Chương 07
Đức Phật Vô Lượng Quang và
cõi Cực Lạc
Một niềm tin tuyệt đối
vào đức Phật Vô Lượng Quang
Chắc chắn tái sanh về Cõi
Cực Lạc.
Một tâm thức giác ngộ với
phẩm chất Phật Đà.
Bất cứ nơi đâu cũng chiêu
cảm Tịnh Độ.
Vũ trụ quan Phật Giáo chỉ rõ
một số lượng to lớn không thể nghĩ bàn hệ thống thế giới ngoài quả đất
của chúng ta. Thế giới vũ trụ bên ngoài đó, ngoài cả sáu vòng luân hồi,
nơi mà tồn tại nhiều cõi Tịnh độ không tính hết được, kéo dài trong mười
phương của vũ trụ (gồm tám hướng chung quanh, bên trên và bên dưới).
Những cảnh giới trong sạch này là những nơi chốn cư ngụ của những chúng
sanh tình thức tiến bộ, kể cả những đức Phật của những cõi Trời và những
vị đại Bồ Tát.
Trong vô số cõi Tịnh độ,
phần nhiều là đặc biệt quan trọng bao gồm những cõi Tịnh Độ của những vị
như Vairochana (Tỳ Lô Giá Na) Vjrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Tara (Bạch
Y Quán Thế Âm) Avalokiteshvara (Quán Thế Âm Bồ Tát), Maitreya (Di Lặc)
và Guru Padmasambhava (đạo sư Liên Hoa Sanh). Thế giới Cực Lạc là cõi
Tịnh Độ được biết đến nhiều nhất, nằm về hướng Tây, ở ngoài rất nhiều vũ
trụ khác. Thế giới lý tưởng đó là nơi trụ xứ của đức Phật Vô Lượng Quang
(A Di Đà); Ngài giáo hóa vô số người tìm cầu đến để giác ngộ, gồm nhiều
hành giả và những đệ tử khác. Bởi vì ánh quang minh của toàn thân Ngài
đầy khắp tất cả các cõi Tịnh độ Phật chẳng có gì ngăn ngại; tên của Ngài
tiếng Sanskrit gọi là Amitabha. Nghĩa là Vô Lượng Quang.
Đức Phật A Di Đà là trung
tâm điểm của nhiều truyền thống tin tưởng vào cõi Tịnh Độ của Phật giáo
như các dân tộc Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam. Ở Tây Tạng,
cõi Cực Lạc là đối tượng để mong mỏi cầu nguyện, quán chiếu và Thiền
định, đặc biêt. Trong nghi lễ cho người chết. Trong nhiều kinh điển, đức
Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni xác nhận một cách chắc thật rằng: đây là
một cõi Tịnh Độ dễ dàng nhất để được tái sanh về đó, có nhiều niềm hỷ
lạc và là nơi có nhiều năng lực hướng dẫn đến sự giác ngộ. Ai đã sanh về
thế giới Cực Lạc rồi thì sẽ được hoàn toàn giác ngộ, trong một đời sống
sau cùng. Bởi vì chất lượng của cõi Tịnh Độ được gia trì bởi đức Phật Vô
Lượng Quang (A Di Đà) cũng như phước đức của những người được sanh về
đó.
Khởi nguyên
của truyền thống Tịnh Độ
Đa phần những kinh điển của
Phật giáo là những nguồn gốc căn bản của những truyền thống về cõi Phật
Tịnh Độ. Cả kinh (cộng với những lời giáo huấn) và Thần chú (giáo lý Kim
Cang Thừa) bao gồm cả danh hiệu cũng như có nhiều kinh ghi lại về Tịnh
Độ; nhưng đức Phật Thích Ca đã chỉ cho chúng ta chú ý nhiều hơn để mô tả
về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà trong sự sống động và những chi tiết
tuyệt vời.
Hai kinh đại thừa quan trọng
có tính cách đặc thù được biết đến như là kinh Đại bản A Di Đà và kinh
Tiểu bản A Di Đà. Những lời dạy này được nói bởi đức Phật ở những nơi
sau: Ngài dạy kinh Đại bản A Di Đà tại đỉnh Gridhakuta (Linh Thứu) gần
thành Rajagriha (Vương Xá) (ngày nay Rajgir thuộc tiểu bang Bihar, Bắc
Ấn Độ ) cho Ngài Ananda (A Nan) và Ngài Ajita (A Thuyết Thi) cũng như số
đông tập họp thuộc những người đệ tử khác. Ngài dạy kinh Tiểu Bản A Di
Đà tại Jeta Grove (Cấp Cô Độc Viên) (Ngày nay thuộc nước Xá Vệ, tiểu
bang Uttar Pradesh, Ấn Độ) cho Ngài Xá Lợi Phất và số đông đệ tử của
Ngài.
Hai kinh này xuất hiện trong
nhiều bản dịch kể cả tiếng Trung Hoa (kể từ thế kỷ thứ 3 sau Thiên chúa)
Đại Hàn và Nhật Bản (kể từ thế kỷ thứ 7), riêng Việt Nam bản chữ Hán
xuất hiện có lẽ vào thế kỷ thứ 4; đại dịch giả Tây Tạng vào thế kỷ thứ
9.
Chương này lấy phần căn bản
chính của bản dịch tiếng Tây Tạng, đồng thời cũng có một vài tài liệu
cũng như những bình luận khác nữa.
Ba nét
riêng biệt về cõi Tịnh độ
Như chúng ta đã rõ là đức
Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) và cõi giới Cực Lạc của Ngài như đã thuật
lại trong quyển sách này thuộc về ứng thân của một trong ba nét đặc thù
hoặc là thân thể của Phật quả.
