Chương Dẫn
Nhập
Cái
chết không phải là sự chấm dứt
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng
nhất. Dù là người Đông Phương hay là người Tây Phương, dù là Phật tử hay
tín đồ của một tôn giáo nào khác, dù là người có tín ngưỡng hay không
tín ngưỡng, người ta cũng đều giống nhau ở điểm này. Khi thần thức rời
khỏi thể xác vốn thường được quý trọng của mình, thì đó là khúc quanh
quan trọng nhất của đời người, vì cái chết sẽ đưa người ta đi tới một
cõi giới bí ẩn.
Trong giờ phút cuối cùng của
cuộc đời, người ta sẽ đứng ở giữa ngả ba đường. Nếu đã sửa soạn trước,
người ta
sẽ sẵn sàng đi tới với sự tự tin và thoải mái, giống như con đại bàng
vươn cánh bay lên bầu trời. Theo
giáo lý Phật Giáo, nếu không có sự chuẩn bị trước, người ta sẽ phải trải
qua chu trình sống, chết và tái sinh nhiều lần.
Đa số người ta không thích nghe nói về cái chết, cái không thể tránh
được của mình vốn có thể tới bất cứ lúc nào. Họ còn không dám nghĩ đến
sự chết, và chỉ chú tâm vào những công việc trong đời sống hàng ngày của
mình. Những người có tín ngưỡng thì tin rằng còn có một sự sống ở bên
kia cửa tử, trong khi nhiều người không có tín ngưỡng thì cho rằng chết
là hết, người ta không còn gì cả.
Ngày nay chúng ta đang ở trong
thời đại hoàng kim của khoa học kỹ thuật, nhưng kiến thức của chúng ta
về sự sống ngừng lại ở chỗ hơi thở chấm dứt. Khoa học và kỹ thuật không
thể cho biết là có hay không có sự liên tục của tâm thức sau khi người
ta trút hơi thở cuối cùng. Việc nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm
túc bị các nhà khoa học và y học thuộc giòng chính ngạch bác bỏ. Trong
thời đại hồ nghi này, người ta thường cảm thấy khó có thể tin là có cuộc
sống ở đời sau, vì họ sợ bị người khác xem là người kém trí tuệ, đơn sơ
và ngây thơ.
Bất cứ khi nào mở máy truyền
hình, chúng ta cũng có thể trông thấy những hình ảnh chết chóc, dù là
những cái chết giả trên điện ảnh hoặc những đoạn phim thời sự về những
người trên thế giới chết vì bệnh tật, tai nạn hay bạo động.
Rất ít khi chúng ta được
trông thấy những hình ảnh tự nhiên về những người chết một cách bình
thường
hay đang trong cơn hấp hối, mà thường được trông thấy nhiều hơn hình ảnh
của những tang lễ nhiều màu sắc, với người chết được trang điểm thêm,
nằm bên trong quan tài được trang trí bằng nhiều bông hoa xung quanh.
Nếu
dám nhìn trực tiếp vào sự sống và cái chết, chúng ta sẽ thấy rõ luân hồi
sinh tử là quy luật dành cho toàn thể sinh linh, con người sinh ra, chết
đi và sẽ tái sinh trở lại.
LÚC
CHẾT ĐIỀU GÌ XẢY RA ?
Tất cả những tôn giáo lớn trên
thế giới đều đồng ý rằng chết không phải là hết, mà còn có một “cái
gì đó” tồn tại, dù giáo lý của các tôn giáo khác nhau trong chi tiết
và lối diễn dịch. Dù được gọi là tâm, thần thức, linh hồn hay tinh thần,
“cái đó” vẫn tiếp tục hiện hữu trong hình thức này hay hình thức khác.
Phật Giáo gọi là “tâm” ( Tiếng Anh “mind”, tiếng Tây Tạng “sem”, tiếng
Sanskrit “citta”),
là tính chất căn bản, vẫn tồn tại sau cái chết của thể xác vật chất. Thể
xác sẽ tan nhập trở lại vào những nguyên tố (tứ đại: đất nước gió lửa),
mà từ đó nó đã được tạo ra, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục hiện hữu
bởi
tâm trí và thần thức, và sẽ
nhập vào một thể xác khác để sống trong kiếp sau.
Thể xác là “vật chuyên chở”
tâm trí và là con người vật chất, gợi ý tưởng về danh tánh, hay ý tưởng
“ ta”. Như vậy chúng ta cảm thấy mình là một người riêng biệt trong suốt
kiếp sống của mình. Những ảnh hưởng của môi trường xã hội và những tập
quán văn hóa cũng đóng góp cho sự liên tục của kinh nghiệm đời sống của
mỗi người. Chúng ta cảm thấy thể xác của mình cũng như những sắc tướng ở
xung quanh là những gì “chắc thật”. Mọi vật và mọi sự việc xuất hiện
trong ý thức của chúng ta, được cảm nhận bởi các giác quan của chúng ta,
đều có vẻ chắc thật ở bên ngoài, và phân biệt với tâm trí của chúng ta.
Nhưng vào lúc chết, tất cả
những sắc tướng này sẽ biến mất. Tâm trí sẽ rời khỏi thể xác, giống như
người ta bỏ lại một bộ quần áo cũ. Ngay khi thần thức rời thể xác, những
vật mà chúng ta trông thấy cũng như những cảm giác mà chúng ta đã có
trong đời sống sẽ thay đổi một cách cực kỳ. Những gì chúng ta trải qua
sau khi chết sẽ hoàn toàn tùy thuộc tâm trí của mình, tức là tùy thuộc
những thói quen tâm trí và những ý nghĩ mà chúng ta đã tạo ra và dung
dưỡng trong đời sống ở cõi vật chất vừa qua.
Nếu tâm ta an lạc thì tất cả
những gì chúng ta làm ở cõi vật chất cũng là sự biểu lộ an lạc và tất cả
những gì chúng ta nói cũng là những lời an lạc. Như vậy tất cả những
hành động của chúng ta sẽ trở nên đạo đức, và chúng ta sẽ là nguồn an
lạc đối với tất cả những người nào tiếp xúc với chúng ta. Vào lúc chết,
khi chúng ta thoát khỏi sự ràng buộc của thể xác, thoát khỏi những sự
giới hạn văn hóa và những ảnh hưởng của môi trường xã hội, chúng ta sẽ
được tự do hưởng an lạc, vốn là thật tánh của tâm trí. Cũng giống như
vậy, nếu trong đời sống thế gian, chúng ta tu luyện đúng pháp, thì vào
lúc chết, tất cả những hiện tượng xuất hiện với chúng ta sẽ là một cõi
an lạc và giác ngộ.
