Chương 09
NGHI THỨC CHO NGƯỜI HẤP HỐI VÀ NGƯỜI CHẾT
Con đường tới phát
nguyện hồi hướng và an định
Do những bậc chứng ngộ
với tâm đại trí huệ soi sáng
Qua đại dương vô lượng
chư vị Tổ sư và hành giả
Mãi là con đường an toàn
đến Tịnh Độ Lạc Quốc.
Phục vụ nghi lễ cho người
sắp mất và người quá vãng là những nhu cầu thông thường của các tôn giáo
trên thế giới. Chúng thường thường phục vụ cho cả hai mục đích. Đó là
cho sự buồn tủi của người còn ở lại, chúng dụng ý là giúp đỡ trong sự
tiến hành của việc nhập lễ tiễn biệt với người thân yêu của họ, trong
khi đối với người quá cố, họ hy hiến bảo trợ và giúp đỡ trên tiến trình
sau khi quá vãng, xuyên qua sự cầu nguyện và hình thức của nghi lễ.
Sự phục vụ của Phật Giáo và
những lễ nhạc mà tôi mô tả trong chương này cũng sẽ là sự lợi ích cho cả
hai, người quá vãng và người còn lại. Những điểm chính yếu hướng tới kia
chẳng phải là điều cần thiết để giúp cho người quá cố đạt được sự giác
ngộ hoặc là vượt khỏi thế giới Ta Bà này. Thay vào đó, chúng là những sự
cố ý có tính cách căn bản để giảm thiểu hoặc để dẹp bỏ khái niệm xấu tệ
cũng như sự cảm kích kia. Những điều ấy là những nguyên nhân đơn độc của
sự khổ đau, sợ hãi và tái sanh vào cảnh giới thấp hơn. Nghi lễ của Phật
Giáo cho người quá vãng (lễ cầu siêu) cũng để giúp cho những hành vi về
sự tích chứa công đức được thành tựu cho người đã quá vãng, xuyên qua
năng lực của những khái niệm tốt đẹp và những sự cảm kích, những điều
này là nguồn năng lượng trực tiếp về sự an lạc, hoan hỷ và tái sanh ở
cảnh giới hạnh phúc (ví dụ như cảnh giới người và cảnh giới Chư thiên)
hoặc là cõi Tịnh độ sáng sủa.
Truyền thống về nghi lễ
cho người chết
Lễ cầu siêu của Phật Giáo
Tây Tạng được thực hiện bởi những vị Lạt Ma và những tín đồ tùy theo
từng trường phái của Phật Giáo và theo từng vùng tại Tây Tạng. Lễ cầu
siêu được trình bày trong chương này là căn bản của truyền thống Nyingma
(Cổ mật) thực hiện ở tỉnh Golok thuộc miền Đông Tây Tạng, nơi mà tôi
(tác giả Tulku Thondup) đã được sinh ra và được huấn luyện tại đó.
Lễ cầu siêu thường được
thực hiện bởi những vị Lạt Ma, những vị Tăng sĩ cao tuổi hay những vị
Thầy được mật truyền về Tôn Giáo tương đương với một Giám mục hoặc những
giáo sĩ ở truyền thống văn hóa Tây phương. Nếu vị Lạt Ma ấy được huấn
luyện tốt thì sự thực hiện nghi lễ cho người mất sẽ có nhiều hiệu quả.
Người mà với danh nghĩa là Lạt Ma hay với danh xưng gì đó không mang đến
nhiều năng lực hơn là bất cứ một người nào. Thay vào đó bất cứ người nào
cũng có thể thực hành nghi lễ được đề cập trong quyển sách này là những
vị có những sự thực tập trong sự thiền tập và cầu nguyện.
Trong một vài nơi và trong
một vài truyền thống của Tây Tạng lễ cầu siêu làm rất yên lặng, đơn
giản. Những Lạt Ma hay những tín đồ trợ tử đọc kinh cầu nguyện, cúng
dường dâng tiền của, thực phẩm, đồ trang sức hay thú vật cho Tu Viện,
chùa Ni hay cúng dường trực tiếp cho Tăng Ni hoặc những người nghèo khó.
Tử thi thì được thiêu hay đem làm thức ăn cho kênh kênh như là sự cúng
dường cho đức Phật và những vị Thần linh (tuy vậy Phật và Thần linh
chẳng ăn). Sự thực tập này là một sự thiền định và thực hiện lễ nghi để
huấn luyện tâm thức của chúng ta, để có một sự nhận thức tốt đẹp, xem
tất cả như sự trong sạch và gieo trồng sự khoan dung, quy ngưỡng cũng
như để buông xả. Một trong những lễ nghi Tôn Giáo quan trọng là hạn định
nhiều sự lặp lại của sự hăng say cầu nguyện như: “hăng say cầu nguyện
cho vua chúa, hăng say cầu nguyện cho những hành vi tốt đẹp’’ cùng với
việc cúng dường phong phú về đèn, hương, hoa quả.
Ở một vài địa phương khác
của Tây Tạng, lễ cầu siêu được phong phú nhiều hơn. Những vị Lạt Ma được
mời đến nhà của người quá vãng để chủ trì những nghi lễ cầu nguyện cả
tuần lễ trước khi qua đời và sau đó cả bảy tuần lễ hoặc vẫn còn tiếp
theo sau khi mất nữa.
