Nghệ
thuật tạo hình Việt Nam từ xưa tới nay đã có những thành quả rất lớn
và được thể hiện ở những công trình mang Phật giáo thờ tự mà chủ yếu là
các ngôi chùa cổ. Hay nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng Mỹ thuật
Phật Giáo đã có những đóng góp lớn trong nền Mỹ thuật tạo hình Việt
Nam. II. Vai trò của hội họa Phật Giáo Việt Nam A. Sự hình thành và phát triển Khi
nói đến Mỹ thuật, chúng ta nói đến điêu khắc, hội họa và kiến trúc. Ba
thể loại này thường gắn liền với nhau, cùng tồn tại và phát triển. Sự
hình thành và phát triển của Mỹ thuật Phật Giáo Việt Nam về mặt kiến
trúc và điêu khắc đã được đề cập tới từ sách báo tranh ảnh nhiều bởi
các công trình này còn tồn tại nhiều, ai cũng nhận thấy. Còn về hội hoạ
Phật Giáo ít người chú ý đến, sự tìm hiểu còn quá sơ sài bởi các tác
phẩm hội hoạ Phật Giáo bị mai một và thất lạc, không lưu giữ được
nhiều chỉ còn lại rất ít tranh của thời kỳ sau này. Nhưng nhìn lại
những bức phù điêu, chạm khắc, tranh tường... ở các ngôi chùa chúng ta
có thể hiểu giai đoạn đầu là những nét vẽ của các nghệ nhân lên mặt
phẳng trước khi dùng dao đục chạm khắc để tạo thành các hình sóng
nước, hoa lá, rồng phượng... Rõ ràng là hội họa với khía cạnh này
người ta gọi là “Đồ hoạ” hay nghệ thuật đường nét. Bên
cạnh ý nghĩa của nghệ thuật đường nét, chúng ta còn thấy mặt thứ 2
của nghệ thuật hội hoạ đấy là vận dụng màu sắc. Thời kỳ đầu, chỉ thấy
màu đo của Thổ hoàng được sử dụng là chính, về sau, màu sắc trên tranh
đã phong phú nhiều, chủ yếu là đỏ sẫm, lục, lam, vàng và đen. B. Các thể loại tranh: 1. Tranh chạm khắc: Hiện
tại các tác phẩm điêu khắc, kiến trúc Phật Giáo còn tồn tại nhiều, về
hội họa chưa sưu tập được bức tranh nào vẽ trên giấy vải về Phật
Giáo của những thế kỷ đầu. Tuy
nhiên không vì thế mà chúng ta hoàn toàn không biết gì về sự phát
triển của hội họa Phật Giáo, dựa vào các bức tranh chạm khắc trên đá,
trên ghỗ còn mãi mãi chứng tích về sự có mặt của các bức tranh từ thời
Lý Trần tới nay. (Tranh Phượng chạm gỗ chùa Bút Tháp, tranh chạm gỗ
người chim dây hoa chùa Thái Lạc). Cũng
như điêu khắc Phật Giáo, hội hoạ Phật Giáo gắn liền với kiến trúc.
Điêu khắc có khi hỗ trợ cho Kiến trúc còn hội hoạ Phật Giáo để trang
trí. Nhưng trang trí ở đây hoàn toàn không phải giản đơn để cho “vui
mắt” mà có ý nghĩa truyền tải những lời răn dạy của Đức Phật về cách
sống, cách tu tập, các nghi lễ Phật Giáo... (tranh chạm gỗ “Tiên nữ gảy
đàn”, “Tiên nữ tán hoa”...) Đó chính là những tranh
chạm trên mặt lan can, hành lang chạy quanh hồ Linh Chiểu và Bích Trì
thuộc chùa Một Cột (Hà Nội). Những tượng đắp và hình vẽ ở chùa Báo Ân
(Thanh Hoá). Rồng trên trụ đấu chùa Phật Tích Rồng trên cốn chùa Thái Lạc Rồng trong cánh sen bệ tường chùa Ngoc Khảm Rắn biểu trưng sóng nước ở bệ tượng chùa Ngọc Khảm Rồng chùa Phật tích, chùa Hương Sơn, chùa Thái Lạc. Những
hình chạm nổi người múa và biểu diễn nhạc cụ trên mặt phẳng của đá,
tất cả thể hiện sự sôi noi mà vẫn trang nghiêm của điệu múa “lục cúng”
rất quan trọng trong nghi lễ Phật Giáo. Nhóm nhạc công đánh đàn và
người chia dây hoa (chùa Thái Lạc) được thể hiện một cách sinh động.