Nhưng nếu tâm trí chìm đắm
trong những cảm xúc đau khổ như buồn giận, thì bất cứ điều gì chúng ta
nghĩ cũng bị quấy nhiễu bởi những ý tưởng và những cảm xúc sân hận. Bất
cứ điều gì chúng ta nói hay làm cũng là sự biểu lộ mạnh mẽ của sự sân
hận. Như vậy trạng thái an lạc sẽ không có cơ hội xuất hiện trong tâm
trí của chúng ta. Sự đau đớn với sân hận của chúng ta sẽ có ảnh hưởng
xấu đến những người xung quanh. Vào lúc chết, có thể chúng ta sẽ rơi vào
một sự
bốc cháy trong lửa địa ngục, sự biểu lộ tâm sân hận của chúng ta.
LUẬT NHÂN
QUẢ
Các tôn giáo lớn trên thế giới
đều dạy rằng một đời sống lợi ích và tử tế sẽ đưa đến một cõi đầy phúc
lạc ở bên kia cửa tử, còn một đời sống đầy sân hận và tai hại sẽ mang
lại những hậu quả xấu. Thiên Chúa Giáo ngợi khen những việc tốt và những
hành vi bác ái. Do Thái Giáo khuyến khích việc làm theo những điều răn
trong Thánh Kinh Torah. Phật Giáo nói tới việc tích lũy công đức bằng
cách tạo thiện nghiệp qua ý nghĩ, lời nói và việc làm tốt. Những tôn
giáo này cũng như những truyền thống khác đều chấp nhận luật nhân quả tự
nhiên và phổ quát trong vũ trụ vạn vật. Luật nhân quả hay nghiệp báo là
nhân tố chi phối mọi sự kiện. Mỗi hành vi về thân, miệng và ý, đều sẽ
phát sinh ra một hệ quả tốt hay xấu. Phật Giáo đặc biệt dạy tỉ mỉ về
nghiệp quả nào sẽ xuất hiện sau những hành vi nào. Nói chung thì những ý
nghĩ, cảm xúc, lời nói và hành động tốt sẽ đưa đến phúc lạc, trong khi
những hành vi bất thiện sẽ có hậu quả đau khổ trong kiếp luân hồi.
Tất cả những cảm xúc đau khổ
cũng như những ý niệm và những ý nghĩ theo thói quen đều có nguồn gốc là
ngã chấp, tức là bám giữ vào cái “ta” giả ảo, phân biệt chủ thể và đối
tượng, có ý tưởng mình là thực thể phân cách với tất cả các sinh linh
khác. Luận Sư Nagarjuna (Long Thọ) viết: “tất cả chúng sanh đều do
ngã chấp mà kẹt trong luân hồi” (All beings have come from grasping at
self). Tâm trí con người có khuynh hướng bám giữ vào những đối tượng
của ý nghĩ và nhận thức, và đó chính là nguyên nhân của kiếp sống trong
cõi nhị nguyên này.
Do ngã chấp, phân biệt mình với mọi vật khác, mà người ta xem những đối
tượng của tâm trí là những thực thể có sự hiện hữu thực sự. Đối tượng
tâm trí là tất cả những hiện tượng xuất hiện trong ý thức của chúng ta,
thí dụ như “mình”, “người”, “anh”, “nó”, “tiền” hay “ bàn ghế”, cũng như
những ý tưởng, cảm xúc và cảm giác, thí dụ như
“đau”.
Khi nắm giữ một đối tượng của tâm trí như một vật chắc thật, chúng ta
lập một liên hệ nhị nguyên chủ thể và đối tượng. Rồi đến ý tưởng thích
hoặc không thích đối tượng của tâm đó, và như vậy xiết chặt thêm sự chấp
thủ của tâm trí. Sau cùng là cảm xúc vui thú hoặc đau đớn, đầy kích
thích và áp lực.
Ngã chấp bao gồm hai ý tưởng
“ta” và cái của ta” và cũng bao gồm cả những hiện tượng xuất hiện trong
tâm trí của chúng ta. Nhưng Phật Giáo dạy rằng không có một tự ngã nào
có sự hiện hữu thực sự, chắc thật và bất biến. Như vậy tính ngã chấp của
chúng ta chỉ dựa trên một ảo tưởng. Và
do
có luật nhân quả, những ý nghĩ và hành vi vô minh dựa trên ảo tưởng của
chúng ta sẽ có hậu quả là đau khổ vốn rất thật đối với chúng ta.
Tính ngã chấp gây ra luân hồi
và nghiệp báo. Nó sản sinh ra những cảm xúc, phiền não tham, sân, si,
ganh tỵ, kiêu ngạo và lo sợ. Những cảm xúc phiền não này là nguyên nhân
của sự tái sinh, vì vậy trạng thái tâm an tĩnh
là
phương tiện thoát luân hồi đau khổ.
Những giai đoạn sống, chết, và
sau khi chết diễn ra một cách tự nhiên đối với mọi người, và không do
một người nào khác tạo ra cho chúng ta. Đó là những phản ảnh và những
lực phản ứng của chính những ý nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta.
Vì vậy chúng ta phải tu tập một cách vững chắc để đạt phúc lạc trong sự
chết và tái sinh.
CHU TRÌNH
SỐNG, CHẾT VÀ SAU KHI CHẾT
Chu trình sống, chết và sau
khi chết kéo dài bất tận, được gọi là luân hồi, hay “samsara” trong
tiếng Sanskrit. Có khi luân hồi được mô tả tượng trưng bằng một bánh xe
quay tròn không ngừng (xem hình vẽ trang 172, bản tiếng Anh). Luân hồi
được chia thành bốn giai đoạn và là bốn loại kinh nghiệm khác nhau:
1/. Giai đoạn đời sống thế gian
bắt đầu từ lúc thọ thai và chấm dứt với “căn bệnh gây tử vong” hoặc
nguyên nhân nào khác đưa đến cái chết. Mỗi khoảnh
khắc của đời sống cũng được xem là một giai đoạn đời sống xuất hiện và
chấm dứt trong một chuỗi bất tận những sự kiện biến đổi giữa lúc sinh ra
và lúc chết, lúc thức và lúc ngủ, lúc hạnh phúc và lúc khổ đau.
2/. Giai đoạn hấp hối bắt đầu
với căn bệnh gây tử vong và đi qua sự phân giải thô đại và vi
tế, khi những thành phần,
thể xác, trí tuệ và cảm xúc phân rã. Giai đoạn này chấm dứt lúc hơi thở
ngừng lại.
