đã bị
chính quyền người Tây phương hiếp đáp quá nhiều trong hơn hai trăm năm
trước. Mọi tôn giáo muốn tồn tại trong sinh hoạt dân gian phải được tổ
chức, và tín đồ phải biết khép cánh hỗ trợ. Vì lẽ đó mà trong thập niên
năm mươi sau Thế Chiến II, tín đồ Phật giáo đã tổ chức Đại Hội Kết Tập
(Sangiti) lần Sáu tại Miến Điện.
Sangiti là đại hội quy tụ các nhà lãnh đạo Phật giáo để san định kinh
sách và quyết định cương lĩnh cấp thời của đạo. Đại hội chọn lá cờ Phật
giáo và quyết định lấy ngày trăng tròn từ giữa tháng Tư sang giữa
tháng Năm dương lịch làm thành ngày khánh lễ Đản Sanh đức Phật Thích-ca.
Tất cả các quốc gia tham dự Đại Hội Sangiti lần Sáu đều thỏa nhận
quyết định thiết lễ Visakha vào ngày trên.
Bài sưu khảo nhỏ
này tìm hiểu lề lối người xưa xác định ngày Đản Sanh của đức Phật.
Chúng ta sẽ không tránh được phải nhắc tới các điểm trầm luân trong sinh
hoạt tôn giáo người Á đông và Đông Nam châu Á mà đạo Phật đã là một
yêu tố tiềm tàng và năng động nhất. Để hướng việc học đạo Phật vào hệ
thống, ngữ vựng trong bài này sẽ dựa vào cuốn Phật Học Từ Điển của thầy
Minh Châu (nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà-nội 1991). Các danh từ
chung hay riêng sẽ được cố gắng giữ hình thức chữ Sanskrit (S.) hay
Pali (P.), dịch một lần qua chữ Hán hay tiếng Việt đặt trong vòng đơn,
trừ trường hợp những danh từ quá thông dụng. Như vậy sẽ giúp được người
đọc dễ theo dõi, so sánh, tra cứu với các tài liệu bằng tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Đức... ngày nay rất phong phú tại các thư viện, trong
khi tài liệu bằng Hán văn đã trở thành khan hiếm, không còn trong tầm
tay của bạn trẻ.
Trong một cơ hội trước, tác giả bài này đã có
dịp trình bày về năm sanh của đức Phật (Tìm hiểu năm sanh xác thật của
Đức Phật Thích-ca, Tạp chí Hoa Sen, và Giao Điểm, California; Bán
nguyệt san Ngày Nay, Texas; Hương Sen, Paris...). Như ta đã thấy, truy
tầm năm sanh của đức Phật rất khó, sự cách biệt giữa các con số đề ra
và chứng minh bằng lý thuyết xa nhau cả chục năm, vì trong số lượng
khổng lồ kinh sách Phật, chưa ai tìm ra một dữ kiện chính xác, khó chối
cãi được, về năm sanh của đức Thích-ca. Về ngày sanh của đức Phật cũng
vậy. Ta chỉ thấy ở sau là sự việc chỉ dựa trên truyền thống. Nguyên ủy
sự việc có thể giải thích, nhưng khó mà chứng minh được bằng dữ kiện.
Điểm này không phải chỉ riêng của đạo Phật, mà ngay trong tôn giáo lớn
nhất và giàu mạnh nhất trên thế giới ngày nay là đạo Cơ-đốc, năm sanh
và ngày sanh của Chúa Jesus cũng chưa hề được xác định (Đọc Nguyễn Hoài
Vân: "Tìm hiểu Ngày Giáng sinh", Thế kỷ 21, số 104, 1997).
Một
điểm khác cần được lưu ý là đạo Phật trường Mahayana (Đại thừa Phật
giáo của dân Trung Hoa, Nhật Bổn, Đại Hàn, Tây Tạng, Việt Nam v.v...)
thiết lễ Đản Sanh riêng biệt, khác với các ngày lễ khác của đức Phật
như lễ Thích-ca Thành Đạo, lễ Thích-ca Nhập Niết Bàn. Đạo Phật trường
Theravada Nguyên Thủy (còn gọi là Tiểu Thừa mà một số tín đồ tránh dùng
danh từ này, xem là có ý khinh nhẹ, của các sắc dân Nam Ấn Độ, Tích
Lan, Miến Điện, Cao Miên, Ai Lao...) thiết lễ Đản Sanh chung với các lễ
Thành đạo và Nhập niết bàn, gọi là đại lễ Visakha, danh từ Hán việt là
Tam Hợp. Việc này liên hệ với quan niệm giáo lý Theravada, ta sẽ có dịp
nói ở sau.