Đầu tiên là thân tối hậu
(pháp thân): nó không có hình tướng, toàn là Phật quả tự nhiên, được
nhìn nhận với tính chất thực tế của chính nó. Đây là thuộc về trạng thái
tuyệt đối của sự quảng đại và rỗng không, tự tại khắp nơi, đặc thù và
cực hạn.
Thứ hai là báo thân: nó ở
trạng thái không phải nhị nguyên và đồng nhất tánh. Đây là cõi Tịnh Độ
với hình thức của thân thể, trong sáng và không thể phân ly với chính
trí tuệ của Phật. Nó rộng rãi, vĩnh viễn, chẳng hề thay đổi và niềm an
lạc vô hạn.
Cõi Tịnh Độ tối hậu và cõi
Tịnh Độ an lạc có thể chỉ gặp bởi những ai đã giác ngộ.
Nét riêng biệt thứ ba của
Phật quả là ứng thân: Đây là một hình thức vật lý như ở đức Thích Ca Mâu
Ni và những vị Phật khác có hóa thân ở trong cõi người của chúng ta. Cõi
Tịnh Độ của ứng (hóa) thân là hình thể tương đối, mà có thể nhận ra bởi
những chúng sanh bình thường hay có tính cách thế tục giống như chúng
ta, nếu chúng ta chứa nhóm những hành vi phước đức. Nếu chúng ta được
sanh vào một trong những sự hoan hỷ, hòa bình ở cõi hóa thân Tịnh Độ
thì chúng ta sẽ tiến lên để đạt được trí huệ của chúng ta và sẽ đến tận
cõi Tịnh Độ tuyệt đối.
Như tôi đã nhấn mạnh nhiều
lần về sự nhận biết và kinh nghiệm chúng ta đã có khác nhau trong giai
đoạn của cuộc sống, đặc biệt vào thời điểm lâm chung, là kết quả của sự
hiểu biết thuộc thói quen mà chúng ta đã phát sinh và được cắm rễ sâu
vào trong giòng chảy tâm thức của chúng ta trong quá khứ. Nếu tâm thức
của bạn đã được đốt cháy và quay vào nung đốt những nguyên nhân của sự
giận dữ, sân hận và sự nhận biết chẳng lành, rồi thì những sự xuất hiện
và kinh nghiệm của cuộc sống cũng như đặc biệt về đời sống tương lai của
chúng ta sẽ khơi dậy trong chúng ta về thế giới của địa ngục. Nếu tâm
thức của chúng ta được gieo trồng bởi sự hòa bình, an lạc và mang tư
tưởng cũng như những hành động tốt và nếu chúng ta đã vui với sự nhận
biết thiện, giống như hình thức và sự cảm nhận về thế giới Cực Lạc, rồi
thế giới ấy sẽ khơi dậy nơi chốn mà chúng ta sẽ tái sanh, có thể là ở
thế giới tốt đẹp của sự hòa bình và an lạc, giống như cõi Cực Lạc vậy.
Tiêu điểm chính của sự luyện
tập được tường thuật trong quyển sách này là sự tái sanh ở hình thức hóa
thân của cõi Cực Lạc. Rất dễ dàng để sanh về đó hơn là một vài cõi Tịnh
Độ khác, bởi do lời thệ nguyện sâu rộng của đức Phật Vô Lượng Quang (A
Di Đà) mang đến cho tất cả chúng sanh trong cảnh giới Cực Lạc của Ngài
và giúp cho họ đạt thành sự giác ngộ.
Năng lực
lời nguyện của đức Phật
Trong kinh đại bản Di Đà kể
về sự tích và cảnh giới Cực Lạc như thế nào? Vào một thuở xa xưa có một
vị Tỳ kheo tên là Dharmakara (Pháp Tạng), Ngài đã được thọ ký để trở
thành đức Phật A Di Đà – Phát Bồ Đề tâm và lập lời thệ nguyện trước vị
Thầy của Ngài. Đó là Phật Lokeshvara (Thế Tự Tại) mà Ngài sẽ phụng sự
cho tất cả chúng sanh. Ở vào thời gian ấy Ngài Pháp Tạng đã có năm mươi
mốt lời nguyện hứa dẫn dắt những chúng sanh sanh về cõi Tịnh Độ mới của
Ngài[1]
Dưới đây là năm lời nguyện cho chúng ta một ý niệm về lời thệ nguyện tự
nhiên ấy cũng như cõi Tịnh Độ của Ngài.
Ở lời nguyện đầu tiên, Ngài
Pháp Tạng nguyện không thành quả vị Phật nếu một vài chúng sanh sanh vào
nước của Ngài mà vẫn còn đau khổ bởi đường A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ
hay cảnh giới địa ngục. Như vậy để thí dụ ngay từ khi một chúng sanh
trong địa ngục sanh về thế giới Cực Lạc, thì tất cả sự khổ đau của chúng
sanh ở địa ngục ấy sẽ dừng lại và người ấy sẽ trở thành chúng sanh hạnh
phúc của cõi Tịnh độ (xin nhắc lại rằng sự khác biệt giữa chúng sanh ở
cõi thấp và chúng sanh ở cõi Tịnh Độ họ sẽ thấy và cảm thấy như thế nào
về đối tượng của sự hiểu biết được khơi dậy bởi tâm thức)
Ở lời nguyện thứ hai của
Ngài, Ngài phát nguyện rằng sẽ không thành Phật cho đến khi nào mà tất
cả những chúng sanh sanh về cõi Tịnh Độ của Ngài thì sẽ đặc biệt hơn
những nơi khác ở cõi người và Chư Thiên. Ngài muốn rằng cõi Tịnh Độ của
Ngài hoàn toàn trong sạch, nhưng cũng có những chất lượng tương tự tốt
đẹp như ở cõi người và cõi Chư Thiên.