3/. Giai đoạn tính chất tối
hậu hay chân tánh, bắt đầu khi “quang minh căn bản” hay tịnh quang, tính
chất thật của tâm trí, xuất hiện. Đặc điểm của giai đoạn này là sự xuất
hiện tự nhiên của “ linh ảnh quang minh” và không chỉ có ánh sáng mà còn
có những âm thanh và hình ảnh nữa. Giai đoạn này chấm dứt khi những linh
ảnh này tan biến. Tuy nhiên những người bình thường không nhận ra linh
ảnh quang minh là sự biểu lộ chân tánh của chính mình, mà họ xem đó là
những hình ảnh hoặc sợ hãi hay vui mừng. Đối với họ, chứng nghiệm này sẽ
chỉ kéo dài một lúc, vì họ sẽ bất tỉnh ngay sau đó.
4/. Giai đoạn chuyển tiếp, hay
“Bardo”, bắt đầu khi những linh ảnh nói trên tan biến hoặc khi người ta
tỉnh táo trở lại và chấm dứt khi người ta nhập vào thai bào người
Mẹ
ở kiếp sau.
Trong kinh sách Tây Tạng, mỗi
giai đoạn đó được gọi là một Bardo, tức là giai đoạn chuyển tiếp hay
trung gian, vì mỗi bardo xuất hiện giữa hai giai đoạn khác. Như vậy, cả
kiếp sống thế gian cũng được gọi là một bardo, dù nghe có vẻ kỳ lạ, vì
đó là giai đoạn chuyển tiếp giữa lúc sinh ra và lúc chết. Tuy nhiên,
nhiều người chỉ dùng từ ngữ bardo để chỉ giai đoạn ở giữa lúc chết và
lúc tái sinh, một khoảng thời gian có nhiều chứng nghiệm linh động và
những cơ hội quan trọng có tính cách quyết định kiếp tương lai của mình.
Trong cuốn sách này
tôi dùng từ ngữ “bardo” để chỉ giai đoạn thứ tư, ở giữa lúc thoáng thấy
tịnh quang chân tánh và lúc tái sinh.
CÕI TRUNG
ẤM – BARDO
Để minh họa
sự kiện vượt qua ngưỡng cửa sự chết và những gì người ta có thể gặp ở
bên kia cửa tử, tôi đã phiên dịch những câu chuyện kỳ lạ trong kinh văn
Phật Giáo Tây Tạng về những hành giả đã rời khỏi thể xác của họ trong
nhiều ngày liền để du hành trong cõi vô hình. Một hành giả như vậy được
gọi là “delog”, hay người “ trở về từ cõi chết”, tái nhập thể xác và
viết lại cuộc du hành dị thường của mình vốn có thể đi qua tầng địa ngục
thấp nhất cho tới cõi tịnh cao nhất.
Những cõi tịnh là những thiên
đường hoan lạc và thanh tịnh mà các vị Phật hay các đấng giác ngộ do
lòng từ bi đã dựng lên để các tín đồ có thể tái sinh ở đó mà không cần
phải đắc những quả vị cao. Tái sinh trong một cõi tịnh, chúng ta sẽ tiếp
tục tu tiến để đạt đến giác ngộ.
Có những delog kể lại chuyến
đi thăm cõi tịnh của mình. Ở đó họ được các vị Phật dạy giáo lý. Các
delog khác kể nhiều hơn về cõi Bardo, nơi có toà xử án, và những cõi
khác nơi người ta có thể tái sinh, thí dụ như cõi quỷ đói hay cõi của
các vị thần.
Những lời kể của các vị delog
rất cảm động. Phần lớn các delog là những vị có đạo tâm kiên cố, và họ
đã trở lại thế gian để kể cho chúng ta biết về cõi bên kia và cho chúng
ta biết cách sửa soạn cho cõi giới đó. Mỗi câu chuyện là một tặng phẩm,
vì đã mở một khung cửa sổ cho chúng ta thấy tương lai rộng lớn của mình
ở bên kia cuộc đời này, các delog mở rộng tầm mắt của chúng ta và truyền
cảm hứng cho chúng ta tu sửa cuộc
đời
của mình.
Những câu chuyện của các delog
giúp cho chúng ta biết đến những điều quan trọng có tính cách quyết định
cõi mình sẽ tái sinh. Chúng ta được thấy sức mạnh của việc tu tập có thể
thanh lọc những ác nghiệp của thân, khẩu và ý . Chúng ta được biết sức
mạnh cầu nguyện của người thân có thể giúp cho người chết đạt được sự
tái sinh lên những cõi cao hơn. Chúng ta thấy sự thành tín là phương
tiện thiện xảo để mở trí tuệ và làm cho các vị
Thầy
có thể giúp đỡ chúng sanh trong cõi bardo và hướng dẫn họ thác sinh về
Tịnh
Độ.
Phần lớn các delog mang về
những lời nhắn của các người thân và bạn bè đã qua đời. Những lời nhắn
riêng tư này làm cho chúng ta thêm tin tưởng vào việc sửa đổi lối sống
của mình trong khi đang có thân người quý báu và đang có cơ hội tu tập ở
thế gian này.
Ở Tây Phương, những người được
hồi sinh từ cái chết trên giường bệnh có khi có “kinh nghiệm cận tử”
(near death experiences). Những kinh nghiệm này có nhiều điểm giống kinh
nghiệm của các vị delog, nhưng có thể chỉ kéo dài khoảng vài phút, trong
khi kinh nghiệm của các delog có thể kéo dài nhiều ngày. Các delog cũng
có vẻ đi sâu hơn nhiều vào cõi bên kia cửa tử.
Tôi đã tìm được nhiều văn bản
delog, nhưng vì không gian giới hạn nên tôi chỉ có thể cho một phần nhỏ
những câu chuyện delog vào cuốn sách này. Những câu chuyện trong chương
2,
chương 3
và chương 5
thường được ghi niên đại từ thế
kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ 20. Delog không phải là hiện tượng mới có, mà
cũng không phải chỉ có ở Tây Tạng. Họ đã được nói đến trong giáo lý của
Đức Phật.
Khi đọc những lời kể của các
delog trong cuốn sách này, một số độc giả sẽ thắc mắc tại sao những câu
chuyện này nhuốm màu sắc người Tây Tạng và văn hóa cũng như tranh tượng
Tây Tạng. Tại sao ở cõi bên kia các delog cứ gặp những người quen là Tây
Tạng ? Tại sao các vị phán xét có vẻ giống các phán quan trong tranh vẽ
Phật Giáo ?