Thời gian kéo dài và sự
tưởng niệm của những lễ nghi ấy được quyết định bởi tài sản cuả gia đình
người quá cố. Để bảo trợ cho lễ cầu siêu, nhiều gia đình đã xử dụng
nhiều việc qua sự phân chia tài sản của gia đình về vật sở hữu của người
quá vãng.
Nghi thức
Tôn Giáo cho người sắp lâm chung
Điều có tính cách quyết
định là chúng ta đang thực hành giáo pháp trong khi vẫn còn sống, bởi vì
điều này sẽ là nơi chốn của chúng ta trong con đường tinh thần của chúng
ta và gieo trồng sự tự tin vào đó. Rồi thì chúng ta sẽ sẵn sàng ứng dụng
vào những kinh nghiệm mặc nhiên của chúng ta cho sự ra đi của mình khi
mà ngày ấy sẽ đến. Vị Rinpoche Dodrupchen thứ 3 đã viết.
‘’Khi mà thời điểm của
cái chết hiện ra, lúc đó có thể rất khó tập trung cho một vài sự hiểu
biết để khởi đầu cho việc thiền định. Như vậy bạn phải chọn một sự thiền
định trong sự thăng tiến và kết chặt tâm bạn với điều ấy, càng nhiều
càng tốt như bạn có thể. Thiền định có thể hồi tưởng lại một vị Phật,
cảm nhận một lòng từ bi, năng lượng của việc quy y hoặc là thể đắc về
tánh Không.
Như thế cứ lặp đi lặp
lại nhiều lần rằng: “ở vào thời điểm tắt hơi, tôi sẽ chẳng để cho chính
tôi bị cuốn hút vào một vài tư tưởng xấu ác”. Thành tựu sự trong sáng
mặc nhiên và sự an lạc trong tâm thức của bạn, điều quan trọng là hãy
hành Thiền nhiều lần, tốt nhất là trước khi cái chết đến với bạn. Rồi
thì khi mà thời gian lâm chung đến, bạn có thể chết với sự hiểu biết
đúng đắn. Một vài hành vi đức hạnh mà bạn đã thực hiện như thế nào đó
thuộc về hoặc là vật lý trong thiên nhiên – trong khi bạn còn sống và
đặc biệt là trong khi bạn còn nằm trên giường ở trạng thái lâm sàng - sẽ
là một sự lợi ích lớn lao đối với cuộc đời tương lai của bạn. Những nghi
thức nhiều cho sự tẩy tịnh, làm phước, quyền năng và sự hồi hướng là
những việc quan trọng để thực hiện trước khi chết, thế nhưng ngay cả sau
khi chết cũng tốt.
Tẩy tịnh
Để đạt được cuộc sống của
bạn trong hiện tại, hay trên hành trình tương lai sau khi quá vãng và sự
tái sanh của bạn được tự do từ những sự khó khăn cũng như sự chướng
ngại. Điều ấy thật là quan trọng để tẩy rửa kết quả những nghiệp lực bất
thiện của bạn trong quá khứ. Tất cả những điều khuyết điểm trong đời
sống của bạn và ngay cả cuộc sống trong tương lai sẽ là nguyên nhân để
sản sinh ra những nghiệp lực bất thiện ấy. Chỉ có cách duy nhất là tẩy
tịnh những nghiệp lực khổ não này. Chúng là những nguyên nhân có thể làm
cho cuộc đời của bạn thăng tiến hơn. Đây chính là việc có thể so sánh
được để sửa đổi lại sức khoẻ có tính cách vật lý của bạn bởi việc Tẩy
tịnh cho những hệ thống độc tố ấy. Xuyên qua sự tẩy tịnh, bạn sẽ vô
hiệu được những hành vi sai trái và những kết quả kia.
Một vài phương cách của
những việc làm thiện hoặc là những sự thực tập có thể đưa đến kết quả
với ý nghĩa của sự tẩy tịnh. Thực hiện việc tẩy tịnh ấy bao gồm cả thiền
định với đức Phật và cầu nguyện cho sự lợi ích của tất cả chúng sanh.
Những điều ấy có thể đòi hỏi nói ra trong khi cầu nguyện và thực tập một
vài việc hành thiền cho việc Tẩy tịnh từ nơi sâu thẳm trong đáy lòng
của bạn. Một vài phần trong nghi lễ cầu siêu cũng là sự tô bồi thêm để
thành tựu cho sự Tẩy tịnh ấy.