Tài liệu cổ nhất về lễ đản sanh
Sau Thế
Chiến Hai, Hội The Pali Text Society ở Luân-đôn là tổ chức sưu khảo về
đạo Phật quy mô nhất, tiếp tục chương trình nghiên cứu và cộng tác với
Viện Đại học Colombo ở Tích Lan để dịch thuật, giảng giải các tài liệu
cổ văn Pali trên các bia đá, lá cót... tại các chùa. Năm 1972, nữ học
giả tì-kheo Isabel Horner, Chủ tịch Hội The Pali Text Society công bố
một số tài liệu mới tìm được trong quốc sử Mahavamsa của nước Tích Lan.
Một tài liệu nói về lễ cầu mưa Gangarohana là một tập tục của dân Tích
Lan theo đạo Phật, ngày nay còn tồn tại từ vùng quê đến thị thành. Một
tài liệu khác quan trọng hơn nói về lễ đản sanh của đức Phật. Dưới
triều vua Dutthagamani (101-77 trước Tây lịch, TL), quốc sử ghi chép lễ
Đản Sanh do nhà vua thiết lễ cầu nguyện, có cuộc rước kiệu tượng đức
Phật do một nghìn thanh niên cầm cờ kéo liễn đi hộ tống.
Thế
nhưng tài liệu này về lễ Đản Sanh không thể xem là tài liệu cổ nhất học
giả đạo Phật tìm kiếm ra được. Ta phải trở lại các trụ đá Asoka (đại đế
A-dục). Đức Phật mất năm 544 trước TL. Hai trăm năm mươi năm sau, nước
Ấn Độ có vua Asoka hoằng dương đạo Phật. Vua cho khắc trên trụ đá và
vách đá các bổn ngự chỉ tuyên dương sự tích và những lời răn dạy của
đức Phật. Cho đến bây giờ, các nhà khảo cổ đã tìm ra được 35 di tích
ngự chỉ, đánh số, khám đọc và giải thích căn kẽ. Ngự chỉ số Bốn, tìm
được tại núi Kandahar, ngày nay thuộc đất Afghanistan, ghi lời dạy của
nhà vua cho con cháu phải tiếp tục phụng thờ đức Phật và dặn dò mỗi năm
ngày lễ Đản Sanh, phải tổ chức trọng thể, thiết lập cuộc rước kiệu đức
Phật. Ngự chỉ số Sáu ở núi Girnar, miền Tây Ấn Độ ghi rõ hơn cách lập
kiệu để rước tượng và di tích đức Phật, khi tổ chức lễ Đản Sanh. Như
vậy, lễ Đản Sanh đức Phật đã được thiết hơn hai ngàn ba trăm năm trước,
đặc biệt huy hoàng dưới triều đại vua Asoka là vị đại đế đã dựng lên
84 ngàn ngôi tháp thờ Phật.
Lễ đản sanh tại các quốc gia Tây vực
Dưới
thời đại đế Asoka, đạo Phật đi vào các quốc gia ở miền Vịnh Địa Trung
Hải và các quốc gia ở miền Bắc và Tây Bắc nước Ấn Độ. Từ Ấn Độ sang
Trung Hoa, phía Đông Bắc có dãy núi Hy-mã-lạp-sơn là một một bức trường
thành bằng thép ngăn cản lưu thông. Phía Tây Bắc, dọc theo sườn núi
Kunlun (Côn luân) sát vào hồ lớn Alma Ata là một số đô thị như Kashgar,
Yarland. Chokkuta và Khotan. Cao hơn trên phía Bắc, đọc theo sườn núi
Thiên sơn (Tianshan) là đất Thổ Nhĩ Kỳ tư-thản (Chinese Turkestan), gồm
bốn tiểu quốc cùng chung văn hóa là các nước Aksu (còn gọi là Baruka),
Kucha, Karashar (ngày nay là quận Yen-ki thuộc Trung Hoa), và Turfan
(ngày nay gọi là Kao-chang). Các quốc gia này kết thành một trục gọi là
Đường Lụa, trục giao thông căn bản giữa Trung Hoa và các nước phương
Tây ngày đó. Từ đầu thế kỷ Hai-mươi, các phái bộ khảo cổ Tây phương
khai quật các động đá nằm trên trục Đường Lụa như Huân tước Aurel
Stein, Albert Grunwedel, Paul Pelliot (thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ
Hà-nội, ta rất quen thuộc), và các công trình khảo cổ này phát xuất từ
hai quan điểm tranh đua nhiều khi đi gần đến chỗ thù nghịch của hai
trường khảo cổ La tinh và Anglosaxon, lại cũng đã đi tới một số kết luận
rất giống nhau. Những điểm kết luận đó có thể tóm tắt làm ba mục: thứ
nhất là các dân tộc sống trên con Đường Lụa từ hai mươi thế kỷ trước đã
thấm nhuần đạo Phật rất sâu sắc; thứ hai là đạo Phật của các sắc dân
này mang nặng tập tục đại thừa Mahayana; và thứ ba – điều quan trọng
đối với người tìm học Phật ngày nay như chúng ta – là các tài liệu văn
tự của các bậc cao tăng Trung Hoa "đi Tây vực tìm học đạo, đã quan sát
tận chỗ, viết thành sách" để lại, đã được chứng minh là những tài liệu
này rất sát với sự thật, gần như là sự "thật khoa học" ta quan niệm
ngày nay.