Ở lời nguyện thứ mười chín
của Ngài, Ngài phát nguyện rằng sẽ không thành Phật quả cho đến khi nào
tất cả những ai mong mỏi được tái sanh vào cõi Tịnh Độ của Ngài và ai
thực hành niệm danh hiệu của Ngài cũng như hồi hướng công đức cho việc
vãng sanh, trên thực tế sẽ được sanh về cõi Tịnh Độ. Cầu nguyện cho điều
này ngay cả nếu người ấy lập lại sự suy nghĩ sanh về thế giới Tịnh Độ
của ta chỉ trong mười lần, mà người ấy chẳng hề phạm “năm tội vô gián
hay bất tín nơi Phật pháp”. Những điều kiện này chẳng chọn lựa được ở
đức Phật; nếu những chúng sanh ấy không mở ra cánh cửa tự giải thoát,
thì đức Phật cũng không thể ra lệnh vớt họ lên được.
Ở lời nguyện thứ ba mươi,
Ngài phát nguyện rằng sẽ chẳng ở ngôi chánh giác cho đến khi nào những
chúng sanh của cõi Tịnh độ trong tương lai chẳng những được khỏi cảnh
khổ mà còn có tài sản với phẩm lượng tinh thần như là trí tuệ không giới
hạn và lòng tự tin.
Những lời nguyện của đức A
Di Đà được thể hiện thật là mạnh mẽ. Thế nhưng chỉ riêng những lời
nguyện không thể hứa cho chúng ta sanh về cõi Tịnh độ này. Chúng ta phải
thực hiện bổn phận của chúng ta, chúng ta phải chắc rằng đừng đóng kín
những cơ hội, do sự phạm tội ngũ trọng tội hay chẳng tin nơi giáo pháp
và chúng ta phải mở ra con đường để đi đến cõi Tịnh độ với ‘bốn nguyên
nhân’ của sự sanh về thế giới Cực Lạc này (xin xem thêm ở phần phụ lục
A.)
Năng lực
của danh hiệu Phật
Đức Phật A Di Đà đã lập lời
thệ nguyện sẽ dẫn dắt tất cả những ai niệm danh hiệu của Ngài để cầu về
Tịnh Độ. Tên của Ngài trở thành cánh cửa xuyên suốt mà chúng ta có thể
quan sát được đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài.
Phật giáo Đại Thừa dạy cho
chúng ta thể đắc được mọi vật như là hình tướng, âm thanh và những kinh
nghiệm của sự giác ngộ. Tuy nhiên để đến được mục tiêu này chúng ta cần
phải đi vào ngang qua cánh cửa quan yếu ấy như thế nào là hình ảnh của
một vị Phật, sự cảm giác hòa bình hay âm thanh với tính chất tốt đẹp.
Một cánh cửa như vậy chính là hồng danh A Di Đà; điều mà chính Ngài đã
gia hộ để giúp chúng ta đến được với Ngài và có thể từ Ngài sẽ đến với
chúng ta.
Hồng danh của đức A Di Đà là
sự hiện hữu trong từng mỗi phút giây như trí tuệ, lòng từ bi và năng
lực. Trong từng khoảnh khắc chúng ta sẽ trở thành ý niệm về danh hiệu
Ngài, Ngài lúc nào cũng ở trong ta và đang ở với ta. Như vậy nếu chúng
ta tập trung tư tưởng vào cũng như nối kết danh hiệu của Ngài ở một điểm
và với sự hết lòng tin tưởng, chúng ta bắt đầu cảm nhận trong biển giác
ngộ có chất lượng ấy. Sự quy y và sự tin tưởng ở đức Phật sẽ như một
bông hoa đang nở tự nhiên. Chẳng bao lâu chúng ta sẽ không tìm được nơi
nào để chứa sự hiểu biết bất thiện và sự cảm nhận giống như sự phiền não
dục vọng, si mê và sự chấp trước.
Giống như chúng ta sẽ trở
thành một cái lò chứa đầy năng lực của chư Phật. Chúng ta sẽ phụng sự
cho người khác có tính cách tự phát. Bất cứ điều gì mà chúng ta thấy,
nghe cũng như cảm nhận sẽ trổi dậy trong sự hiện hữu ấy. Sự tái sanh về
cảnh giới Cực Lạc kia như là một bước tiếp theo tự nhiên. Rồi thì sự đạt
thành Phật quả là mục đích cuối cùng, nơi mà trí tuệ đến được.
Nếu sự gia hộ trở thành tư
tưởng và hơi thở của chúng ta cũng như sự quy kính và những lễ nghi thì
ngay cả trong khi chúng ta nhận biết được những hình ảnh thông thường,
tâm thức, hay cảm giác – ngay cả khi chúng ta sống, chết như thế nào
hoặc ở trong thân trung ấm – chúng ta sẽ luôn luôn được tiếp cận với đức
Phật xuyên qua danh hiệu cuả Ngài.
Đây là một năng lực đặc thù
mà bạn có thể gọi tên hay niệm tên Ngài khi cầu nguyện bằng ngôn ngữ
nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit hoặc trong một ngôn ngữ nào mà đã được
gia trì bởi nhiều bậc giác ngộ, như tiếng Sanskrit và Tây Tạng. Nhưng
nếu sự cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ của bạn thì rất là linh ứng cho
bạn. Nên xử dụng ngôn ngữ của bạn, bởi vì việc quan trọng là mở cửa tâm
hồn với sự quy kính Ngài cũng như phát triển sự tin cậy vào Ngài.