Giữa những sự thực tập đặc
biệt của Phật Giáo là để trang bị đặc thù cho việc Tẩy tịnh . Đó là:
‘cáo bạch trước 35 vị Phật của việc sám hối’. Và sự cầu nguyện cũng như
thiền định với đức Phật vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa). Việc thực tập
sau cùng là hòa quyện vào bốn ‘năng lực’. Năng lực đầu tiên là nguồn
năng lượng của sự sám hối với đức Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa) ở bên
trên bạn, trong bầu trời, bạn tin tưởng vào Ngài như quán tưởng bậc giác
ngộ tự nhiên và những chất lượng của tất cả mọi việc. Thể hiện sự giác
ngộ ấy như là nguồn năng lượng của sự sám hối. Thứ hai là năng lực của
việc ăn năn hối cải. Nếu bạn cảm thấy hối hận nhiều cho những việc làm
sai trái mà bạn đã tạo ra trong quá khứ thì sự sám hối của bạn sẽ được
lắng xuống sâu trong tâm thức của bạn. Điều thứ ba là năng lực của phạm
hạnh. Nghĩa là làm cho những phạm hạnh được mạnh hơn ngăn ngừa không cho
lặp lại những điều sai trái trong tương lai nữa. Điều thứ tư là sức mạnh
tự thể của việc sám hối. Sự cầu nguyện nên hành trì Thần chú như OM
VAJRASATI VA HUNG (hoặc HUM), “Bạch Ngài Vajrasattva (Kim Cương Tát
Đỏa”), sẽ rửa sạch để xa rời tất cả những việc nhơ bẩn của những hành vi
bất thiện thuộc thân thể và tinh thần của bạn, mà nó không còn lại những
vết tích nào phía sau. Cũng như vậy, bạn có thể sám hối cho người quá cố
hay những chúng sanh khác. Hãy luyện tập tâm hồn của bạn bởi nhiều sự
tiến hành cho việc sám hối với những hình ảnh tốt đẹp và thánh thiện,
cảm giác sâu thẳm và sự tin tưởng mãnh liệt sẽ giúp cho việc Tẩy tịnh
để có kết quả về những nghiệp bất thiện của bạn ở nền móng căn bản ấy.
Thế nhưng nhiều sự thực tập
đặc biệt có hữu hiệu trong việc sám hối; một vài hành vi tốt đầy đủ ý
nghĩa của việc sám hối; đặc biệt nếu bạn nghĩ như vậy, hoặc giả hồi
hướng những công đức cho mục đích ấy. Ví dụ như một vài ví dụ khác của
sự thực hiện sám hối là giúp đỡ cứu mạng sống và bảo bọc tình yêu thương
cho kẻ khác từ sự hiểm nguy; hãy cho một vài món quà cho kẻ cần đến, hay
những chương trình Tôn Giáo với tấm lòng độ lượng; hãy bảo trợ những
chương trình có tính cách lợi ích xã hội từ thiện hoặc phục vụ Tôn Giáo
với thái độ trong sáng của tâm thức. Đồng thời xây dựng những căn nhà
bảo hộ hoặc những tấm bia kỷ niệm thuộc về Tôn Giáo với ý chí để làm lợi
ích cho kẻ khác.
Chúng ta cũng có thể giúp
đỡ tẩy sạch những hành vi sai trái và tạo nên phạm hạnh cho những người
khác. Nếu chúng ta nói là cầu nguyện, thực tập Thiền quán hoặc tổ chức
thực hiện những việc riêng biệt cho sự tẩy uế cho những người khác; hoặc
giả hồi hướng những phước đức cho việc Tẩy tịnh về những việc làm sai
quấy của những kẻ khác, thì chúng ta có thể đạt được thành tựu cho việc
này. Nhưng mà sự cố gắng của chúng ta sẽ đưa đến kết quả như thế nào?
Nếu những hành vi ác độc của một người là quá đổi thì sự nỗ lực trong
giới hạn của chúng ta chẳng thể làm xóa nhòa vết tích được. Nếu người ấy
chẳng sẵn sàng hướng đến chúng ta, xuyên qua niềm tin hoặc ngay cả những
thái độ của tâm để được cảm mến. Nếu họ và chúng ta chẳng hề cộng nghiệp
tiếp nối như là con đường thủy lưu để cần sự giúp đỡ nhiều; hoặc giả nếu
sự cầu nguyện của chúng ta yếu kém hay không thanh tịnh, thì sự thực tập
tẩy uế của chúng ta chẳng có một kết quả nào cả. Tuy nhiên chúng vẫn
giúp đỡ được người mất một phần nào nếu những hành vi sai trái của người
ấy “có thể tẩy rửa được’’, nếu họ tin tưởng vào chúng ta hoặc ít nhất
cảm mến chúng ta và những gì chúng ta làm, nếu chúng ta liên hệ nghiệp
lực với họ và nếu những sự thực hành của chúng ta là đủ mạnh thì chúng
ta sẽ chắc chắn có thể tẩy sạch được những hành vi sai trái tội lỗi của
người kia. Nếu một vị Thầy gương mẫu thực hiện bởi sự cầu nguyện đặc
biệt, thiền tập hay những nghi lễ thì dù người mất có phạm hạnh mạnh mẽ
về những hành vi tệ hại thì tất cả sẽ được tẩy trừ và người này sẽ được
giải thoát, bởi năng lực của những vị Thầy và nhờ vào sự Tẩy tịnh của
thiền định. Như vậy ở đây không có một câu trả lời đơn giản và tất cả
lần lượt được quyết định bởi nhiều nhân quả và điều kiện, giống như
trong mọi bộ mặt của cuộc đời. Ngay cả nếu chúng ta hoàn toàn chẳng thể
làm sạch cho một vài người và ngay cả chỉ làm sạch được một ít thôi cũng
sẽ giúp gia tăng lớn lao ở vào tình huống của sự ra đi ấy. Như vậy thì,
nếu một người qua đời là sự linh ứng cho chúng ta thực hiện sự sám hối
cho họ với sự quy y vĩ đại với đức Phật, thì chúng ta sẽ tạo ra một công
đức lớn và điều ấy quay lại sẽ là nguyên nhân của phước đức để làm cho
một người mà họ tạo sự linh ứng cho tất cả. Xin lập lại một lần nữa là:
nếu chúng ta làm việc phước đức, những phước đức này sẽ tăng trưởng với
tính chất tốt đẹp của chúng ta và sự giảm bớt, hay Tẩy tịnh của những
phẩm chất kém của chúng ta.