Câu trả lời chính yếu là những
cảnh tượng diễn ra trước mắt chúng ta trong cõi bardo là hình ảnh phản
chiếu của những tập quán hay thói quen và những cảm xúc của chúng ta.
Bất cứ cái gì chúng ta trông thấy và trải qua sau khi chết cũng phù hợp
với tư tưởng của chúng ta vốn đã được định hình bởi nền văn hóa và hệ
thống niềm tin mà bản thân chúng ta đã sống ở trong đó. Tất cả chúng ta,
dù là trẻ con hay người lớn, có tín ngưỡng hay vô thần, cộng sản hay tư
bản, đều gắn liền với những thói quen, nhận thức sự vật mà mình đã tiếp
nhận trong đời sống. Vì các delog đều là Phật tử Tây Tạng hoặc quen
thuộc với Phật Giáo, nên họ cảm nhận sự vật trong cõi giới Trung Ấm theo
quan điểm đó.
Những tục lệ và tập quán của
con người khác nhau tùy theo xã hội, nhưng chúng ta dù thuộc xã hội hay
tín ngưỡng nào, cũng có chung một điểm là coi thế gian như sự thưởng và
phạt cho những việc tốt hay xấu mà mình đã làm. Chúng ta luôn luôn giao
động giữa mong cầu và lo sợ dưới những con mắt xuyên thấu của một quyền
lực hay một vị phán xét nào đó. Những nhận thức của chúng ta thấm đầy
tâm trạng phán xét này. Đó là lý do khi lỡ không có đạo đức, chúng ta sợ
bị phán xét và sau khi chết chúng ta sẽ cảm nhận một vị phán xét dành
cho mình một lời tuyên án nghiêm khắc.
Sự thật thì không có một vị
phán xét nào ở bên ngoài bản thân mình. Không có bản án nào cả. Kinh
nghiệm sau khi chết của chúng ta chỉ là hệ quả của những nghiệp báo và
cảm xúc mà chúng ta đã tạo tác trong đời sống. Luận Sư người Ấn Độ
Shantideva đã viết về địa ngục như sau: “ Ai dựng lên địa ngục bằng
sắt cháy nóng ? những ngọn lửa đó ở đâu ra ? tất cả chúng chỉ là hình
ảnh phản chiếu những ý nghĩ bất thiện của mình. Đức Phật đã dạy như vậy”.
Rất có thể tất cả chúng ta sẽ
trông thấy một quyền lực cao cấp nào đó. Hình dạng của quyền lực đó sẽ
tương ứng với tập quán về tư tưởng của chúng ta. Các sách Tây Tạng mô tả
một tòa án được chủ tọa bởi vị Pháp Vương và các phụ tá của
Ngài,
tức là các vị thần địa ngục. Những nền văn hóa và tôn giáo khác cũng nói
tới một vị phán xét thiêng liêng, một cuốn sổ ghi công và tội của mọi
người, hay một cái cân để cân công và tội. Những người có kinh nghiệm
cận tử ở Tây Phương thường nói đến sự kiện “coi lại cuộc đời”,
tức là trông thấy tất cả cuộc đời của mình, trong đó họ được khuyến
khích phán xét cuộc đời của chính mình. Nhưng điều thông thường cho tất
cả là luật nhân quả phổ quát quy định thói quen và hành động tốt sẽ có
kết quả tốt, còn thói quen và hành động bất thiện sẽ đưa đến hậu quả xấu.
TÁI SINH:
Sau giai đoạn bardo, chúng ta
sẽ tái sinh với một thể xác và danh tánh mới. Cũng như những gì diễn ra
với chúng ta trong cõi bardo tùy thuộc vào hành vi, khuynh hướng tâm trí
và cảm xúc, và những thành tựu tâm linh, những nhân tố này sẽ quy định
kiếp kế tiếp của chúng ta.
Chúng ta có thể nhận ra tính
chất thật của mình, tức chân tâm, trong cõi bardo, hay trong bất cứ giai
đoạn nào của bốn giai đoạn đời sống (đã được
nói
ở phần trước). Nếu có thể duy trì sự chứng ngộ này (chân tâm thường trụ)
thì như vậy chúng ta sẽ đạt đến giác ngộ trọn vẹn và thoát luân hồi. Tuy
nhiên, người ta phải mất nhiều năm thành tâm tu tập thì mới đạt đến giác
ngộ, và không thể đạt được chỉ bằng cách tham dự những khóa tu
Thiền
cuối tuần hay hành Thiền
vài phút mỗi ngày trong vài năm. Các vị
Thầy
thành tựu có thể đạt giác ngộ và tự chọn con đường tái sinh cho mình
thay vì tùy thuộc vào nghiệp quá khứ. Chuỗi nghiệp báo thường lệ của các
vị này sẽ ngừng lại hay được thăng hóa. Đối với họ thì vạn vật trong cõi
hiện tượng này chỉ là sự phóng chiếu của những phẩm tính tâm trí của
chính mình.
Nếu chúng ta giữ vững ý nguyện
đạt giác ngộ và trụ vững trên đường đạo thì một ngày nào đó chúng ta sẽ
đạt được mục tiêu này. Nhưng trong hiện tại, con đường của các vị
Thầy
giác ngộ trọn vẹn không dành cho những người bình thường chúng ta. Tùy
theo nghiệp quá khứ, người bình thường sẽ phải tái sinh ở một trong sáu
cõi luân hồi (sẽ được nói đến ở chương
6).
Những người đã tu tập và đã
tích lũy nhiều công đức sẽ được tái sinh trong những cõi phúc lạc. Nếu
có những đức tính hiền hòa, tử tế, giúp đỡ và hiểu biết, và nếu thực
hành những đức tính này trong lời nói và việc làm, chúng ta sẽ tái sinh
trong những cõi có đời sống an vui và ích lợi. Nếu trong kiếp sống này
chúng ta tu tập quán tưởng, suy ngẫm, cảm nhận và tin vào sự hiện hữu
của một cõi tịnh
độ thì chúng ta sẽ tái sinh vào cõi tịnh ấy, vì thói quen tâm trí mà
mình đã gây dựng. Một cõi tịnh như vậy không phải là cõi tịnh vô thượng
của trạng thái giác ngộ, mà là một cõi
cực
lạc
hiển lộ. Chúng ta sẽ không chỉ được hưởng một cõi
cực
lạc
mà chúng ta sẽ còn tỏa ra sự gia trì phúc lạc vô tận của cõi
tịnh
cho tất cả những người nào sẵn sàng đón nhận. Chúng ta sẽ vẫn còn chịu
sự tác động của luật nhân quả, nhưng đó sẽ là những quả báo phúc lạc.
