài ba cây đào về trồng ở trước sân.
Những
diễn trình tâm lý xẩy ra trong trường hợp ngắm hoa này phát
khởi do sự hòa hợp giữa nhãn căn cùng hoa trần cảnh và
nhãn thức mà sinh ra các sự chú ý, thích thú, tưởng nhớ
và ao ước là những tác động biến hành của các Tâm sở
Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng và Tư.
Ở
thí dụ ngắm hoa này, nhân nhãn căn, nhãn thức hợp với trần
cảnh hoa đào mà Xúc phát sanh, khơi động hình ảnh hoa đào
đã có trong A lại da, đưa hình ảnh này vào ý căn tức thức
Mạt na. Tác động này gây nên sự chú ý (Tác ý) nơi Ý thức.
Ý thức dựa vào khái niệm về hoa đào đã có trong A lại
da thức mà biết được hình ảnh đang thấy là hoa đào và
khởi phân biệt, thấy có đẹp, có vui, có thích và có ý
muốn trở lại ngắm hoa nữa hoặc có ý định trồng một
vài cây đào ở trước nhà.
Hình
ảnh hoa đào cùng những cảm thọ mới này lại được huân
tập trở lại vào A lại da thức dưới dạng một chủng tử
mới tiềm ẩn và tô đậm thêm một lớp vọng nữa vào chủng
tử hoa đào đã có ở trong A lại da thức.
Trường
hợp chưa bao giờ thấy hoa đào thì hình ảnh hoa đào được
đưa vào trong A lại da thức trong sát na đầu tiên ngay khi
căn tiếp xúc với trần lúc mà ý thức chưa khởi phân biệt,
được coi là một đối tượng chân thật mà danh từ duy thức
gọi là một Tánh Cảnh. Sau đó là sự chấp ngã của mạt
na, sự phân biệt của tiền lục thức cùng các tâm sở biến
hành xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Ở đây tâm sở biến hành
tưởng tác động lên Ý thức, khởi nên sự tìm tòi một
danh từ để đặt tên cho hình ảnh mới được thấy này.
Tác
động của Xúc, Tác ý, Thọ. Tưởng và Tư ở các thí dụ
trên là tác động của 5 tâm sở biến hành tương ưng với
Liễu Biệt Cảnh Thức khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần
giúp ta có khái niệm về các hoạt động của các tâm sở
biến hành này.
Năm
tâm sở biến hành Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư tương ưng
với A lại da thức thì khác với các tâm sở biến hành nơi
tiền lục thức vì mỗi một tâm vương có các tâm sở biến
hành riêng rẽ ví như những vị vua của mỗi quốc gia có
các quần thần riêng. Tác động của chúng rất vi tế, chúng
tác động lên các chủng tử tiềm ẩn sẵn có nơi A lại
da, làm các chủng tử này tăng trưởng hoặc chuyển biến
khác đi.
Năm
tâm sở biến hành nơi Alại da thức thì luôn đi kề với
thức này, chúng phát hiện ngay những tâm sở biến hành nào
vừa móng khởi nơi Mạt na thức và Liễu biệt cảnh thức
và đưa các dữ kiện này vào A lại da thức. A lại da thức
là cái kho chứa, nhận tất cả các dữ kiện này như những
chủng tử mới mà không khởi phân biệt tốt hay xấu. Vì
thế mà câu thứ tư trong bài tụng thứ ba nói nó chỉ Tương
ưng duy xả thọ. Thọ ở đây là sự cảm thọ. Có ba loại:
thọ vui hay là lạc thọ là cảm giác khi gặp cảnh thuận
hay khi được khen thưởng, thọ buồn tức khổ thọ khị gặp
cảnh nghịch hay là khi bị chê trách, không vui không buồn
tức xả thọ như khi gặp cảnh bình thường, không được
khen cũng không bị chê.