Bởi lẽ đó mà ta phải lục soát trong tài liệu văn tự
của các nhà sư Trung Hoa đi Tây vực (Ấn Độ) thỉnh kinh nói về lễ Đản
Sanh. Các nhà khảo cổ tìm được tài liệu cổ nhất liên hệ tới lễ Đản Sanh
trong cuốn sách của Thầy Pháp Hiển (Fa-Hsien). Thầy là một vị cao tăng
người Trung Hoa lần đầu tiên hành hương qua đất Phật ở Ấn Độ vào cuối
thế kỷ thứ Bốn, ở lại 16 năm học đạo (399-414 TL), để lại cuốn sách
Pháp Hiển truyện, còn gọi là Phật Quốc ký, có bổn dịch tiếng Pháp của
Abel Remusat (Foe Koue Ki ou Relation des Royaumes Bouddhiques, Ernest
Leroux, Paris, 1836).
Thầy Pháp Hiển theo con Đường Lụa, đến
đất Khotan mà thầy phiên âm là Cổ sơn, ngày nay là thủ đô của khu tự
trị Tân Cương (Uighur). Khi ghé qua Khotan, thầy được tham dự buổi lễ
Phật Đản được tổ chức rất trọng đại. Dân chúng chuẩn bị lễ Phật Đản từ
ngày mồng một tháng Tư (thầy dùng âm lịch Trung Hoa), kéo dài tới ngày
29 tháng Tư. Cuộc rước kiệu rất vĩ đại, xe kiệu cao mười thước, trần
thiết lộng lẫy, ở giữa đặt tượng đức Phật hài đồng, có vua và hoàng hậu
đất Khotan theo nghênh giá.
Thầy Pháp Hiển tiếp tục hành
trình xuống đất Ấn Độ vào thành Patalipatra (thầy phiên âm là
Ba-tra-li-phất) ngày nay gọi là thành phố Patna (Hoa thành). Một nghìn
năm trước đây là kinh đô của vương quốc Maghada (Ma-kiệt-đà), láng giềng
của quê hương đức Phật, sáu trăm năm trước, đây là nơi đóng đô của đại
đế Asoka. Thầy Pháp Hiển được chứng kiến và tả lại đầy đủ chi tiết một
buổi lễ Phật Đản, vào ngày mồng tám tháng Hai âm lịch. (Đọc Nguyễnphúc
Bửu-Tập: "Tìm hiểu Lễ Rước Kiệu Phật và Lễ Tắm Phật", Hoa sen số 23,
1994).
Cũng trong kho sách đại thừa ở Trung Hoa, một tài liệu
có liên hệ đến lễ Đản Sanh tìm thấy trong cuốn Đại Đường Tây Vực ký của
thầy Huyền Trang. Thầy tả lễ Đản Sanh thầy được tham dự ở Kucha (tiếng
Anh viết là Koucha, cách phiên âm mới là KuChe). Kucha ngày xưa là một
ốc đảo lớn nhất nằm ngay trên con Đường Lụa, là một trục chánh con
đường đạo Phật du nhập vào đất Tàu. Thầy Huyền Trang gọi đất Kucha là
Dao Tần; ông có cảm tình với đất này vì nơi đây là quê hương của
Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva), người đã đóng góp nhiều nhất trong việc
phiên dịch 400 bộ kinh từ chữ Sanskrit sang chữ Hán (thế kỷ thứ Năm
T.L.). Lễ Phật Đản tại Kucha cử hành vĩ đại, có cuộc rước kiệu gồm một
nghìn chiếc xe hoa dựng tượng Phật. Ngày lễ Đản Sanh tại Kucha lại
thiết vào ngày thu phân, tháng Chín, ngày 22. (Mỗi năm có hai ngày đặc
biệt trong đó thời gian giữa ngày và đêm bằng nhau, gọi là xuân phân và
thu phân; lễ Đản Sanh ở Kucha được chọn vào ngày thu phân.)
Tại Tây Tạng (Tibet), trước khi bị Trung Hoa cộng sản cưỡng chiếm, nơi
đây là đất Phật. Tây Tạng có một nền văn minh riêng, căn bản là giáo lý
nhà Phật. Niên lịch Tây Tạng ghi ngày lễ Đản Sanh là ngày 15 tháng
Giêng âm lịch, ngày quốc lễ lớn nhất trong năm, gọi là lễ
Son-lan-chen-po (Lễ Đại nguyện), liên hoan từ ngày mồng bốn cho đến
ngày 21 tháng Giêng. Đêm Đản Sanh tại thủ đô Lhassa, mỗi cơ sở công hay
tư, mỗi gia cư đều treo đèn, kết hoa. Đức Hoạt Phật Đạt-lai lạt-ma ngồi
trên kiệu có ban quốc nhạc và đội binh bảo giá tháp tùng, đi viếng và
chấm điểm từng đơn vị trong thủ đô, nơi nào có trần thiết lễ. Dân chúng
từ mọi nơi trong nước, và cả ở ngoài nước như Mông Cổ, kéo về thủ đô
tham dự lễ Đại nguyện, cầu xin đức Phật ban ơn một năm đầy hạnh phúc.