Nhiều người có thể thực hành lối sống lợi ích cho tương lai như vậy, và
chúng ta phải xem đây là điều ưu tiên để làm của mình.
Còn về những người bình thường
mà đời sống có đầy những cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si, ganh tỵ và
kiêu mạn thì sao? nếu tâm trí có thói quen tham, sân, si, chúng ta sẽ
phải đối diện với một kiếp sống rất đau khổ. Khi trải qua bốn giai đoạn
(đời sống thế gian, hấp hối, chứng nghiệm ánh tịnh quang và cõi trung ấm
bardo) tâm trí xấu của chúng ta sẽ giống như đeo kính đen, làm cho u ám
tất cả những gì chúng ta trông thấy. Thay vì khung cảnh quen thuộc mà
chúng ta đã biết khi còn sống, tất cả những gì xung quanh chúng ta sẽ là
những hình ảnh, những âm thanh và những sự việc đáng sợ hoặc gây đau khổ.
Đó là những hiện tượng trong tâm thức của chúng ta như hậu quả của những
trạng thái tâm bất thiện, phiền não mà chúng ta đã dung dưỡng trong đời
sống của mình ở thế gian.
Nhiều người trong chúng ta, dù
nhìn nhận hay không, đang duy trì những trạng thái tâm bất thiện đó
trong đời sống. Thường thì đây là một tiến trình vô thức. Dù bên ngoài
có thể chúng ta không nghĩ là một người ‘’xấu’’ như vậy, nhưng có thể
chúng ta đang chìm đắm trong những cảm xúc độc hại, những tham muốn và
ích kỷ mà nền văn hóa hiện đại khuyến khích. Chúng ta phải tự xét và
giải trừ những cảm xúc bất thiện này của mình và thay đổi lối sống hằng
ngày của mình ngay từ bây giờ, trong khi vẫn còn may mắn có thân người
quý báu để tu tập và có một mức độ tự do chọn lựa cách sống tốt. Lúc
chết chúng ta sẽ không thể tự ý thay đổi, vì nghiệp lực sẽ chi phối
chúng ta, sẽ đưa chúng ta đến kiếp tái sinh, và có thể là ở một cõi phi
nhân, nơi người ta không có cơ hội để tu tập nữa. Chúng ta sẽ trôi lăn
trong luân hồi sinh tử và tái sinh bất tận, tràn ngập đau khổ hoặc quá
vui sướng mà xao lãng việc tu hành.
CHUYỂN HÓA
TƯƠNG LAI CỦA MÌNH
Cần phải nhớ rằng những cõi
tịnh cũng như những cõi thấp mà chúng ta có thể trải qua sau khi chết
hay khi tái sinh đều không phải là những cõi ở bên ngoài chúng ta và ở
một nơi nào khác. Những kinh nghiệm vui sướng hay đau khổ trong những
cõi khác nhau sau khi chết chỉ là những hình ảnh phản chiếu nghiệp báo
của chúng ta. Những kinh nghiệm này giống như một giấc mộng được dựng
lên bởi chính những tư tưởng mà chúng ta đã quen có trong đời sống.
Chúng ta hãy nhớ
đến điều này bất cứ khi nào nghe nói tới hay đọc về nghiệp báo. Tâm trí
sản sinh những kinh nghiệm sướng hay khổ của mình sau khi chết như hệ
quả của những thiên hướng vốn đã được huân tập và củng cố qua những kiếp
trước. Được sản sinh bởi tâm trí, những kinh nghiệm này cũng diễn ra
trong tâm trí chứ không phải ở một cõi giới nào khác.
Một điều cũng cần phải biết là
chừng nào còn sống, chúng ta có thể thay đổi và phát triển tương lai của
mình. Tất nhiên chúng ta sẽ luôn luôn chịu những giới hạn được áp đặt
bởi những lực bên ngoài, và chúng ta sẽ được thúc đẩy bởi những khuynh
hướng tâm trí vốn đã được kết tụ trong quá khứ. Đây chính là lý do tốt
nhất để phát triển những phẩm tính của đời sống, cái chết, và sau khi
chết là thực hành sửa đổi những thói quen tư tưởng và cảm xúc của mình
từ xấu thành tốt.
Có ba điều cho chúng ta lựa
chọn trong khi vẫn còn thời gian:
-
Chúng ta có thể tiếp tục
chịu đau khổ trong cuộc đời này như thường lệ, không nắm lấy cơ hội để
tu sửa gì cả. Nghiệp báo của vô minh, phiền não và hoàn cảnh bên ngoài
sẽ quyết định nơi tái sinh tương lai của chúng ta. Như vậy hạnh phúc
đích thực sẽ không có dịp xuất hiện.
-
Chúng ta có thể cố gắng
đạt đến tình trạng hạnh phúc nhất và lành mạnh nhất mà kiếp luân hồi
bình thường có thể cung cấp. Nếu chúng ta duy trì một đời sống hiền hòa,
vui vẻ, ích lợi và từ ái thì chắc chắn kết quả sẽ là một tương lai hạnh
phúc và lành mạnh, ít nhất là trong một thế gian.
-
Chúng ta có thể vượt lên
trên kiếp luân hồi phù du, đạt đến trạng thái phúc lạc vô thượng và lâu
bền, được gọi là Niết
Bàn.
Sự thành tựu này chỉ có thể đạt được đạt bằng việc chứng ngộ chân lý qua
thiền
quán và chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp vì lợi ích của người khác.
Nếu tâm ta quay về đúng hướng
thì mỗi bước đi sẽ đưa chúng ta tới gần hơn mục tiêu mà mình muốn đạt
được.
Những pháp môn tu tập được mô
tả trong cuốn sách này chính yếu là dựa trên bản Kinh A Di Đà và Cõi Cực
Lạc của Ngài. Nhưng nghi thức của các vị Phật và cõi tịnh độ khác cũng
có thể được dùng, và cả những lời cầu nguyện của các hệ thống tín ngưỡng
khác ngoài Phật Giáo với tính chất tương tự cũng sẽ có hiệu lực. Điều
quan trọng là sửa soạn trước bằng cách
thiền
quán đều đặn theo một nghi thức kết hợp với một nguồn gia hộ.