Tạo công
đức
Để hưởng được an lạc về sự
hòa bình và hạnh phúc của đời sống cũng như sự tái sanh, điều quan
trọng là tích tụ những phước đức và gieo trồng vào đấy những phẩm chất
của thiện nghiệp. Bất cứ hạnh phúc nào và sự hòa bình gì mà bạn đang vui
vẻ đón nhận ngày hôm nay là kết quả trực tiếp từ những sự tích chứa công
đức của những hành vi trong quá khứ. Để cải thiện hơn nữa cho đời sống
tương lai của bạn, bạn phải tiếp tục thực hiện nhiều việc phước đức hơn
nữa bởi sự thực hiện những hành vi đức hạnh. Ngay cả như bạn đạt được
một trạng thái vật lý tốt đẹp của một chúng sanh do nhờ thân thể của bạn
với sự thích đương như ăn uống đầy đủ và sự thực tập. Như vậy bạn phải
để ý đến lãnh vực tinh thần qua sự làm phước.
Bất cứ những thiện nghiệp
nào hoặc việc phụng sự sẽ thể hiện ý nghĩa của việc tạo phước đức. Bạn
sẽ chứa nhóm phước đức bởi qua lời kinh cầu nguyện và sự thực tập thiền
định. Bạn thể hiện việc phước đức ấy qua sự phục vụ cho người nghèo,
thực hành hạnh cúng dường cho những chương trình Tôn Giáo, cứu trợ và sự
tô bồi cho cuộc sống (ví dụ như mua và phóng sanh những thú vật gia
súc), xây dựng cũng như chùi rửa đường sá, xây dựng và tu bổ chùa viện
và lập những bia kỷ niệm, bảo trợ hay thực hiện những buổi lễ cầu nguyện
và thiền định với tình yêu thương, sự kính trọng cũng như sự quy ngưỡng.
Truyền
pháp
Truyền pháp hoặc mật truyền
là những hiệu quả cao như là ý nghĩa của sự Tẩy tịnh về những việc làm
và hành động sai trái, bổ sung mạnh hơn những hành vi đức hạnh, nhớ lại
những kinh nghiệm tinh thần trong quá khứ và những việc đạt thành, nhìn
xem con đường giải thoát hoặc cõi Tịnh độ, giới thiệu đến chư Phật và
cõi Tịnh độ, trao tặng sự gia trì của chư Phật và giác ngộ trí tuệ có
tính cách căn bản; hoặc Phật quả, của sự thọ lãnh. Việc truyền pháp
giống như là: “sự giải thoát khỏi sáu cõi”có thể tổ chức cho những người
nào đang qua đời. Nhiều nghi thức này Tẩy tịnh những nghiệp bất thiện
cho người chết, những chủng loại ấy sẽ Tẩy tịnh nghiệp bất thiện của
người mất. Nếu không sẽ là nguyên nhân khác tái sanh vào những cảnh giới
đau khổ. Chúng sẽ giúp cho việc tích tụ phước đức, là nguyên nhân của sự
tái sanh vào cảnh giới an vui.
Chúng sẽ mang đi xa hơn
những sự gia trì của chư Phật để đánh thức tâm thức giác ngộ hay việc
sanh về cõi Tịnh độ. Dĩ nhiên điều ấy sẽ rất là quan trọng cho người
hướng dẫn hoặc người thực hiện của những lễ cầu siêu và sẽ được thành
tựu trong thiền định hoặc ít nhất là rèn luyện tốt cho những nghi lễ đặc
thù này. Như vậy nếu đây là sự liên hệ những tinh thần tốt đẹp giữa
người thực hiện và người quá cố, thì sự lợi ích sẽ có được nhiều kết
quả. Ít nhất cũng sẽ được điều hòa nối kết lại giữa chúng với nhau.
Nếu nghi lễ tinh xảo cũng
như sự truyền pháp chẳng thể thực hành được, thì một vài sự cầu nguyện
hay thiền định được tổ chức với tình thương yêu của tất cả chúng sanh
cũng như cho người chết; hoặc giả với sự quy ngưỡng về chư Phật, sẽ là
sự hữu ích cao cả. Đặc biệt nếu những phẩm hạnh ấy được hoàn thành bởi
những hành giả hành thiền. Một việc phụng sự thích nghi phải khảo sát kỹ
càng nơi người tụng kinh cầu nguyện, niệm danh hiệu của chư Phật hoặc
chư vị Bồ Tát, lập lại những câu Thần chú hay tổ chức một vài lễ nghi
đơn giản. Hiện nay có rất nhiều bản văn nghi lễ và nghi thức cầu nguyện
bằng tiếng Tây Tạng. Tôi sẽ giới thiệu một nghi lễ rất ngắn về cõi Cực
Lạc, có nơi bản phụ lục A. Ngoài ra việc thực hiện một phowa (chuyển di
thần thức) bởi một vị Thầy hoàn hảo sẽ là một sự lợi ích đặc biệt cho
người thực hành, cả hai kéo dài sự tiến hành cho người chết và sau khi
chết. Một bài tụng về phowa ngắn với sự giải thích có sẳn nơi phụ lục B.