Đây chính là những bức tranh vẽ được tạc lại trên gỗ, trên đá mà đến
ngày nay ta còn thấy ở hầu khắp các ngôi chùa cổ. 2. Tranh minh hoạ: Trong
tất cả các kinh tạng Phật giáo, phần minh hoạ trong kinh không thể
thiếu. Tranh được in trên giấy gió thường là tranh đen trắng. Trong
các bản kinh cổ in trên giấy gió, bao giờ cũng có những hình tranh
minh hoạ, cũng có lúc là để minh hoạ kinh bằng tranh cho người đọc dễ
hiểu, cũng có lúc là những bức tranh các vị Phật hoặc Phật Tam thế (12
vị Kim cương trong kinh Kim Cương). Thậm chí còn có
nhiều cuốn tranh dạy người xem cách tu tập và hiểu sâu nghĩa của phép
tu. Tiêu biểu như cuốn “Tranh vui thiền” (Tác giả Minh Quang). Kinh
Pháp Hoa bằng tranh (Tác giả Trung Quân), tích truyện Kinh Địa Tạng
(Tác giả Trọng Đức). Tuy không phải đọc nhiều nhưng
qua những hình ảnh tranh vẽ của cuốn sách, các Phật tử có thể hiểu
được ý nghĩa cao sâu của lời Phật dạy một cách dễ dàng. Tranh
minh hoạ Phật Giáo còn đóng góp rất tích cực, luôn có mặt ở các báo,
tập san của Nhà chùa như tuần báo Giác ngộ, Nguyệt san Giác ngộ, Tạp
chí Văn hóa Phật giáo, Đặc san Chùa Hương... góp phần
cho các báo Phật Giáo ngay càng thâm nhập sâu tới người xem một cách
rộng rãi, số người đọc ngày một tăng, trở thành món ăn tinh thần của
người dân Việt. 3. Tranh tường (bích họa) Tranh
tường là một phần không thể thiếu vắng trong mỹ thuật Phật Giáo, cùng
với điêu khắc, kiến trúc, đã dựng lên thế giới của Phật giáo. Những
bức tranh tường tiêu biểu hiện còn tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) và một số
chùa khác. Bộ tranh 18 vị La Hán, tranh tóm tắt lại cuộc đời đi tu của
Đức Phật từ khi rời Hoàng cung, trên đường gặp ma chướng đến khi giác
ngộ cho người xem học tập và tu trì, đồng thời cũng có những bức tranh
vẽ địa ngục và niết bàn đã giải thích được luật nhân quả vốn trừu
tượng, bày ra 2 viễn cảnh tương lai, con đường đi đến cõi cực lạc và
con đường dẫn xuống địa ngục để Phật tử trông thấy mà tự lựa chọn. Cách
dùng hình tượng thảnh thơi an lạc tại cõi niết bàn đối lập với những
hình phạt ghê gớm ở chốn âm cung, khi đập vào mắt người xem tự nhiên làm
cho người ta rùng minh kinh sợ, khi nghĩ đến lúc phải ra nơi phán xét
cuối cùng nếu mình làm những điều độc ác (tranh Địa ngục hay tranh Thập
điện Diêm vương – Chua Trăm Gian, Chùa Hương). Những tranh vẽ có sức
mạnh giáo dục, truyền tải tới người xem những lời giáo lý răn dạy của
Đức Phật tới Phật tử nhằm xây dựng con người có lòng vị tha, từ bi, hỷ
xả. Những
người hoạ sĩ Phật tử khi vẽ tranh tường này cũng phải đã từng học và
hiểu nội dung của kinh Phật, hiểu được sự hình thành, quá trình tu tập
và hoằng pháp của Đức Phật thông qua những tác phẩm hội hoạ của mình
nhằm truyền tải cho người xem những ý tưởng mà mình đã lĩnh hội được,
đấy cũng chính là thành công về mặt hội họa Phật Giáo. Đúng như văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở Thanh Hóa có nói rõ “Tường
vách vẽ đồ, chư duyên nhân quả thiên biến vạn hoá, rất là huyền diệu,
người nào trông thấy cũng cố gắng làm điều thiện, răn bỏ điều ác, đấy
là nơi cư trú của Đức Phật vậy” (thơ văn Lý Trần). 4. Tranh chữ: Hội
họa Phật Giáo nhiều khi liên hệ khăng khít với thi ca. Những bức tranh
đẹp cũng như bài thơ thường là các tác phẩm trong cái này có bóng
dáng cái kia. Đúng như lời khen của cổ nhân “Thi trung hữu họa, họa
trung hữu thi”. Thật
vậy, sự phối hợp giữa hội họa và viết chữ đẹp đã trở thành một biểu
hiện nghệ thuật. Ngay bản thân một dòng chữ đẹp đề chú trên tranh hay 1 bức tựa đề cổ tự (tên chùa), chữ trên những bức hoành phi, câu đối... cũng có thể coi là những bức tranh đẹp và có phong cach độc đáo. Vua Lý Thánh Tông năm 1071 đã ngự viết chữ “Phật”
dài tới 6 trượng 6 thước rồi cho khắc vào bia đá chùa núi Tiên Du. Tấm
bia độc đáo này nay không còn nhưng ta còn giữ một tấm bia ở chùa Hòm
(Hải Dương) cao 1,6m dựng năm 1331 mặt trước chạm chữ “Phật” lớn, chắc
hẳn trước khi đục người nghệ sĩ Phật tử ấy phải viết chữ lên mặt bia,
sau đó mới theo nét viết mà đục, cậy bỏ đi phần nền. Nét
của chữ “Phật” mềm mại, có chỗ mở rộng, có chỗ thu lại dần dần, có chỗ
cong duyên dáng, lại có chỗ phẩy đột ngột và mạnh mẽ đòi hỏi người
viết phải nghiên cứu, tay và mắt phải luyện như tập vẽ mới để lại cho
hậu thế một tác phẩm chữ “Phật” viet phóng khoáng như vậy. 5. Tranh Mandala: Những
năm gần đây tại một số ngôi chùa, các bức Mandala được trình bày sắp
đặt một cách nghiêm túc ở những nơi trang trọng nhất, những nơi thờ tự
như ở chùa Hương, chùa Thầy, chùa Quang Ân... Những bức Mandala này
phần lớn được vẽ khắc trên đồng, vẽ trên vải... với cách vẽ cân đối.