Chúng ta nên niệm hồng danh
gia hộ của đức Phật Vô Lượng Quang càng nhiều càng tốt. Ở bản phụ lục A
có hướng dẫn về cách xưng danh hiệu Ngài như thế nào.
Cõi Tịnh độ
như thế nào?
Hóa thân của thế giới Cực
Lạc được thể hiện ra trong nhiều cách giống như so với những tính cách
cao nhất của loài người và cảnh giới Chư Thiên. Như vậy thì có thể so
sánh rằng những chúng sanh sanh về nơi kia sẽ giống những hình dáng của
những chúng sanh loài người và Chư Thiên ở đó?
Tuy rằng cõi Tịnh Độ hóa
thân thể hiện như là một đối tượng của khái niệm nhị nguyên cùng với sự
cảm nhận. Nó thực sự nở ra với sự mở cửa và những năng lượng tốt đẹp.
Đây là một cảnh giới của Chư Thiên, tọa lạc nơi bầu trời ở trên hư không
(không phải nằm trong biển hay trên quả đất) và chứa đầy những vật thể
quý giá. Nhiệm vụ của thế giới kia với một vị Thánh và chia ra từng bực
giữa các vị Thầy và đệ tử của Ngài. Tất cả chúng sanh ấy đã sanh vào
được cõi Tịnh độ này đều là đệ tử và trong số những đệ tử này lại có các
vị Bồ Tát, họ phụng sự cho kẻ khác như là một vị Thầy.
Cõi Cực Lạc thế giới giống
như cảnh giới của con người và Chư Thiên được cấu trúc theo lối lập thể,
riêng biệt của kích thước và khoảng cách cũng như trong vùng thời gian
tương đối. Tuy nhiên không phải là sự khổ đau của con người như sự khổ
về sanh, già, bịnh và chết. Lại cũng chẳng có cái khổ của Chư Thiên, để
phải chết và rơi vào lại cảnh giới thấp hơn. Để giải thích tại sao được
gọi là Cực Lạc, đức Bổn Sư Thích Ca nói rằng: “Ở nơi cảnh giới Cực Lạc
ấy thân tướng chúng sanh không có khổ đau. Nơi ấy cũng không có cái khổ
về tinh thần. Nơi đó cũng không thể tính đếm được nguyên do của hạnh
phúc. Do vậy tại sao gọi nơi này là cảnh giới Cực Lạc’’.
Đất đai ở cõi Cực Lạc thì
mềm mại và bằng phẳng giống như những bàn tay của trẻ thơ. Không có giới
hạn, tươi trẻ, mát mẻ nhu nhuyến và rất dễ chịu khi sờ vào, không có gai
sỏi đá hay đồi dốc. Cõi ấy thanh tịnh, an bình, vui vẻ và không ô nhiễm.
Nó được cấu tạo bởi bảy chất báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trân châu,
xa cừ, mã não) và được trang sức bởi những chất bằng vàng ở các lối đi
thật trang nghiêm, vĩ đại, lồng lộng, bất nhiễm và chẳng khô héo. Cõi ấy
được chiếu sáng bởi những màu sắc và những tia ánh sáng. Trong cõi giới
thanh tịnh này có vô số vị Phật Tịnh Độ khác hiện ra giống như sự tương
phản lại trên mặt những tấm kính sáng rỡ. Chúng sanh ở đó có thể nhìn
thấy sự tương phản của các cõi Tịnh độ giống như là bạn đang xem một lục
địa khác trên truyền hình ở trong phòng của bạn.
Cõi Tịnh độ này không có
bóng tối hay những núi non thường tình, nhưng lại được trang sức với
nhiều loại núi non bằng phẳng của những loại đá quý trên đỉnh và dưới
chân núi. Đó đây ở những ngọn núi ấy được trang sức bởi sự chất chồng
những ngọc thạch quý giá, những loại ngọc ngà và những hang động bằng
cẩm thạch hiếm có cũng như những căn nhà được làm bằng những cây nho
tuyệt đẹp.
Những hàng cây tuyệt diệu ấy
nhiều màu sắc và được trang trí làm phong cảnh. Nơi đó có loại cây được
tạo nên bởi một, hai hay ba loại vật thể quý hiếm. Nhiều loại cây khác
được tạo nên bởi bảy loại đá quý như: rễ cây bằng vàng ròng, những thân
cây bằng bạc, nhành cây bằng lưu ly pha lê, lá cây màu hổ phách, cánh
hoa màu hồng ngọc, bông hoa màu trân châu và trái cây màu ngọc thạch.
Những cây này mềm mại và dịu dàng khi va chạm đến, mùi hương ngọt ngào
tỏa rộng đến mọi nơi. Âm thanh trong trẻo được chuyển đi khi bị gió lay
động.