Sự hồi
hướng và lòng thành của người cầu nguyện
Sau khi thực hiện một vài
việc làm có tính cách đức hạnh như cầu nguyện, điều quan trọng là hồi
hướng những phước đức ấy cũng như tạo ra một lòng thành khẩn. Việc hồi
hướng những phước đức được gia tăng với sức mạnh của chỉ số, sự vĩ đại
của phạm vi hồi hướng, sự vĩ đại của sức mạnh. Như vậy việc hồi hướng
những phước đức không hẳn chỉ để hồi hướng cho họ mà còn cho tất cả
chúng sanh, bởi vì đây là nguyên nhân của hạnh phúc và sự giác ngộ của
họ. Rồi những phước đức to lớn ấy sẽ trở ngược lại với họ.
Sau đó sẽ làm việc dâng tấm
lòng thành. Đây là một cách để đến được công đức cho một mục đích riêng
biệt và xa hơn làm cho sáng tỏ điều ấy. Xử dụng sự hồi hướng về công đức
của bạn như là một chủng loại để tạo ra sự nhiệt vọng đối với tất cả
chúng sanh có thể an lạc với thành quả của hạnh phúc và tái sanh về cõi
Tịnh độ.
Đặc biệt chúng sanh ở trung
ấm thân cần chúng ta hồi hướng những công đức và tạo ra lòng thành cho
họ. Nếu chúng ta lặp lại sự hồi hướng bằng bất cứ công đức gì mà chúng
ta và người chết chứa nhóm được chẳng cần biết ít hay nhiều, đều cần cho
sự tái sanh của người mất và tất cả chúng sanh về cõi Tịnh Độ. Chúng ta
có thể chắc chắn rằng phước đức ấy sẽ là nguyên nhân của thành quả kia.
Bạn cũng có thể tụng kinh
và thiền tập với sự cầu nguyện đức hạnh cho sự hồi hướng và lòng thành,
ví dụ như kinh Bhadracharya – pranidhanaraja sutra (kinh về vua của
nhiệt vọng của những hành vi tối thiện). Bản kinh Đại Thừa này, lấy một
phần của kinh Buddhavatamsaha (Kinh Hoa Nghiêm) dạy cho chúng ta hồi
hướng phước đức như thế nào và tạo ra lòng thành như là Samantabhadra
(Kinh Phổ Hiền) đã thực hiện. Những người chết có thể được tùy hành bởi
sự ban cho sự gia bị trên đồ vật được nếm giống như vị cam lồ và việc
còn sót lại của Thần Thánh hay những đối tượng có tính cách lễ nghi được
gia trì, hay những đồ này được đặt trên tử thi. Những thành viên của
truyền thống Nyingma sở thuộc riêng biệt vào dấu hiệu nơi chốn gia trì
bí mật, biểu đồ của Thần Thánh về những âm điệu được viết bởi chữ Ấn Độ
cổ đại hay tiếng Tây Tạng, được biết như ‘giải thoát bởi sự va chạm’’ và
những biểu đồ Thần Thánh ở nơi quả tim hoặc ở những bộ phận khác của
thân thể.
Phục vụ
Tôn Giáo trong thời gian của người chết.
Vào thời gian qua đời, có
nhiều việc phục vụ thuộc về Tôn Giáo như cầu nguyện và thiền định, điều
ấy là dụng ý của sự an lạc, tình thương yêu và không khí gia trì, những
điều này rất là lợi ích. Những nghi lễ dưới đây là một vài việc phục vụ
có ý nghĩa mà những vị Lạt Ma Tây Tạng hay cúng hiến.
Hướng dẫn
cho người bình thường.
Thời gian tốt nhất để đón
nhận sự hướng dẫn, cố vấn hoặc dạy dỗ là trong khi chúng ta vẫn còn
sống. Như vậy chúng ta có thể nghe và hiểu những gì mà người hướng dẫn
nói cho mình. Những người hướng dẫn phải cho những lời khuyên bảo, những
điều nào làm cho tâm mình được mở ra và những gì chúng ta có thể tiêu
hóa hấp thụ được. Nếu một người qua đời kháng cự lại việc chấp nhận tiếp
cận của sự chết thì không nên hướng dẫn trong thời gian này. Thay vì
phải dùng những điều tốt để giảng dạy những việc thông thường hay về sự
trị liệu. Điều ấy sẽ chẳng làm cho người ấy lo sợ, mà sẽ dụng ý cho một
vài cảm giác của sự an lạc và sự hiểu biết.