Lễ đản sanh tại Trung Hoa
Nước Trung Hoa cổ
có bộ môn sử ký chép sự việc theo nguyên tắc trung thực và theo thời
gian. Theo thứ tự năm tháng, ta đọc trong Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời
Đông Tấn (318-420 TL) có người Thái Kiều đúc năm tượng Phật hài đồng để
dùng vào lễ Rước Kiệu, trong ngày lễ Đản Sanh. Một tư liệu cổ khác tìm
thấy trong sách Cao Tăng Truyện, viết vào thời Ngũ hồ, cũng tại Đông
Tấn (319-351 TL), có người mộ đạo tên là Thích Lộ, mỗi năm vào ngày
mồng Tám tháng Tư đến chùa làm "lễ chiêm bái đức Phật ra đời", bằng
cách tắm tượng Phật bằng nước cam lồ. Học giả đạo Phật Trung Hoa cho là
truyền thống Đản Sanh tại nước Tàu bắt đầu từ các chi tiết này.
Kế đến, trong sách Ngụy Tấn Nam Bắc Triều Luận Tập có đoạn ghi vua Thái
Võ Đế nhà Ngụy (408-452 TL) nhân ngày Đản Sanh, ngự giá ra ngoài
thành, thiết lễ rước kiệu Phật. Vua và hoàng hậu đứng trên đài rải hoa
lên tượng Phật hài đồng lúc đoàn kiệu đi qua. Một tư liệu cổ khác, theo
thứ tự thời gian, đọc được trong Phật Tổ Thống Ký, kể chuyện vua Cao
tổ Võ Đế nhà Tống tên là Lưu Dũ, năm 462 TL, ngày mồng Tám tháng Tư,
thiết lễ Đản Sanh ngay trong cung điện nhà vua. Cũng trong Phật tổ
Thống ký, ta lại thấy vua Hiếu Võ nhà Tây Ngụy (467-499 TL) cho lệnh
rước tượng Phật trên kiệu từ các ngôi chùa lớn ở Lạc Dương vào cung
đình, dâng hương hoa làm lễ Đản Sanh ngày mồng Tám tháng Tư, và ra lệnh
mỗi năm từ đó phải thiết lễ Phật Đản như vậy. Lại sách Lạc Dương Già
Lam Ký, mỗi năm trước một hôm ngày Phật đản mồng Tám tháng Tư, các chùa
trong vùng Lạc Dương phải rước tượng Phật trên kiệu đến Thanh Minh
Thiền Viện, tất cả hơn một nghìn tượng Phật để cử hành đại lễ ngày hôm
sau. Buổi lễ được cử hành rất tưng bừng náo nhiệt đến nỗi một nhà sư từ
Tây Vực đến viếng Lạc Dương kể lại là "(ngày Phật Đản) hoa vàng ngời
sáng dưới ánh dương, lọng hoa lợp kín như mây phủ, cờ phướn giăng lên
như rừng cây, trầm hương xông lên dầy đặc như sương phủ, tiếng kinh và
tiếng nhạc rung chuyển đất trời." (Kenneth Chen: Buddhism in China,
Princeton, 1973, trang 279)
Đời nhà Đường ở Trung Hoa là thời
đại hoàng kim của đạo Phật ở châu Á. Ta theo dõi được là dưới đời nhà
Đường được ghi chép trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện
của thầy Nghĩa Tịnh (I Tsing, 635-713 TL) và qua đời nhà Tống (được ghi
chép trong Đại Tống Chính Biên) tức là từ năm 618 đến năm 1279, lễ Đản
Sanh được thường xuyên cử hành tưng bừng trong các chùa lớn nhỏ trong
dân gian.
Sách Phật Tổ Thống Ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ
tông năm 873 TL, ngày Tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước
kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc Dương. Vua và
hoàng hậu ngự ra cửa An Phúc đón võng Phật vào nhà Thái Miếu; dân chúng
hân hoan nổi nhạc đốt pháo vui mừng. Dưới đời Đường, lúc đạo Phật cực
thịnh, người ta đem từ Ấn Độ sang ít nhất năm di tích xá lợi, của đức
Phật. Chùa Pháp môn ở phía Bắc Kinh thành Lạc Dương có một lóng xương
tay của đức Phật; bốn chùa khác trong thành mỗi chùa thờ trên tháp một
chiếc răng của đức Phật. Mỗi năm vào ngày Phật đản hay ngày rằng tháng
Bảy, di vật này được chưng bày cho dân gian lễ bái chiêm ngưỡng. Riêng
di tích xá lợi lóng xương tay ở chùa Pháp môn thì hằng năm, ngày lễ
Phật đản, lại được rước trên kiệu vào cung đình cho nhà vua hành lễ.