Cõi Tịnh độ được trang sức
bởi những hàng rào chắn chung quanh và ở bên trên có ao, nước chảy, sông
suối; nơi đó nhiều chúng sanh chơi đùa trong sự an lạc thoải mái. Những
bậc thềm thoai thoải được làm bằng những loại đá quý báu dẫn bạn đến nơi
khe suối đang chảy và hồ kia chứa đầy nước công đức. Mặt đất được tạo
nên bởi những ngọc thạch quý hiếm được phủ lên đó một lớp cát vàng. Ao
ấy cũng đầy nước với đầy đủ tám công đức đó là: trong sạch, mát mẻ, sáng
sủa, hảo hạng, mềm mại, trong suốt, khoẻ khoắn cho cuống cổ, lành mạnh
cho bao tử. Những hoa sen ở cõi này chiếu sáng, hương thơm bay khắp bầu
trời cũng như trên mặt nước. Nhiệt độ của nước ấy thay đổi tùy theo ước
muốn của bạn. Nước sông chảy với hàng trăm hàng ngàn những hình ảnh âm
thanh mà âm nhạc của cõi Trời chẳng thể so sánh được. Bờ hồ và những
dòng sông ấy đầy dãy những hương thơm lan tỏa bao phủ. Những con sông
chấn động mạnh và những tiếng nói pháp vang lừng ở nơi bạn cư ngụ.
Những con chim ở đây được
biến hóa bởi đức Phật ở cõi Tịnh Độ. Giống như núi sông và hình dáng của
nước này cùng với những con chim ấy đều là do sự biến hóa của đức Phật,
chúng cũng chính Ngài. Hơn thế nữa. Chúng là nguồn gốc của sự hòa bình,
an lạc, trí tuệ và giác ngộ; chẳng phải là nguyên nhân của sự hổn tạp,
chấp thủ, tham lam hay sân hận. Giống như con người ở cõi giới bình
thường thì thường nghe chim hót và ở cõi Tịnh Độ bạn sẽ được nghe chim
hót với tiếng của Pháp âm. Tuy nhiên nếu bạn thích sự yên tĩnh thì những
gì mà bạn muốn nghe sẽ chỉ đơn thuần là âm thanh của sự yên tĩnh.
Tất cả những bông hoa đều
được tạo nên bởi những vật thể giá trị trong những màu sắc khác thường.
Chúng thường lớn bằng một nửa, một hoặc mười do tuần (1 do tuần bằng
4.000 tầm). Từ những hoa ấy phóng ra vô số ánh sáng màu vàng. Trong mỗi
tia sáng ấy có vô số hóa Phật hiện ra. Sự xuất hiện của chư Phật đầy
dẫy ở khắp các thế giới chẳng thể đếm hết được, tuyên nói tán dương
những lời dạy đến với tất cả chúng sanh, cho những ai sẵn sàng để đón
nhận những lời dạy ấy.
Những đệ tử ở cõi Tịnh độ
không chú trọng những loại thực phẩm đầy dẫy ở đó. Tuy nhiên nếu họ cần,
một vài đồ thượng thặng sẽ hiện ra trước họ như họ mong muốn và mời họ
nếu cần thì có thể dùng đến. Đồng thời bất cứ cái gì họ muốn như: hương
thơm, nước hoa, đồ xoa mình, cờ xí, dụng cụ âm nhạc, y phục hoặc đồ
trang sức sẽ hiện ra trước họ giống như họ mong cầu. Thế nhưng những vật
này sẽ chẳng hiện ra cho những ai mà không nghĩ đến chúng.
Với những vị này ai muốn có
nhà ở thì ở đây sẽ hiện ra lầu các với nhà nhiều tầng được làm bởi những
vật liệu quý giá, đầy đủ những chỗ ngồi giá trị, giường nằm với đồ trang
sức của cõi Trời, đồng thời có những đồ trang sức thật là tuyệt vời. Cứ
mỗi lầu các như vậy được chứa đầy cả hàng ngàn chúng sanh thượng thặng
không dứt tiếng ca hát và vui với sự cung ứng ấy. Những chúng đệ tử ấy
đi dạo xuyên qua các cõi trời khác cùng với những ngôi nhà phi phàm như
thế, với vườn tược, rừng cây, sông ngòi và những ao nước.
Vào mỗi buổi sáng, trưa,
chiều, chạng vạng, nửa khuya, gió thoảng từ bốn hướng thổi đến tận mọi
người. Chúng mang đến những cơn mưa hoa từ những cây và được phủ lên
trên đất với những hoa đang nở và mềm mại như lụa là. Nếu bạn sờ vào
chúng thì có hương thơm nhẹ bay ra, bạn sẽ cảm nhận sự an lạc giống như
bạn ở trong trạng thái Thiền định. Chẳng bao lâu thì tất cả những hoa cũ
ấy nằm trên mặt đất và sẽ biến đi, hoa mới thay thế vào đó và trở lại
tươi mát như cũ.
Rồi thì hương thơm khắp nơi
bay đến bao trùm những hoa quý báu ấy như trang sức thêm, cộng vào đó
là những điệu nhạc cùng sự nhảy múa bởi những chúng sanh cao quý ấy.
Ở nơi cõi Tịnh độ có tất cả
mọi hình thức, âm thanh và những cảm giác về hình ảnh; âm thanh ấy là
những sự thể hiện kinh nghiệm của giáo pháp. Điều này không có nghĩa là
những hình thức ấy trở thành hình ảnh của chư Phật hay âm thanh ấy trở
thành ngôn ngữ của những kinh điển Phật Giáo. Tuy vậy trên tất cả đều là
căn nguyên hay sự hiện hữu của sự hòa bình, an lạc và giác ngộ.
Trục chính của cõi Tịnh độ
là cây giác ngộ. Cây này cao 600.000 Do Tuần. được bao phủ với cành lá
sum sê, hoa, trái và được trang trí bởi những chất liệu quý giá cũng như
những tràng phan hoa bằng vàng. Khi chúng bị lay động bởi gió thì chúng
phát ra những âm thanh của tiếng ca hát bay đến cả nhiều thế giới khác
nữa. Tất cả những ai nghe được, thấy được hay ngửi được cây giác ngộ
này hoặc ai nếm được mùi vị của trái cây, rờ vào ánh sáng hay suy
nghĩ về sự hiểu biết thì sẽ được miễn trừ những khái niệm trôi nổi và
những sự cảm nhận khổ đau nữa.