Nếu người qua đời cũng sẵn
sàng nghe được về sự chết của chính họ thì họ sẽ hồi tưởng lại về sự
thiền định cũng như những năng lượng gia trì của họ. Những người hướng
dẫn nên cho họ biết những gì chờ đợi trong hành trình đi đến sự chết, tự
nhiên sau cùng và trung ấm thân phải đối xử như thế nào với những kinh
nghiệm này.
Ngài Dodrupchen Rinproche
toát yếu những điều quan trọng cho người chết, thâu tóm ở thời gian chết
như sau:
Bạn phải nghĩ về những
điều sau đây nhiều lần. Hãy nghĩ về việc chết ấy! Cái nào bây giờ đã đến
với bạn, sẽ xảy ra cho tất cả. Hãy để cho tất cả những gì phụ thuộc rời
khỏi như yêu mến một người nào ngay đến cả những sự sở hữu và năng lực.
Ở trước đấng Giác Ngộ hãy ăn năn những tội lỗi và Tẩy tịnh tất cả những
hành vi sai trái mà bạn đã tạo ra trong đời sống hiện tại hay những đời
sống thuộc về quá khứ. Cả hai là biết hoặc chẳng biết. Hãy tự phát
nguyện cho chính bạn và với đấng Giác ngộ rằng bạn sẽ chẳng tạo những
hành vi sai quấy ấy một lần nữa. Đối với việc ấy đã thực hiện với tâm
thức của bạn,với sự cảm nhận của sự hoan hỷ ấy, sau đó bạn chẳng cần
phải lo lắng nữa. Hãy nhớ lại tất cả những hành vi đức hạnh mà bạn đã
thực hiện trong quá khứ và hãy nên vui vẻ, bởi vì chúng hay lặp lại
nhiều lần, không phải một vài sự tự hào hay ngã mạn và Ngài còn dạy thêm
rằng: Hồi hướng những công đức và tạo nên những sự nhiệt tâm trong nhiều
lần; hãy suy nghĩ và nói rằng: ở giữa cuộc đời liên tục của tôi, mong
rằng tôi có được sự thực hiện bởi bản chất của con đường giác ngộ.
Nguyện rằng tôi được hướng dẫn bởi những vị Thầy đức hạnh. Cầu nguyện
cho tôi có được tài sản của sự xác tín, siêng năng, hiểu biết và sự tỉnh
thức. Cầu nguyện cho tôi chẳng hề bị khổ sở bởi những người bạn thiếu
đức hạnh cũng như những hành vi khổ não’’.
Điều vô cùng quan trọng là
có được những tư tưởng đạo đức ở vào thời điểm quá cố. Ngài Dodrapchen
nói rằng:
“Trong nhiều kinh điển
đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy và kể nhiều câu chuyện để giải thích tại
sao mà một vài người đã trở thành đệ tử của Ngài. Trong nhiều trường
hợp, nguyên nhân chính yếu mà Ngài đã đưa ra, bởi vì những gì mà những
người này đã tạo ra những nhiệt vọng đức hạnh khi họ đã chết. Như vậy
những gì mà bạn mong mỏi thực hiện vào lúc tắt hơi thở sẽ có một sức đẩy
rất lớn cho sự tái sanh của bạn’’.
Như đã nói bên trên, nghi
lễ, Thiền định quan trọng gọi là phowa (chuyển di thần
thức), có thể thực
hiện cả hai cho trước hoặc sau khi chết (tham cứu trang 265 sách tiếng
Anh). Sẽ được lợi lạc cho việc qua đời nếu bạn có thể hồi tưởng lại
chính vị Thầy tinh thần của bạn, trong người bạn đã có sự tin tưởng về
những lời dạy của họ và những vị Thần linh cũng như những kinh nghiệm về
lãnh vực tinh thần mà bạn đã có lần quen thuộc. Như vậy thì với lòng từ
bi phát triển nhiệt vọng để mang đến cho chúng sanh tiến đến Phật quả.
Sự hướng
dẫn và phục vụ sự chết cho sự hoàn thành của người thiền định
Nếu người mất là một hành
giả thực hành thiền định ở bậc hoàn hảo thì với Thiền giả có kinh nghiệm
ấy hoặc bè bạn nên sẵn sàng hướng dẫn. Trong sự hướng dẫn này bạn hồi
tưởng lại vị Thầy đã quá vãng của bạn để nhớ lại và thừa nhận sự thiền
định cũng như sự liên hệ với họ và để làm sống lại những điều này. Nếu ở
đấy không có những người trợ tử hoàn hảo, điều tốt nhất là phải cho phép
những hành giả thiền định ấy ra đi trong tĩnh lặng, không nên có một vài
sự quấy rầy. Những người học trò hay bạn hữu của Thầy mình nên hành
thiền tụng đọc những lời cầu nguyện trong yên lặng. Hoặc giả ở khoảng
cách xa với nhục thể ấy. Điều vô cùng quan trọng là hãy giữ gìn không
khí với sự an lạc chung quanh sự ra đi của Thầy bạn, trong điều kiện có
thể trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày như thế.