Mỗi lần rước kiệu lễ Phật Đản là một cơ hội đình đám quá lớn, dân chúng
tham gia quá sức náo nhiệt, lắm khi thành hỗn loạn. Vì lý do đó, Hàn
Dũ, một nhà Khổng học bảo thủ quá khích, chống đạo Phật, năm 819 viết
bài sớ xin nhà vua bãi lệ Phật Đản (Chen, sđđ, trang 280).
Đầu
thế kỷ thứ Mười TL, tại Huệ Lâm Thiền Viện phủ Khai Phong, vị trụ trì là
đại sư Nguyên Chiếu, muốn làm giảm mối căng thẳng giữa đạo Nho và đạo
Phật nên chấn chỉnh và tiết giảm nghi lễ thờ Phật, đặt ngày Phật đản,
lễ Tắm Phật (còn gọi là Quán Phật) vào ngày mồng tám tháng Tư. Lễ rước
kiệu cũng chỉ làm trong khuôn viên chùa. Chi tiết sự việc đều ghi trong
sách Đông Kinh Mộng Hoa Lục Chú (Đông Kinh là phủ Khai Phong).
Dưới đời Nguyên, người Mông Cổ vào đất Trung Hoa là những người mộ đạo
Phật, nên vẫn giữ tục lệ thiết Phật Đản lớn vào ngày tám tháng Tư.
Người khai sáng ra nhà Minh, Chu Nguyên Chương, lúc thiếu thời đi tu ở
chùa, nên khi lập quốc, tôn thờ và chỉnh đốn đạo Phật. Dưới đời Thanh,
người Mãn Châu vào chế ngự Trung Hoa cũng là những người mộ đạo Phật,
nên giữ các tập tục làm lễ Phật Đản đã có từ nghìn năm trước, cho tới
khi tiếp xúc với Tây phương.
Nghi lễ của đạo Phật tại Trung
Hoa, từ cuối thế kỷ Mười-chín cho đến cuộc cách mệnh Cọng sản được một
nhà học giả phương Tây Holmes Welch mô tả kỹ càng trong sách The
Practice of Chinese Buddhism 1900-1950 (Harvard University Press,
1973). Trước Đại hội Kết Tập Sangiti lần Sáu, người Trung Hoa cử hành lễ
Phật Đản vào ngày tám tháng Tư, tại chùa có đông đúc thiện nam tín nữ
tham dự, nghi thức được tả rõ trong sách Holmes Welch (sđđ, trang 109
và tiếp theo). Nghi lễ tại các chùa lớn ở Trung Hoa ngay cả trong thời
kỳ Dân quốc, đều cử hành theo quy luật ghi trong sách Bách Trượng Thanh
Quy có từ đời Tống, và được thay đổi ít nhiều dưới triều Minh, gọi là
Chỉnh Huấn Bách Trượng Thanh Quy, dùng làm khuôn thước lễ nghi.
Lễ đản sanh tại Nhật Bổn
Nước Nhật Bổn tiếp nhận đạo Phật vào thế kỷ thứ Sáu và người Nhật phát
huy đạo Phật vững mạnh cho tới ngày nay. Người Nhật thiết lễ Đản Sanh
đức Phật ngày Tám tháng Tư gọi là tiết Hana Matsuri; lễ Thích-ca Thành
Đạo ngày 15 tháng Hai, tiết lễ Nehan, và lễ Phật Nhập Niết Bàn ngày Tám
tháng Mười hai, tiết lễ Rohatsu. Theo Sử ký Nhật Bổn Nihonshoki, buổi
lễ Đản Sanh đầu tiên được thiết vào ngày mồng Tám tháng Tư năm 606 TL
(người Nhật dùng dương lịch, nhưng các lễ Phật nhiều lúc vẫn theo âm
lịch Trung Hoa. Nữ hoàng Suy-Cơ (Sui-Ko, 593-628 TL) và người cháu làm
phụ chính là Thánh Đức Thái tử (Shokotu) rất mộ đạo Phật, ra lệnh cho
tất cả các chùa, trong dịp Đản Sanh phải thiết lễ và phát chẩn. Trong
các chùa lớn và đền Thần Đạo tại Nhật ngày nay, một số tượng Phật Đản
Sanh (hình tượng đức Phật lúc mới sanh, một tay chỉ xuống đất, một tay
chỉ lên trời, miệng đọc câu "duy ngã độc tôn"), tạc từ thời đại Nại
Lương (Nara) vẫn còn giữ được nguyên vẹn, làm bằng chứng là lễ Phật Đản
đã được cử hành trong các thế kỷ Bảy, Tám tiếp theo. Từ thế kỷ Tám đến
thế kỷ Mười-hai (triều đại Bình an Hei-an, 749-1185 TL), đạo Phật ảnh
hưởng mạnh vào sinh hoạt xã hội và văn hóa nước Nhật, các buổi lễ Phật
càng được cử hành lớn, dựa vào hoàng gia và quý tộc.