Kích thước và hình thức của
cây giác ngộ được ghi lại ở đây một cách phù hợp cho con đường của những
người bình thường phải gặp nó, thế nhưng trên thực tế không thể suy nghĩ
được. Ở dưới chân của cây này có những hoa sen thật lớn. Đây chính là
tòa ngồi của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), từ đây Ngài dạy dỗ và
giải thoát cho tất cả.
Đức Phật Vô Lượng Quang (A
Di Đà) và những vị đệ tử của Ngài như là vị vua của núi rừng phủ trùm
lên tất cả những đồi núi, đức Phật A Di Đà vượt qua tất cả những vị vua
chúa trong hiện tại. Thân thể của Ngài trong suốt và không nhiễm ô, được
trang trí với ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp tuyệt vời của
bậc đại nhân. Thân thể của Ngài trong suốt và không giới hạn, cao lớn
như bầu trời. được chiếu sáng với ánh sáng không thể nghĩ bàn được,
chiếu sáng đến nhiều cõi Tịnh độ khác trong mười phương. Ánh sáng của
Ngài là những đức hạnh, sự thể đắc và trí tuệ. Sự tỏa ngời ánh sáng này
đẹp đẽ và tròn đầy giống như ánh sáng của pha lê, chiếu toàn thân thể và
tâm hồn của bất cứ ai mà va chạm đến ánh sáng ấy thì sẽ được trí tuệ và
nhiều niềm an lạc. Như thế đó, Ngài được biết đến là vị Phật Vô Lượng
Quang. Bởi vì thọ mạng của Ngài không thể suy lường được, Ngài cũng được
biết như là vị Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà – Amithayus).
Lời giáo huấn của Ngài mang
đến khắp nơi những âm thanh bất tuyệt của giáo pháp. Tâm thức giác ngộ
của Ngài là biển cả bao la, sâu thẳm an bình và trí tuệ. Ngài hiểu rõ
tất cả những chủ tể xuyên qua trí tuệ toàn tri của Ngài không có giới
hạn. Tâm nguyện của Ngài chứa đầy tình thương và lòng từ bi cho tất cả
những ai đau khổ, giống như một người Mẹ chỉ lo cho đứa con duy nhất của
mình. Với sự tự tin to lớn Ngài vô cùng hoan hỷ với mọi tâm thức của
chúng sanh, và những sự thành tựu mà họ cần đến với sự lưu xuất liên tục
của những thức ăn của Chư Thiên không bao giờ hết, giống như những lời
giáo huấn của Ngài. Với nhiệt tình hồi hướng, Ngài đã chia sẻ với mọi
người những chất cam lồ ấy, giống như sự đạt được tuyệt đối những điều
mà Ngài đã thệ nguyện. Như là một vị chủ chăn cừu, Ngài dạo đi chậm chạp
nhưng rất vững chắc, hướng dẫn sự nhóm họp của các đệ tử nhiều như biển
cả mênh mông.
Nơi cõi Tịnh độ của Ngài,
đức Phật Vô Lượng Quang là chủ nhơn của vô số đệ tử không thể tưởng
tượng hết được. Họ là những người thân đến tham cầu sự giác ngộ cho
chính mình và sự giác ngộ cho kẻ khác nữa. Trong những vị Bồ Tát có 8 vị
Bồ tát quan trọng như: Avalokiteshvara (Quán Thế Ấm), Mahasthamapata
(Đại Thế Chí), Manjushri (Văn Thù Sư Lợi), Kshitigarbha (Địa Tạng)
Sarvanivaranaviskambini, Akashagarbha (Hư Không Tạng), Maitreya (Di Lặc)
và Ngài Samantabhadra (Phổ Hiền) Những vị Bồ Tát nầy sở hữu gấp năm lần
sự hiểu biết phi thường như sau đây:
1)
Các Ngài sở
hữu những việc bất khả tư nghì như dạo chơi trong khoảnh khắc mà có thể
xuyên qua được nhiều thế giới để đến dạy cho những chúng sanh khác tại
đó. Cứ mỗi sớm mai những vị đệ tử này du hành qua nhiều cõi Tịnh độ để
gặp gỡ và đảnh lễ các đức Phật ở tại đó và nghe những vị Phật này thuyết
pháp, trước khi trở về lại thế giới Cực Lạc.
2)
Các Ngài có
khả năng nhớ lại những sự kiện từ những kiếp trong quá khứ để dùng cho
mục đích là tu học và giáo hóa.
3)
Những cặp mắt
thần của các Ngài là những cái nhìn hiền minh về vô tận thế giới để đoái
hoài đến những chúng sanh bị nhiễm ô, được các vị Bồ Tát phụng sự.
4)
Những lỗ tai
thần của các Ngài có thể nghe được lời dạy của vô số những vị Phật giống
như những chúng sanh đang cầu nguyện.
5)
Các Ngài được
biết đến những trạng thái thuộc về những chúng sanh trong vô số cõi nước
và thuận theo giúp đỡ họ.
Qua những năng lực bất khả
tư nghì này những vị Bồ Tát ấy dụng ý vui vẻ và hữu ích cho vô số chúng
sanh ở trong nhiều thế giới khác nhau.
Không phải tất cả chúng sanh
được sanh về cõi Cực Lạc đều đủ những năng lực như những vị này. Bởi vì
họ đã có sự nghi hoặc về việc tái sanh ở thế giới Tịnh Độ; hoặc thiếu sự
tin tưởng về năng lực của đức Phật Vô Lượng Quang và lời thệ nguyện của
Ngài.