Ở đây “nguồn gia hộ” muốn nói
đến một đối tượng của việc tụng niệm hay cầu nguyện, sự tôn thờ, sự
nương tựa, vốn là nguồn gia trì và bảo hộ. Nguồn gia hộ có thể là một
nguồn cao cấp, nội tại, chân chánh, như một vị Phật, Bồ tát, thánh nhân,
hiền triết hay đạo sư. Bất cứ một đối tượng của tâm trí nào cũng có thể
là một nguồn gia hộ có oai lực nếu đối tượng đó có những phẩm tính tốt
và được tâm trí cảm nhận là tốt. Người hấp hối và người chết cũng như
các vị hộ niệm phải dựa vào những nguồn gia hộ như sự giúp đỡ cho việc
tụng niệm, cầu nguyện, thiền quán và những nghi thức của họ. Nguồn gia
hộ tối hậu chính là bản thân chúng ta, vì tất cả chúng ta đều có Phật
tánh, chân tánh giác ngộ. Tuy nhiên, cho đến khi nào chứng ngộ được tiềm
năng của mình, chúng ta phải nương tựa vào một nguồn gia hộ bên ngoài để
thức động chân tánh và những phẩm tính của mình.
Trong Phật Giáo Tây Tạng, việc
tụng niệm một nguồn gia hộ, thí dụ như niệm danh hiệu Phật A Di Đà, là
một trong những pháp môn phổ thông để đạt tới và nhận được sự gia hộ của
một vị Phật. Phật A Di Đà đã phát nguyện sẽ cứu độ những người nào thành
tâm niệm danh hiệu của Ngài, giống như một bà
Mẹ
chạy đến với đứa con của mình ngay khi nó kêu “Mẹ ơi”!.
Có lần một người bạn của tôi
thỉnh cầu đạo sư Yukhog Chatralwa hướng dẫn mình về pháp tu Dzogchen (pháp
Đại hoàn
thiện của phái Nyingma). Không nói một chữ nào về pháp tu Dzogchen, đạo
sư Chatralwa trả lời: “ trước hết hãy niệm danh hiệu Phật A Di Đà một
trăm lẻ tám biến mỗi ngày với tín tâm kiên cố. Rồi cố gắng tăng lên hai
trăm, ba trăm biến và nhiều hơn. Nếu có thể càng ngày càng nhiều thì sẽ
đến lúc trong bất cứ việc gì mình đang làm việc, mình cũng an trụ trong
danh hiệu của Đức Phật ở trong hơi thở và với cảm giác về sự hiện hữu
của Ngài
trong tâm trí. Như vậy, khi chết mình sẽ chết với danh hiệu của Đức Phật
và cảm giác về sự hiện hữu của Ngài. Ngay lúc chết, do công đức của mình,
do sự gia hộ của Phật A Di Đà và tín tâm của mình, tất cả những nhận
thức của mình sẽ xuất hiện như Cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Tương lai
của mình sẽ là an lạc. Mình sẽ là nguồn lợi ích cho người khác. Như vậy
không phải là vi diệu hay sao ?”
Lúc đó tôi đã không nhận thấy
như vậy, nhưng mấy năm sau tôi mới bắt đầu hiểu những lời đạo sư
Chatralwa là sâu xa và đầy ý nghĩa như thế nào ?
Nếu tu tập
Thiền
quán xem vạn vật đều là Phật và cõi
Tịnh
Độ, thì dù chúng ta có gặp những hình ảnh, âm thanh, hay cảm giác xấu
trong trung ấm bardo, chúng cũng không thể làm hại được chúng ta, và mọi
vật sẽ trở nên tốt đẹp. Giống như trong một giấc mộng, nếu có thể nhận
ra đây là một giấc mộng và là ảo ảnh thì chúng ta có thể tức khắc hóa
giải oai lực của nó, làm cho những sắc tướng xấu biến đi như sương mù
tan trong ánh sáng mặt trời. Cũng như vậy, nếu chúng ta có thể nhận ra
những gì đáng sợ xuất hiện trong cõi bardo chỉ là ảo ảnh hay là cõi
Tịnh
Độ thì chúng sẽ mất hiệu lực hay sẽ trở thành tốt đẹp. Những vị
Thần
chết đáng sợ sẽ trở thành các vị
Thần
trí tuệ và từ bi, như chúng ta sẽ thấy ở phần sau.
Nhưng chúng ta hãy bắt đầu tu
tập ngay từ bây giờ, trước khi cái chết tới gần. Nếu tu tập mỗi ngày,
hay nhiều lần trong mỗi ngày, chúng ta sẽ không rơi vào trạng thái hoang
mang trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời.
NHỮNG NGHI
THỨC CHO NGƯỜI HẤP HỐI VÀ NGƯỜI CHẾT
Chúng ta đã thấy mình có thể
làm được một cái gì đó để tự giúp mình xử lý sự việc trong lúc qua đời.
Nhưng còn cái chết của những người khác thì sao ? gồm cả những người đã
không có cơ hội để tu tập trước khi qua đời ? chúng ta những người còn
sống, có thể giúp đỡ họ được không ?
Mỗi tôn giáo đều có những lễ
nghi hay những kinh sách dành cho việc giúp đỡ người hấp hối và người
chết, và cũng là một sự an ủi đối với những người sống. Thí dụ, với Đạo
Do Thái, người hấp hối sẽ đọc bài kinh xưng tội và ăn năn, nếu không thể
làm như vậy, những người khác sẽ giúp người hấp hối làm việc này. Sau
khi một người qua đời, những người sống đọc nhiều lần bài kinh Kaddish,
tôn vinh đức Chúa Trời. Với Hồi Giáo, người ta tụ tập lại để cùng nhau
đọc kinh xin Thượng Đế tha tội cho người chết. Với Thiên Chúa Giáo, các
tu sĩ làm lễ xức dầu cho người hấp hối và có những bài kinh cầu nguyện
cho linh hồn người chết và nghi lễ an táng. Phật Giáo Tây Tạng cũng có
truyền thống lễ nghi phong phú liên quan đến sự chết.
Trong cuộc đời có nhiều biến
động của tôi, tôi có nhiều kinh nghiệm bản thân về việc tổ chức lễ nghi
hậu sự cho các vị Thầy,
các bạn thân cũng như những người xa lạ. Có những người được kính trọng
hoặc có quyền lực, và được nhiều người than khóc khi họ qua đời. Những
người khác thì có đời sống nghèo nàn, không được ai quan tâm hay biết
đến.
Khi được năm tuổi, tôi đã bắt
đầu sống ở Tu Viện Dodrupchen nổi tiếng ở miền Đông Tây Tạng. Cùng với
các tu sĩ và tu sinh khác, tôi đã quyết định dành trọn cuộc đời của mình
cho việc học giáo lý, cầu nguyện và hành
Thiền.
