Mỹ học là một khái niệm chung, nó chỉ định bộ môn khoa học nghiên cứu
những mối quan hệ thẩm mỹ. Do vậy, không có một mỹ học riêng của từng
dân tộc, từng cộng đồng xã hội. Nhưng, tùy từng tồn tại, vẫn có thể có
những hệ thống tư tưởng thẩm mỹ, những mỹ cảm riêng biệt. Cho nên, chúng
ta vẫn có thể chấp nhận khái niệm “hệ thống mỹ học Phật giáo”.
Nếu
nghệ thuật là ngôn ngữ của những nỗi đau đời- “những điều trông thấy mà
đau đớn lòng” (Nguyễn Du), thì Đức Phật là một nghệ sĩ lớn. Và nếu nghệ
thuật cũng là ngôn ngữ của cái VÔ, thì Đức Phật cũng là một nhà mỹ học
vĩ đại, Đức Phật là nhà mỹ học của thể nghiệm thẩm mỹ thông qua một chủ
thể mang biện chứng thẩm mỹ nội tại. Do vậy, hệ thống mỹ học ấy rất sâu
lắng, cái sâu lắng của tự thân vận động.
Phật học không phải là một triết học, càng
không phải là một triết học lý giải bản thể. Hệ thống này không đi tìm
những định nghĩa về yếu tính. Bàlamôn, từ Védas đến Upanishad, đều tập
trung trả lời cho hai câu hỏi: – Vũ trụ là gì? Hệ thống ấy đã trả lời
bằng bản thể “Thần Một”, bằng Brahman, Atman. Lão, Trang đi tìm bản thể,
tìm quy luật thế giới để đưa ra những khái niệm “Tự nhiên, Vô vi”. Tự
nhiên là quy luật khách quan, và Vô vi là sống theo cái tự nhiên vô thức
ấy.
Cả một dòng triết học phương Tây từ Cổ đại Hy- La, Trung cổ, Phục
hưng, Khai sáng, Cổ điển Đức… đều là triết học bản thể. Họ giải thích
yếu tính của vũ trụ và con người. Dòng triết học bản thể ấy kết tinh lại
trong “vật- cho- ta” và “vật- tự- nó” của I.Kant, trong “Tinh thần
tuyệt đối” của biện chứng duy tâm Hégel. C.Mác đứng ở đỉnh cao của triết
học để thực thi một phủ định biện chứng triết học cổ truyền, cho ra đời
chủ nghĩa Duy vật biện chứng.
Đức Phật không xây dựng hệ thống tư tưởng của mình để trả lời những
câu hỏi về bản thể. Đó là một hệ thống cảm nhận, miêu tả, thể nghiệm và
giải thoát cho cuộc đời. Như vậy, đó là một hệ thống thực nghiệm, thực
hành.
Mỹ học Phật giáo là một hệ thống nằm trong hệ thống lớn trên. Nó
không lý giải các bản thể thẩm mỹ, mà cảm nhận, thể nghiệm các quan hệ
thẩm mỹ nhân sinh.
Đức Phật “thấy” Khổ đế, Tập đế, tức cái Bi. Đây là điểm xuất phát của
mỹ học Phật giáo. Nó vừa là một năng lực cảm nhận, thể nghiệm, lại vừa
là một năng lực tư tưởng về sự giải phóng nhân sinh. Làm sao mà một
hoàng tử sống trong nhung lụa, quyền uy… lại có thể cảm nhận được Khổ
đế? Đây là cả một biện chứng pháp nội tại.
Đức Phật đã cảm nhận được cái “biện chứng sa đọa” của chính tầng lớp
thống trị với tư cách là một người trong cuộc. Đại thi hào Nguyễn Du của
chúng ta cũng đã viết Truyện Kiều bằng cảm hứng của một tâm hồn cảm
nhận sâu sắc cái biện chứng nội tại này. Chúng ta hiểu vì sao mà truyện
Kiều lại đậm đà một thẩm mỹ Phật giáo.
Trong cảm nhận “biện chứng sa đọa nội tại” của tầng lớp thống trị
(chữ dùng của C.Mác), Đức Phật đã cảm nhận được cái lẽ bể khổ của con
người. Nước mắt chúng sinh còn nhiều hơn cả nước của năm đại dương. Các
tư tưởng Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ là cái cơ sở của tư tưởng mỹ học
Phật giáo. Điều này, các ông Mác Mule, Trêbátxki… đã nói tới trong những
tác phẩm nghiên cứu uyên bác về Phật giáo của họ.
Cảm nhận biện chứng sa đọa nội tại có bao hàm một thái độ phủ định
của con người ở trong tầng lớp thống trị đối với giai cấp thống trị. Như
vậy, trong đồng cảm với kiếp sống con người, Đức Phật đã có một từ chối
với sự thống trị- nguyên nhân cơ bản của Khổ.
Phần đã trình bày là tư tưởng của Phật giáo về thẩm mỹ cái bi kịch.
Đó là một hệ thống. Phật giáo đã trình bày phạm trù thẩm mỹ này như
là một cấu trúc mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa con người với hoàn cảnh, và
mâu thuẫn nội tại trong một cá thể người chưa giác ngộ.
Niết bàn là giải pháp tuyệt đối cho bi kịch ấy.
Nhưng Niết bàn là gì?
Chốn ấy ở đâu?
Đức Phật chỉ ngón tay kỳ diệu của mình về Cái Đẹp. Vành trăng ấy chỉ gói trọn một chữ tâm. Có Tâm mới có Vô Ngã.
Tâm không tự có như một tiên thiên. Tâm là kết quả của một đại lực,
đại hùng. Không loại trừ được cái Tập đế, cái Thường, cái Ngã, cứ sống
mãi trong vòng Ngũ uẩn… nghĩa là, cứ sống trong tha hóa… thì “lòng đục”,
thấy sao được chữ Tâm. Tâm là kết quả của Diệt đế, Đạo đế.
Có một tiến trình đại dũng là để đi tới đại nhân, đại trí. Đó chính là logic mỹ học của nhân cách Phật giáo.
Chuyển hóa được từ phạm trù cái bi đến phạm trù cái Đẹp là do một lực lượng nội tại hùng hậu của chủ thể Phật giáo.
Cái bi không phải chỉ được chuyển hóa thành cái đẹp, mà còn được chuyển hóa thành phạm trù cái Trác tuyệt.
Phật giáo là ngón tay chỉ cho mỗi chúng sinh đang trầm luân chao đảo
trong bể khổ, tự mình thiết lập được thế thăng bằng của cấu trúc cái
Đẹp, tự mình vươn tới Cao cả. Đó là thẩm mỹ của Thiền.
Hạt nhân của hệ thống mỹ học Phật giáo là thẩm mỹ của tư tưởng nhân
đạo hiện thực, nhân văn. Tất cả đó đều từ con người, vì con người và về
với con người. Tất cả đều là mỹ học cho con người tại thế. Như vậy, Phật
giáo đã cho chúng ta một định nghĩa về mỹ học.
Theo ĐH SƯ PHẠM HÀ NỘI,hoalinhthoai.com