Những chúng sanh khác khi
sanh về cõi Tịnh độ này có thể còn sanh lại vào lòng của hoa sen trong
năm trăm năm nữa và chẳng thể gặp được Phật suốt cả trong thời gian ấy.
Họ sẽ an ổn và hạnh phúc ở trong những bông hoa bất khả tư nghì ấy. Thế
nhưng vì họ là những người còn nghi ngờ, phức tạp, cho nên những cánh
hoa ấy đóng lại sau khi tái sanh và họ chưa thấy được cảnh giới Tịnh Độ
cũng như đức Phật.
Không phải tất cả những vị
đệ tử ở cõi Tịnh Độ đều là những vị Bồ Tát Thập Địa hay cao hơn nữa.
Nhưng cho tất cả những đệ tử nào muốn kiếp sống sau cùng của họ sẽ đạt
được Phật quả, và cho tất cả mọi người ở đây sẽ được giác ngộ. Ngoại trừ
họ chọn mục tiêu khác và nhờ năng lực lời nguyện của đức Phật.
Không có những chúng sanh
nào tại đó là những người hướng dẫn cho gia tộc về con đường của cuộc
sống với người phối ngẫu và gia đình bởi vì tất cả đều tự do từ những sự
phụ thuộc để cho đối tượng của nhục thể. Ở đây chẳng có một người nào
rời khỏi từ chánh niệm, sự cảm kích và sự huấn luyện vật thể con đường
của cuộc sống là sự hoàn hảo nơi Tịnh Độ. Những chúng sanh ở cõi Cực Lạc
là những người trí thức, có tình thức và tính cách vật lý được tinh
luyện nhiều hơn những chúng sanh ở những cảnh giới có tính cách thế tục.
Họ vượt qua khỏi sự phân loại về đàn ông và đàn bà. Tuy nhiên theo các
kinh điển và giáo lý về cõi Cực Lạc thì ở đó chẳng có những người đàn
ông hay những người đàn bà bình thường giữa những chúng sanh ấy khi họ
được sanh về cõi Tịnh độ, nơi mà giống cái hay giống đực thuộc về ứng
hóa thần kỳ của đức Phật Vô Lượng Quang để phụng sự cho những chúng sanh
ấy.
Đây không phải là sanh vào
tử cung, mà tất cả những sự tái sanh này bởi sự quảng đại bất khả tư
nghì, cao quý, hương thơm ngào ngạt ở giữa những bông hoa đủ màu sắc.
Chẳng một người nào sản xuất ra nước tiểu, bài tiết hay nước giải. Vì
những chúng sanh ở đây không có những thân thể to lớn và ăn những thức
ăn như ở quả đất này.
Theo những bài vở trong A
Tỳ Đạt Ma (Xem N.183a\2 và CND 3018) ở buổi ban sơ của thời đại chúng
ta, những kiếp số trước, loài người có mặt trên quả địa cầu này không
phân biệt những người đàn ông hay những người đàn bà nổi tiếng. Họ không
làm tình với nhau và mọi người được sinh ra qua những cách huyền bí. Con
người chẳng cần phải ăn nhiều thực phẩm, lẫn việc họ chẳng cần đến ánh
sáng của mặt trời hay mặt trăng, mà họ có ánh sáng tự chiếu ra bởi những
tia sáng nơi chính thân thể của họ. Họ bay đi trong bầu trời như những
con chim, họ không có cánh. Dần dần qua thời gian con người bắt đầu vui
với những vật thể trên mặt đất và rồi qua kinh nghiệm to lớn của những
tình thức. Đây
là nguyên nhân làm cho họ mất đi khả năng bay và chiếu sáng của tự thân
họ. Chẳng bao lâu họ bắt đầu trở nên những người đàn ông và những người
đàn bà nổi tiếng và có sự sinh ra từ tử cung của người Mẹ.
Đức Phật dạy rằng:
Ở cõi Cực Lạc của đức
Phật Vô Lượng Quang
Đã từ lâu tất cả vui với
sự hấp thụ thực phẩm mặc nhiên
Ở đây ngay cả tên của
loại thức ăn bình thường cũng không có nữa.
Mọi người đều hoan hỷ ở cõi
Tịnh Độ và nhan sắc họ giống như nét đẹp của vàng ròng. Thân thể của tất
cả những vị đệ tử ở cõi Tịnh Độ rất mạnh mẽ và đầy đủ năng lực được biểu
hiện qua ba mươi hai tướng tốt tuyệt vời của những bậc đại nhân. Ánh
sáng trí tuệ của thân thể họ chiếu sáng trùm khắp cõi địa cầu. Đức Phật
nói tiếp:
Ở cõi Tịnh Độ của đức
Phật Vô Lượng Quang
Ánh sáng trí tuệ của một
bậc chân nhân là luôn luôn được lưu xuất.
Ở đây không có bóng tối
Và cũng chẳng có sự khác
nhau giữa ngày và đêm
Tâm thức của họ luôn an lạc
như họ được chứa đầy bởi sự tự tin và trí tuệ. Họ hoan hỷ bởi vì bất cứ
cái gì họ cũng vui; họ vui vẻ tự nhiên, không có sự chấp thủ, bị phiền
não bởi những sự khổ sở. Ngay cả với những ai vẫn chưa vượt khỏi sự khổ
đau. Nguyên nhân của sự khổ đau nhưng họ vẫn cảm nhận được niềm vui,
chính mình tạo ra sức mạnh của thế giới Tịnh Độ. Chẳng có ai là chủ thể
của sự già hay bệnh hoạn. Cuộc đời là vô hạn, bởi vì sức mạnh của phước
đức. Khi họ sanh về cõi Tịnh Độ. Tất cả những kinh nghiệm của sự khổ đau
sẽ được dừng lại. Ở nơi đó không là hiện trường của sự khổ đau tại Tịnh
Độ.