Trọng tâm là một điểm thu hút tất cả năng lượng vũ trụ bên ngoài và
năng lượng của người tín tâm được khai mở. Bởi vậy Mandala được coi là
một “Bản tôn hoá Phật”. Với những bức Mandala đã đánh dấu nền
hội họa Phật Giáo Việt Nam có thêm những sáng tác mới với một phong
cách mới nhưng vẫn giữ được nguyên tắc chung của Mandala Phat Giáo.
Hiện nay có một số hoạ sĩ Phật tử đã mạnh dạn vẽ những bức tranh
Mandala mang tinh thần và phong cách thể hiện riêng biệt của hội họa
Việt Nam. III. Kết luận: 1. Sự đóng góp của hội hoạ Phật Giáo trong nền Mỹ thuật Việt Nam. Hội
họa Phật Giáo Việt Nam từ những giai đoạn đầu đã được phát triển
phong phú, muôn hình muôn vẻ. Thiên nhiên nhiệt đới rất giàu cảnh sắc,
đấy chính là nguồn cảm xúc cho các nghệ sĩ nói chung khi sáng tác nghệ
thuật, không nằm ngoài những cảm xúc vậy các nghệ sĩ Phật tử cũng đưa
thiên nhiên vào các tranh trang trí trong chùa nhưng không sao chép
nguyên xi mà chọn những gì hiền hoà nhất, thơ mộng nhất. Những hình hoa
Cúc, hoa Sen, những con chim, con bướm, con cá... và cả những em bé
xinh xắn rất thơ ngây vừa bơi lội vừa hái hoa... Đó là những hình ảnh
gắn liền với cuộc sống hàng ngày, và các tạng kinh điển của nhà Phật. Song
những bức tranh Phật Giáo của thời kỳ đầu đã mất đi theo sự hủy diệt
của Kiến trúc, còn tranh giấy và lụa thì chất liệu dễ hư nát, không
tồn tại lâu dài do khí hậu nhiệt đới, đấy là thiệt thòi lớn của chúng
ta. Bù vào đấy chúng ta còn lại những bức tranh đã vẽ từ những thế kỷ
17-18 lại đây. Phần nào chúng ta có thể hiểu được cách vẽ của người
xưa, các họa sĩ không chú trọng nhiều đến yếu tố ánh sáng mà chú trọng
nhiều về phần cơ bản cua hình tượng, cũng không xác định vị trí đứng
vẽ như ở tranh cổ điển phương tây. Nhấn mạnh các chỗ quan trọng, đó
chính là đặc trưng riêng đánh dấu sự thành công của hội hoạ Phật Giáo
Việt Nam trong nền Mỹ thuật Việt Nam. 2. Sự hiện diện của các hoạ sĩ Phật tử hiện nay. Hoà
chung với sự phát triển của Đạo Phật ở mọi miền. Các Phật tử hoạ sĩ
cũng muốn đóng góp sức mình trong quá trình hoằng dương Phật pháp.
Tiêu biểu nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, cố hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí… Liên
tiếp các cuộc triển lãm ca ngợi tinh thần Phật Giáo và mừng đản sinh
được mở ra của các hoạ sĩ TP.Hồ Chí Minh, nhóm Mặc Hương của các hoạ
sĩ Hà Nội mừng Phật đản đã đánh dấu sự mở đầu của Hội họa Phật Giáo
Việt Nam ngày nay càng được phát triển cả về số lượng và nội dung.
Điều này minh chứng rằng tinh thần Phật Giáo đã đi sâu vào mọi tầng lớp
nhân dân từ người nông dân đến trí thưc, các nghệ sỹ, từ cụ già đến em
nho, ai cũng một lòng hướng thiện và đến chùa để chiêm ngưỡng là mong
mỏi của người dân Việt. * H.s Pháp Lạc (Hs.Nguyễn Thị Nhàn) |