Qua triều
đại Kiếm Thương (Kamakura, 1186-1335 TL) Phật giáo Nhật Bổn bắt đầu
nhận chân những mối bất lợi vì lễ bái cúng tế hào nhoáng gây ra, và
trường Thiền trở nên hưng thịnh. Thêm vào đó là mối cạnh tranh với Thần
đạo bây giờ có nhiều khuynh hướng thực tiễn và ái quốc, nên Phật giáo
phải nhẹ việc phô trương thanh thế bên ngoài, vì vậy càng giúp cho
trường Thiền nẩy nở mạnh hơn, và buổi lễ Đản Sanh đã cử hành đơn giản
hơn. Ta nhận thấy sự kiện này trong một tập Ký ức của Koka Shiren:
"Nhiều năm qua, ngay tại thủ đô, người ta thiết lễ Phật Đản vào ngày
mồng Sáu để tránh một ngày lễ lớn Thần Đạo vào ngày mồng Tám tháng Tư."
Trong một bổn Đại tự Nhật ký của chùa Kenchoji do Đạo Lan Đan Khê
(Doryu Rankey) viết năm 1249, rõ ràng và hàm ý châm biếm cách thức
thiết lễ Đản Sanh nhuộm màu Thần Đạo: "(Năm nay) ngày Phật Đản, lễ tắm
Phật do các vị phu nhân 'shoguna' (vợ của các vị chính quyền tướng
quân) phụ trách, gây ra nhiều điều lạ mắt. Ngày xưa (vào lễ Phật Đản)
có bao nhiêu chi tiết đẹp ý đẹp lòng, như lễ cắm hoa. Ngày nay kiểu
cách mới được đem vào chùa làm lạ tai lạ mắt người theo Phật." Sau đó có
lẽ chính quyền Võ Sĩ Đạo muốn tránh quần chúng dị nghị, nên từ thế kỷ
Mười ba, tổ chức buổi lễ Thần Đạo vào ngày mồng Chín, dành ngày mồng
Tám cho các chùa và dân chúng làm lễ Đản Sanh. Gần đây hơn, ta đọc được
trong Nhật Bổn Niên Giám Ký Sự 1953 một đoạn viết về lễ Đản Sanh: "Mỗi
năm trên toàn quốc, vào ngày mồng Tám tháng Tư (lễ Phật Đản) dân chúng
đi hái mọi loại hoa rừng, cắm vào cành tre vót nhọn, làm lễ Phật. Các
bó hoa này gọi tên là hoa hướng thiên đường (tentobana), hay là hoa tôn
quý (takahana)." Cũng vì tục lệ đẹp đẽ này mà tại Nhật, ngày Tám tháng
Tư còn gọi là Ngày Lễ Hoa. Ta cần nhắc thêm là người Nhật mộ đạo tin là
nhân loại sẽ được hoàn toàn cứu rỗi trong tương lai khi đức Phật
Di-lạc ra đời, và nếu mỗi năm thành tâm thiết lễ Phật Đản, thì ngày đức
Phật Di-lạc hiện đến sẽ gần hơn. Vì vậy mà ngày tám tháng Tư lại có
thêm tên là ngày Nguyện Cầu (Ryu ye-e), tên của một tông phái tại Nhật
thờ Phật Di-lạc.
Một biến cố Phật đản liên quan đến tổ chức Gia
đình Phật tử Nhật cần nhắc lại đây. Gia đình Phật tử Nhật gồm thiếu
nhi và thanh niên hoạt động rất mạnh. Trong cuộc canh tân nước Nhật
cuối thế kỷ Mười chín do đại đế Minh trị Thiên hoàng lãnh đạo, đạo Phật
vì tôn chỉ chuộng hòa bình, bị nghi ngờ là chống giới quân phiệt, lực
lượng nồng cốt ủng hộ nhà vua. Gia đình Phật tử Nhật, nhờ hoạt động
khéo léo đã làm mối dây liên lạc giữa đạo và phong trào quốc gia Võ sĩ
đạo. Năm 1912, ngày Phật Đản mồng Tám tháng Tư, Gia đình Phật tử cử
hành lễ tại công viên Asakusa Park, hội họp tất cả đại biểu đoàn viên
trong nước, lấy tên buổi họp đoàn là Hanamatsuri. Từ đó, Hanamatsuri
được tổ chức mỗi năm, ngày họp bạn của nhi đồng và thanh niên toàn nước
Nhật, nhân ngày lễ Phật đản, dung hoà được hai xu hướng ái quốc và tín
ngưỡng.