Một vài vị Đại sư vẫn còn
thiền định trong hơi thở nhiều giờ hay nhiều ngày sau khi đã tắt thở. Ở
đó chẳng còn sự hoạt động của hơi thở hoặc tim mạch nữa; nhưng ở đấy sẽ
còn một hoạt động nhỏ của hơi ấm nơi phạm vi của quả tim. Đây là dấu
hiệu cho thấy rằng Đại sư bây giờ chưa rời khỏi thân thể và đang tiếp
tục sống trong thiền định. Nếu như vậy thì tốt nhất nên giữ gìn thân thể
yên ổn và giữ gìn không khí an lạc chung quanh đó. Nhưng nếu bạn cần
phải di chuyển thi thể ấy, một vài người khác nên sẵn sàng giúp đỡ hoặc
ít nhất một vài lễ nghi Tôn Giáo, thì điều này sẽ đánh thức Đại sư từ
trạng thái tự nhiên yên tĩnh ấy. Nếu ở đây chẳng có một vị nào có thể
giúp cho những hình thức nghi lễ, thì ngay cả tiếng linh của lễ nhạc
hoặc tiếng chuông cầu nguyện hay thực hiện một vài bản nhạc Tôn Giáo,
hoặc ngâm vịnh, những điều ấy sẽ đánh thức Đại sư từ sự tắc thở kia. Rồi
thì bạn có thể chăm sóc nhục thể ấy một cách thích hợp với khả năng của
bạn. Một vài người có thể dụng ý để bảo quản tử thi ấy với sự thay đổi
thích hợp; trong khi những người khác thì có thể chỉ được bảo quản đơn
giản hơn. Đối với một vị đại sư, đơn giản hay bảo quản một cách thích
nghi sẽ không có gì khác biệt.
Tuy nhiên Tsele đã viết
rằng: ‘Theo một vài học giả và những người đã thục luyện thì dẫu cho
những giả định thông thường ấy là điều mà tất cả mọi người ai bảo lưu tử
thi được trong thời gian dài lâu hơn sau khi chết trong thiền định thì
điều này cũng chẳng phải chắc chắn đúng như vậy. Đôi lúc cũng có những
vị có thể chấp trước vào thân thể của vị đó ngoài sự phụ thuộc ấy’’.
Đứng về phương diện truyền
thống, những người đệ tử của vị đại sư ấy có thể thực hiện “sự nương tựa
thiền định về đại sư’’ và nhận được bốn lần năng lực (như đã tường thuật
ở trên về thiền định với Ngài Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa). Hoặc họ
cũng có thể tập trung lại vào “nghi lễ về sự sùng kính đại sư’’ và nhận
được quyền năng bởi chính mình. Họ cũng có thể thực hiện những Tẩy tịnh
và làm phước đến các vị Thần linh cho đại sư. Ngay cả nếu việc sám hối
và phước đức chẳng là điều cần thiết cho những đại sư ở bậc tu chứng
cao. Chúng sẽ lợi lạc cho những ai mà vị Thầy ấy liên hệ với những
nghiệp lực. Điều quan trọng hơn cả là những người đệ tử nên Thiền tập
cho những tâm thức của họ thống nhất với tâm giác ngộ của vị đại sư và
hãy nghĩ tâm của họ là một. Nếu chẳng có một hình thức lễ nghi nào có
thể, thì hãy nói một vài lời cầu nguyện, hãy thực hiện một vài sự thiền
định mà bạn quen thuộc, điều ấy sẽ hữu ích hơn nhiều. Điều quan trọng
nên nhớ rằng; có những điều ngược lại với người bình thường cần đến lễ
cầu siêu thì những đạo sư chẳng cần đến hoặc có thể chẳng muốn có chúng.
Điều ấy là lý do tại sao mà nhiều vị đại sư đôi khi cao hứng để ‘chết
giống như con chó’’ mà họ hay nói. Ngay cả như một con chó hoang cũng có
thể hít thở ở bên cạnh lề đường mà chẳng có một người nào đó lưu tâm
đến. Vậy thì các vị đại sư cũng hy vọng rằng chẳng có một người nào lưu
tâm đến sự chết của họ, như vậy họ sẽ được tự do để di chuyển từ kiếp
sống này trong một phương pháp mà họ sẽ an lạc.
Phục vụ
Tôn Giáo sau khi chết.
Nghi lễ trong mười ba
nấc thang của sự chết
là lễ nghi mà chúng ta xử dụng để thực tập khi mà tôi đã được lớn lên
tại miền Đông xứ Tây Tạng. Việc thực hiện cho người chết bởi những hành
giả luyện tập Thiền hay những tín đồ đã quy y, cũng có thể thực hiện
trước khi qua đời hay trong khi người ấy mất. Lễ nhạc nầy thường thường
có tên gọi khác nhau ở Tây Tạng. Được giới thiệu như là ‘Lễ nghi tử thể”
mà nó có thể thực hiện bởi những vị Lạt Ma trong khi tử thi còn tồn tại
Cũng còn gọi là : “Nghi lễ ngẫu tượng’’. Bởi vì lễ cầu nguyện này có thể
được thực hiện với những ngẫu tượng thay vì tử thi. Một vài sự quy hướng
về nghi lễ giống như “giải thoát từ các cõi’’. Trong ấy những vị Lạt Ma
làm lễ Tẩy tịnh cho những chủng tử nghiệp lực của người quá cố mà điều
ấy sẽ là nguyên nhân của sự tái sanh vào sáu cõi luân hồi. Tên gọi khác
ở đây một cách đơn giản là: “Nghi lễ cho người chết’’.