Tái sanh về
thế giới Cực Lạc
Sự mô tả về cõi Cực Lạc đơn
thuần cục bộ về ánh sáng được thấy ở đó là giàu chất lượng bất khả tư
nghì. Trong thực tế, ngay cả con mắt thần cũng không thể thấy được tất
cả mọi chất lượng, mà điều ấy là vô hạn. Ngay cả đức Phật Ngài cũng
chẳng thể giải thích được tất cả về chúng. Ngôn ngữ thì chẳng đầy đủ
được.
Theo nhiều kinh sách thì lời
nguyện của đức Phật Vô Lượng Quang có một năng lực phi phàm, nếu bạn
luôn nhớ nghĩ đến Ngài, bạn sẽ chẳng những được sanh về thế giới Tịnh Độ
của Ngài mà bạn sẽ được gặp Ngài như là một con người trong cuộc đời của
bạn ngay cả trong giấc ngủ hoặc dưới cái nhìn cũng vậy. Vào thời điểm
bạn qua đời đức Phật Vô Lượng Quang sẽ hiện ra trước bạn ở giữa số đông
đệ tử nhiều như biển cả. Đặc biệt nếu bạn nhớ đến đức Phật Vô Lượng
Quang ở trong tình trạng trung ấm thân thì sự tưởng nhớ ấy sẽ là nguyên
nhân để bạn được sanh về thế giới Tịnh Độ của Ngài. Bởi vì chính điều ấy
trong khi ở trung ấm thân sẽ dễ dàng thay đổi tình huống của bạn.
Để được vãng sanh về thế
giới Tịnh Độ bạn chẳng cần phải đạt thành ở một vài sự thể đắc mặc nhiên
cao cả. Bởi vì với năng lực của những lời thệ nguyện của đức Phật, những
gì bạn cần là sự thực hành bốn nguyên nhân để mở cánh cửa tâm linh của
bạn và hãy thể hiện nó ở sự cảm thọ càng nhiều càng tốt. Điều kiện duy
nhất là bạn chẳng phạm vào một trong năm tội ngũ nghịch hay chẳng tin
tưởng nơi Phật pháp. Đức Phật Thích Ca đã dạy về bốn nguyên nhân ấy như
sau:
“Nầy A nan! Có những hạng
người một là suy nghĩ chi tiết về đức Phật (Vô Lượng Quang và cõi Tịnh
Độ của Ngài) cứ lập đi lập lại mãi như vậy; hai là những người ấy sáng
tạo ra vô lượng phước đức và chân thành cầu nguyện vãng sanh về thế giới
Cực Lạc. Khi họ mất họ sẽ được tái sanh về cõi giới Cực Lạc ấy’’.
Việc gieo trồng sự quy hướng
về và sự tưởng niệm đến đức Phật Vô Lượng Quang, chúng ta xác nhận được
sự tái sanh của chúng ta vào cảnh giới bất khả tư nghì của Cực Lạc, một
cõi giới hoàn toàn hòa bình và an lạc tuyệt đối và trở thành nguồn gốc
của sự bình tĩnh và sự chờ đợi của những người khác. Cơ hội vi diệu này
là lời hứa của đức Phật Vô Lượng Quang đối với mỗi chúng ta vậy. Sự thật
của lời nguyện này đã được tuyên bố bởi chính đức Phật lịch sử (đức Phật
Thích Ca Mâu Ni). Đây chính là con đường đã được xác nhận để du hành bởi
những người Phật tử hiền minh và sự nương tựa xuyên qua thời đại.
Một vài người Phật tử nhìn
những việc này như là “vô thần’’ phải phụ thuộc vào cảnh giới Cực Lạc,
chỉ là sự quy kính với nhiều vị Thần tiếp cận. Tuy nhiên khi khảo sát kỹ
nên để ý ví dụ của Ngài Nagarjuna. Ngài chính là vị chủ xướng quan trọng
nhất về nguồn gốc tánh Không của Phật Giáo Đại Thừa rằng: Trường phái vô
thần ấy là cự tuyệt sự hiện hữu các cực đoan, vô trụ; cả sự hiện hữu và
không hiện hữu; chẳng tồn tại lẫn không tồn tại. Bây giờ thì đức Phật
lịch sử đã huyền ký rằng: “Sẽ có một vị Tăng tên là Naga (rjuna)...
sẽ được tái sanh về cõi Cực Lạc, khi ông ta lìa khỏi tấm thân của ông ấy’’.
Như vậy thì, nếu một vị đại sư quan trọng, to lớn về truyền phái tánh
Không (vô thần) mà còn được sanh về cõi Tịnh độ, thì một vài người theo
Phật Giáo, hữu thần hay không thần, bất cứ cái nào cũng sẽ có thể được
sanh về nơi cõi kia.
Để sự tái sanh dễ dàng về
cõi Tịnh độ là điều quan trọng cho người sắp chết, phải nên giúp đỡ cả
hai hệ thống ấy trong và chung quanh họ. Chương tới sẽ nói đến sự giúp
đỡ như thế nào của người trợ tử.
[1] Tiếng Sanskrit có 46
lời nguyện và được dịch ra tiếng Trung Hoa 48 lời nguyện