Lễ đản sanh tại các nước thờ Phật giáo Theravada
Tại các nước thờ Phật giáo nguyên thủy, ngày Phật Đản gọi là Visakha
Puja (chữ Sanskrit viết là Vaisakha; Tích Lan: Vesak; Cao Miên: Vissakh
bochea; Thái Lan: Vaishaka Puja; Lào: Vixakha bouxa). Lễ này kỷ niệm
ba biến cố quan trọng trong đời đức Phật: đản sanh, thành đạo, và nhập
niết bàn vào một ngày... Chữ Nho ta gọi là lễ Tam Hợp. Người Phật tử
phái Nguyên Thủy tin là đức Phật đã chọn sanh ra đời, thành đạo và mất
vào cùng một ngày. Nói chung tại Đông Nam-Á Nguyên thủy, Visakha là
ngày quốc lễ nhưng được thiết trong khuôn viên chùa (vat, wat). Lễ được
thiết vào ngày trăng tròn, giữa tháng Tư và tháng Năm dương lịch. Trong
dịp lễ, dân chúng tụ họp tại chùa, đọc kinh, nghe thuyết giảng về đời
sống của Thích-ca. Tại Thái Lan chẳng hạn, buổi thuyết giảng
pathama-sambodhi, bắt đầu từ trưa, kéo dài suốt đêm. Bài giảng kể lại
lễ thành hôn của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya (vương phụ và vương
mẫu của đức Phật), đời sống lúc trẻ của đức Phật, quyết định đi tu cho
tới khi thành đạo, hoằng pháp và nhập diệt... Bài giảng kết luận nêu
lên các nguyên lý đạo Phật bị tru diệt tại Ấn Độ, để cho tín đồ suy nghĩ
đừng phạm vào lỗi lầm cũ mà mất đạo.
Tại Ai Lao, lễ Tam Hợp
còn gọi là ngày Buon Bang Fay, có nghĩa là Hội Pháo. Trong năm Hội Pháo
là ngày vui nhộn nhất. Các chùa thi nhau làm pháo bông, cùng một loạt
ban đêm đốt lên, xem chùa nào đẹp nhất lãnh thưởng, làm trò vui cho dân
chúng.
Tại Nepal, đạo Phật pha trộn gắn bó với Ấn Độ giáo,
nhưng Phật Đản vẫn là một ngày quốc lễ, gọi là Bahiravajatra, thiết vào
ngày trăng tròn tháng Năm dương lịch. Vào ngày lễ, dân chúng mổ trâu
bò làm tiệc, và nhảy múa suốt đêm ngoài lộ.
Tại Sri-Lanka (Tích
Lan), lễ Phật Đản gọi Vesak, là ngày quốc lễ trọng đại nhất trong năm,
vào ngày trăng tròn tháng Năm. Như trên đã nói, sử Tích Lan Mahavamsa
chép là lễ Đản Sanh được thiết từ ngày đạo Phật được hoàng tử Mahinda,
con trai của đại đế Asoka vâng lệnh vua cha đem đạo của đức Thích-ca
vào nước Sri-Lanka. Bắt đầu từ thế kỷ thứ Tư, lễ được chính thức cử
hành mỗi năm, có cuộc phát chẩn cho dân nghèo và cuộc dâng y bát cho
người tu sĩ. Người Anh đến thôn tính nước Sri-Lanka năm 1815, chịu áp
lực của các giáo hội truyền giáo Tây phương, ra lệnh bỏ tục lệ Vesak,
làm cho dân bị trị mất tục lệ cúng Phật. Cuối thế kỷ Mười chín, nhóm
lên phong trào kháng Anh do Phật giáo đề xướng, lấy chủ đề là chấn hưng
Phật giáo. Buổi lễ Vesak lần đầu tiên được tái lập sau bảy mươi năm bị
chính quyền Anh cấm đoán, cử hành vào ngày 17 tháng Tư năm 1885. Một
người Hoa Kỳ thờ Phật giáo, đại tá Henry Steele Olcott, trong cuốn ký
ức Old Diary Leaves thuật lại là phong trào có sáng kiến lập một lá cờ
Phật giáo gồm sáu màu thoát ra từ hào quang chiếc áo đức Phật, dùng để
tượng trưng ý niệm hợp đoàn của người theo đạo Phật. Lá cờ này từ đó
được Phật giáo thế giới nhìn nhận là lá cờ của đạo Phật, dùng trong mọi
quốc gia, đặc biệt vào ngày Phật Đản. Tại Nam Việt Nam, tám mươi năm
sau, có lẽ vì không để ý tới cái lý do tượng trưng thiêng liêng này của
lá cờ Phật giáo mà một số người trách nhiệm đã gây ra sự sụp đổ của nền
Đệ nhất Cộng Hoà. Phật đản tại Sri-Lanka gồm ba lễ lớn: atasil là lễ
cầu nguyện; dan-sai, lễ cúng thực phẩm cho tăng ni và phát chẩn cho đại
chúng; và thứ ba là đại lễ liên hoan: treo cờ kết hoa, vui chơi suốt
mất ngày đêm trong nhà, ngoài phố. Ở Sri-Lanka còn có một tục lệ rất
đẹp là mỗi năm vào ngày Phật đản Vesak, mỗi người gởi thiệp chúc mừng
thăm viếng nhau, tương tự như tục trao đổi thiệp mừng của người theo
đạo cơ-đốc, nhân ngày đức Chúa Christ giáng sanh.