Sau khi học xong những pháp tu căn bản, chúng tôi nghiên cứu và
Thiền
quán về những giáo lý cao cấp và bắt đầu phục vụ cộng đồng. Chúng tôi
được dạy phương pháp hộ niệm người chết và giúp thân nhân của người quá
cố bằng cách tụng niệm, nghi thức, giáo lý và
Thiền
quán, theo những điều mà Phật Giáo Tây Tạng đã đề ra một cách tỉ mỉ.
Hộ niệm cho người chết bằng
những nghi thức này có thể là việc làm đáng buồn nhất, nhưng cũng thanh
tịnh và thành thực nhất trong cuộc sống của chúng tôi. Chúng tôi không
có ý định gì khác hơn việc cố gắng hết sức để hộ niệm cho người chết
trong hành trình đi vào cõi
u
minh của họ. Ở bên người chết hay người hấp hối, chúng tôi tụng niệm với
tất cả tâm thành của mình. Tính chất vô thường của đời người hiển lộ rõ
rệt trước mắt chúng tôi. Đối với người chết, danh vọng, sự nghiệp và tài
sản đều không còn nữa. Ngay cả thân xác đáng quý trọng nhất của họ bây
giờ cũng nằm bất động, lạnh ngắt, không có hơi thở_ một cái xác chết.
Hỗ trợ người hấp hối và người
chết là một trong những việc phục vụ cộng đồng quan trọng nhất của chúng
tôi. Tôi thường phụ giúp các vị lạt ma cao cấp trong việc hộ niệm, nhưng
cũng có những khi tôi hướng dẫn một ban hộ niệm. Có đôi lần tôi hướng
dẫn nghi thức hộ niệm kéo dài mấy tuần. Đa số trường hợp chúng tôi làm
nghi thức này trong một hay hai tiếng đồng hồ.
Khi làm nghi thức hộ niệm,
chúng tôi ngồi thẳng lưng bên người hấp hối hay gần xác của người chết.
Tất cả các nghi thức đều theo cùng một khuôn mẫu căn bản như sau: chúng
tôi bắt đầu bằng việc thành tâm kêu cầu nguồn gia hộ, thí dụ như Phật A
Di Đà. Sau đó chúng tôi hướng tâm về người hấp hối hay người chết với
tâm từ bi mạnh mẽ phát xuất từ tận đáy lòng của mình và làm nghi thức
chính yếu: tụng niệm, Thiền
quán và nhận sự gia hộ của chư Phật dành cho chúng tôi cũng như cho
người chết. Sau cùng chúng tôi thấy, cảm giác và quán niệm vạn vật như
một sự an lạc lớn. Nghi thức kết thúc với việc hồi hướng công đức của
chúng tôi cho người chết và cho chúng sanh vốn đã là
Cha Mẹ
của mình trong vô số kiếp trước, và việc cầu nguyện cho người chết siêu
sanh về miền Cực Lạc hoặc tái sinh làm người có đời sống phúc lạc.
Tôi không dám nói là mình có
quyền năng thay đổi vận mạng của người khác hay mình có thần thông trông
thấy người hấp hối hay người chết đi về đâu, nhưng vì tin vào giáo lý
Phật Giáo nên sau khi làm những nghi thức này với sự thành tâm và lòng
từ bi, tôi thường cảm thấy một niềm an vui lớn. Tôi cũng cảm thấy biết
ơn là mình đã may mắn có cơ hội hỗ trợ người khác trong lúc cần được
giúp đỡ nhất của họ, và mình đã cố gắng hết sức trong việc này. Cùng lúc
đó tôi cũng đã luôn luôn cẩn thận không thúc đẩy mình quá giới hạn tâm
trí, thể xác và tinh thần của mình.
Nhiều tang lễ là cơ hội hoan hỷ
khi những người tham dự lễ kể lại những điều tốt lành mà người quá cố đã
mang lại cho chính mình cũng như cho người khác trong đời sống trước đây.
Nhưng cũng có nhiều tang lễ có bầu không khí đau buồn khi sự ngăn cách
giữa người chết và người sống đến mức không ai có thể tiếp cận người quá
cố, dù chúng ta có thể chạm vào thể xác của họ. Thần thức của họ đã đi
vào cõi u minh, bí ẩn và cô quạnh. Ngồi bên giường người chết, đối diện
với sự phù du của đời người, chúng ta thấy không có nơi an toàn nào để
trốn tránh. Đây luôn luôn là cơ hội làm cho chúng ta thức tỉnh.
CÁI CHẾT
CỦA VỊ ĐẠI SƯ
Lần đối diện với sự chết đầu
tiên của tôi là một nguồn hoan hỷ đáng mừng đối với tôi. Có một
Lạt
Ma
nổi tiếng tên là Sonam Tragpa,
Ngài
thuộc bộ tộc Wangrol của
Mẹ tôi ở tỉnh Golok,
miền Đông Tây Tạng. Người trong bộ tộc này gọi
Ngài
là Pushul Lama. Ngài sống ở một tu viện, cách tu việc của chúng tôi hai
ngày đi ngựa. Ngài được xem là vị đại sư và cũng là đại học giả, tác giả
của nhiều tập sách, một bậc
Thầy
về pháp tu Mật
giáo cùng pháp tu Dzogchen, nhưng pháp tu chính của
Ngài
là pháp tu Tịnh Độ.
Lạt Ma Pushul viên tịch vào
khoảng sáu mươi tuổi, lúc tôi còn là một thiếu niên. Khi biết tin này,
Thầy
của tôi, Kyala Khenpo, cùng với tôi và vài người khác phi ngựa đến chỗ
của Ngài.
Chúng tôi tới tu viện của
Ngài
vào lúc chiều tối hôm đó và được các đệ tử tu sĩ cũng như tín đồ của
Ngài
đón tiếp.
Tôi có một mối liên hệ đặc biệt
với Lạt ma Pushul. Sau khi tôi sinh ra,
Ngài
là một trong những vị Thầy
đã nhận ra tôi là hóa thân hay “tulku” của vị
Thầy
chính yếu của Ngài.
Ngài cũng là Lạt
ma
quan trọng nhất trong bộ tộc của
Mẹ
tôi. Như vậy tôi có bổn phận đặc biệt phải lo tang lễ cho
Ngài.