Ta đã duyệt
qua các truyền thống lựa chọn ngày lễ Phật Đản của hai phái Đại Thừa và
Nguyên Thủy. Mối thắc mắc ngày mồng Tám tháng Tư có đúng là ngày sanh
của đức Phật hay không cũng được giải tỏa. Nước Ấn Độ không dựa vào hệ
thống biên niên để viết sử nên ta không tin tưởng vào ý niệm ngày tháng
của Ấn Độ. Người Trung Hoa vốn chuộng thực tiễn, lại có tinh thần phân
tích nhiều hơn, cũng đã chấp nhận truyền thống Ấn Độ hoàn toàn vì đức
tin. Ta có thể dẫn chứng cớ trong Ngọc Phật cung tự kinh của thầy Nghĩa
Tịnh (Itsing/Yijing, đã dẫn ở trên).
"Lý do (người xưa) đã lựa
mồng Tám tháng Tư làm ngày Phật Đản, vì qua mùa xuân cho đến mùa hạ,
mọi tai ương đều chấm dứt, tạo vật thức tỉnh sống lại, không còn chướng
vật nào ngăn chận nẩy nở; và khí trời cũng vậy, không lạnh quá không
nóng quá. Cho nên ngày đó thích hợp nhất để làm lễ Đản sanh."
Như vậy, đọc lại lịch sử và nhận định qua các truyền thống, ta có thể
kết luận không sợ sai lạc nhiều là ngày Đản Sanh đã được lựa chọn để
thiết lễ, và chưa ai chứng minh được ngày nào đích là ngày sinh nhật
đích xác của đức Phật. Thật ra, không chỉ riêng với đạo Phật mà đối với
một tôn giáo trẻ hơn đạo Phật nhưng được soi sáng nhiều hơn bằng các
dữ kiện khoa học, như đạo Cơ-đốc, ngày sanh của Chúa Christ cũng đã
được chứng minh từ lâu không phải chính xác là ngày người Tây phương
làm lễ Giáng sanh (Encyclopedia of Religion and Ethics; Nguyễn Hoài Vân,
đã dẫn ở trên). Thiết tưởng vấn đề trọng đại là cử hành lễ, chi tiết
ngày tháng người xưa không cố chấp xem là quan trọng.
Một điểm
cuối để kết luận bài khảo sát nhỏ này về mặt triết lý, siêu hình và
hướng linh là việc giải thích vì sau ngày trăng tròn tháng Vassa của
lịch Ấn Độ (từ giữa tháng Tư sang giữa tháng Năm dương lịch) được chọn
làm lễ Đản Sanh. Trước tiên là vì truyền thống này đã có từ lâu trong
trường Nguyên Thủy Theravada. Như trên đã nói người theo Phật Giáo Nam
Tông tin là đức Phật đã chọn ngày ra đời, thành đạo, và nhập niết bàn
cùng vào một ngày. Giáo lý lại còn nhiều lý do để giải thích việc lựa
chọn. Lý do thiết thực hơn cả là vì niên lịch Phật giáo thiên về âm
(mặt trăng) và ngày xưa Visakha là ngày đẹp nhất trong năm. Mùa mưa bắt
đầu, tu sĩ phải tập họp vào một nơi để tu học, và ngày Visakha là ngày
khởi đầu giai đoạn hợp đoàn. Lại nữa, mưa bắt đầu, cỏ cây sống lại,
sinh vật cũng bắt đầu nẩy nở, người tu sĩ phải tránh di chuyển để tránh
sát sinh.
Còn một lý do nữa, siêu việt hơn được dẫn trong giáo
lý thâm sâu của nhà Phật là sự phối hợp âm dương. Giáo lý trên bình
diện siêu hình, răn dạy phải tránh sự phối hợp hai yếu tố âm dương, vì
sự phối hợp này là nguyên nhân chính tạo ra nghiệp. Mùa xuân giữa thiên
nhiên là yếu tố âm, người tu sĩ mang yếu tố dương, phải tránh tội lỗi
bằng cách khép mình, xa tránh môi sinh năng động. Visakha khởi đầu việc
chuẩn bị vào hạ, người tu sĩ Theravada sẽ an cư kiết hạ sau Visakha,
tránh các cuộc sinh hoạt náo nhiệt.
Giáo sư Nguyễn Phúc Bửu Tập