Đại Sư Kyala Khenpo bảo tôi đi
một mình vào phòng của vị
Lạt
ma quá cố. Thân xác của
Ngài
nằm trên giường theo thế sư tử nằm ngủ, vốn là một thế
thiền
định. Lúc đó tôi còn non trẻ nên không nghĩ nhiều về điều này, nhưng tôi
cảm thấy bầu không khí toàn khu vực cũng như căn phòng thật an lạc. Tôi
sờ vào ngực Ngài cảm thấy hơi ấm, dù
Ngài
đã ngừng thở hơn bốn mươi tám tiếng đồng hồ rồi. Đây là dấu hiệu cho
thấy thần thức của Ngài
vẫn còn
nhập vào Thiền
định ở trong thể xác. Khi Sư Khenpo biết điều này,
Ngài
nói : “không ai được vào phòng của Lạt ma Pushul hay gây tiếng động
xung quanh cho tới khi nào
Ngài
xả Thiền”.
Mọi người tụng niệm và làm lễ ở trong những cái lều ở xa tu viện của vị
Lạt Ma quá cố. Theo thông lệ thì sự kiện một vị
Lạt
ma cao cấp viên tịch phải được giữ bí mật trong mấy ngày, nhưng trong
trường hợp này việc giữ bí mật là bất khả. Tin buồn đã lan ra khắp nơi
như lửa cháy rừng.
Sáng hôm sau tôi không thấy
vùng ngực của Đại sư Pushul còn hơi ấm nữa, vì vậy bốn tu sĩ được gọi
vào để tắm rửa nhục thân của
Ngài
với nước nghệ, rồi lau khô bằng vải trắng mới. Sửa soạn xong mọi thứ để
giữ nhục thân của Ngài
trong nhiều ngày. Rồi họ thỉnh nhục thân
Ngài
ngồi lên theo thế kiết già hoa sen trên một cái ngai nhỏ, đắp y áo và
đội mão như trong những đại lễ. Hai cánh tay của
Ngài
bắt chéo trước ngực, cầm một chùy kim cương và một chuông linh, đèn,
thực phẩm và các món đồ cúng khác được thiết bày trên hai cái bàn thấp ở
phía trước Ngài.
Tôi biết chắc là Ngài
muốn tang lễ của mình thật đơn giản, nhưng thực tế lễ tang của
Ngài
đã được tổ chức rất long trọng vì cộng đồng muốn như vậy.
Tu Viện chỉ có khoảng ba mươi
tu sĩ, nhưng những giòng người thuộc mọi thành phần trong xã hội từ khắp
nơi đổ về đây suốt ngày đêm, cả từ những trại du mục ở xa, họ than khóc
và cầu nguyện.
Chúng tôi tìm thấy một tờ giấy
nhỏ có chữ viết của Đại su Pushul như sau: “ ngay sau khi viên tịch,
tôi sẽ vãng sinh Tịnh Độ. Tôi đã trì tụng bộ kinh Đại Bát Nhã (15 cuốn)
một trăm lẻ tám lần và
thiền
quán về ý nghĩa thâm diệu của bản kinh ấy trong kiếp này. Vì vậy, danh
hiệu của tôi sẽ là Bồ Tát Sherab Nyingpo (Tâm Trí Tuệ/Wisdom Heart). Ai
thành tâm cầu nguyện với tôi, sẽ được tôi gia hộ tránh mọi tai ương
trong đời này. Tôi sẽ tiếp dẫn về cõi Cực Lạc sau khi họ mãn phần”.
Ngài kết thúc những lời nhắn
này bằng năm câu sau đây để các đệ tử cầu nguyện với
Ngài:
“ Trong cõi Tịnh Độ
Ngài
là Sheral Nyingpo.
Trong xứ tuyết (Tây Tạng)
Ngài
là Sonam Tragpa. Trong tương lai
Ngài
sẽ được
gọi là Phật Vô Lượng Thọ. Vị Thầy bổn sư của chúng con, chúng con cầu
nguyện với Ngài,
xin Ngài
gia hộ cho chúng con vãng sinh về Tịnh Độ”.
Bức chúc thư này thật đáng
ngạc nhiên, vì mọi người đều thấy Đại sư Pushul là người cực kỳ khiêm
tốn và thực thà. Ngài không bao giờ nói những điều gì mà chính
Ngài
không thực tâm mong muốn. Chúng tôi ngạc nhiên không phải vì những điều
Ngài
viết, vì tất cả chúng tôi đều đánh giá
Ngài
cao nhất, mà chúng tôi ngạc nhiên vì
Ngài
đã viết những lời này.
Vào lúc rạng đông ngày thứ tám,
nhục thân của Ngài
được hỏa táng trong một cái tháp vừa mới xây xong. Các đệ tử xuất gia
bận rộn để chuẩn bị mọi thứ cho lễ hỏa táng. Các tín đồ khắp nơi đổ về
đầy khắp sườn đồi, cố gắng nhiễu quanh khu hỏa táng để tỏ lòng tôn kính,
tụng niệm để hồi hướng công đức cho đại sư được cao đăng Phật quốc. Cả
vùng biến thành một đại lễ thành kính, tiếng kinh cầu và tiếng âm nhạc
vang vọng khắp không gian. Chưa bao giờ tôi cảm thấy nhiều sự u buồn và
nhiều lời tụng niệm thành tâm như vậy của nhiều tấm lòng trong một đại
tang lễ như thế.
Sự kiện này biểu thị một sự
thành tựu vĩ đại. Khi còn là một thiếu niên, đại sư Pushul đã từng bị
rối loạn tinh thần đến mức gia đình
Ngài
phải trói Ngài
lại để Ngài
không làm tổn hại chính mình cũng như người khác. Nhưng do cầu nguyện và
thiền
quán, Ngài
đã chuyển hóa bản thân và đạt đến niềm tin vững chắc là mình sẽ thác
sinh vào cõi Tịnh Độ và sẽ hướng dẫn mọi tín đồ cùng vãng sanh. Cho đến
hôm nay, tôi vẫn chưa gặp được người nào học rộng, vui vẻ và tử tế hơn
Ngài.
Nếu noi theo gương của Ngài,
chúng ta cũng có thể chuyển hóa, đạt đến niềm tin vững chắc trong đời
sống cũng như lúc qua đời.
Nhà phân tâm học quá cố, tiến
sĩ Elisabeth Kubler Ross, người đã làm
cuộc cách mạng về thái độ đối với sự chết và sự hỗ trợ người hấp hối ở
Hoa Kỳ, cũng có quan điểm tương tự khi bà nói “sự thật duy nhất không
thể chối cãi trong công trình của tôi là sự quan trọng của đời sống. Tôi
luôn luôn nói rằng sự chết có thể là một trong những kinh nghiệm lớn
nhất của đời người. Nếu sống mỗi ngày trong đời của mình một cách đúng
đắn, người ta sẽ không có gì để sợ hãi cả".