Lễ cầu siêu của Tây Tạng
thực hành giới hạn ở hình thức lễ bái của một trong nhiều thể thức của
nghi thức hay chư Phật và những Mạn Đà La của họ hay Tịnh độ. Chúng bao
gồm cả nghi thức của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà Phật); đức Phật
của lòng từ bi (Quán Thế Âm Bồ Tát); đức Phật của sự Tẩy tịnh (Ngài Kim
Cương Tát Đỏa); hằng trăm sự bình an và những vị Thần linh phẫn nộ, đức
Phật của sự thanh khiết của cõi hạ cấp (Sarvavid Vairochava) và trừ khứ
Thần chết (Vajrabhaivara). Tuy nhiên nghi lễ sẽ mang đến nhiều kết quả
nếu như những người thực hiện chọn lựa một đức Phật và một vị thần linh
với vị nào đó mà các Ngài cũng là quyến thuộc cũng như có sự liên hệ.
Sự tóm lược của mười ba nấc
thang về nghi lễ cho người chết. Đầu tiên, ở phần có tính cách dự bị cho
nghi lễ của người qua đời những vị Lạt Ma hay những người trợ tử tụng
kinh và thiền tọa và quy y Tam Bảo rồi thì phát Bồ đề tâm.
Thứ hai, những điều này nên
quán tưởng và hãy cho rằng họ là một vị Thần Linh, của đức Phật Từ Bi, ở
nơi cõi Tịnh độ được chứa đầy vô số chúng sanh giác ngộ. Hãy trì tụng
thần chú của đức Phật – Om Ma Ni Padme Hum (hoặc HUNG). Họ thấy, nghe và
cảm nhận sự gia trì về sự hiện hữu cùng năng lượng của những vị Thần
linh cùng cõi Tịnh độ. Rồi thì các Ngài phân chia ra gia trì ở thể thức
của ánh sáng và đạt đến khắp nơi trên hoàn vũ. Điều này được thể hiện
qua sự quán tưởng và nên suy nghĩ rằng ánh sáng gia trì ấy chứa đầy nơi
tất cả chúng sanh, giống như toàn thể vũ trụ và điều ấy đã đạt được sự
chứa đầy nơi tất cả; sự biến hóa của mỗi vị vào nơi trí tuệ của chúng
sanh, lòng từ bi và năng lực.
Điều thứ ba, họ quán tưởng
nơi bàn thờ của các vị Thần Linh và cảnh Tịnh Độ trong những bình nước
Thánh chứa đầy nước cam lồ làm phước thiện, họ cúng dường những điều tốt
đẹp và xử dụng những vật ấy như hoa đẹp, hương thơm thực phẩm và âm nhạc
(thực chất hoặc cụ thể hóa). Đồng thời niệm kinh tán thán những vị Thần
linh với những tư tưởng của sự cung kính vĩ đại. Hay tụng Thần chú, họ
quán tưởng các vị Thần linh. Vị Thần gia trì vào bình nước cam lồ và
trút vào đó giòng chảy của ánh sáng trí tuệ. Rồi sau đó các vị Thần linh
chìm vào trong bình nước cam lồ rồi thì họ trở thành một thực thể.
Điều thứ tư, họ nhận được
từ các vị Thần Bổn Mạng của ngoại hộ Mạn Đà La trong bình nước Thánh. Ở
ngôn ngữ khác, nói một cách khác qua việc thiền định nơi bình chứa đầy
nước cam lồ giống như là một vị Phật Tịnh độ với hình tướng trong suốt,
âm thanh và kinh nghiệm, chứa đầy với sự hiện hữu của sự vân tập các vị
Phật và những vị Phật chất lượng; bình Mạn Đà La là nguồn năng lượng gia
trì to lớn.
Bước thứ năm, với năng lực
mặc khải và những ngôn từ chơn thật, họ triệu tập sự hiểu biết của người
quá cố (nếu người ấy đang chết) vào trong một ngẫu tượng (hoặc vào thân
thể nếu vẫn còn hiện hữu) và an định nó. Rồi thì họ ban những lời giáo
huấn đến người quá vãng trong sự thâu nhiếp quan trọng cho tâm thức của
cô hay cậu kia đến với các vị Thần linh và con đường tâm linh, những đức
Phật và cõi Tịnh độ, cùng giáo pháp và những vị Thầy dạy đạo. Họ chỉ dẫn
cho người quá cố đừng duyên theo tình yêu của thế gian với một người nào
đó hay từ bỏ sự sở hữu ở lại phía sau lưng bởi vì chúng chỉ là những sự
cảm kích khổ sở thông thường đồng thời làm trở ngại sự phát triển hơn
giữa con đường tâm linh.
Bước thứ sáu, họ thực hiện
nghi lễ “giải thoát khỏi các cõi”. Đây là một lễ nghi hoàn hảo mà tiêu
điểm kia là sự giải thoát cho người quá cố từ vòng quay của sự tái sanh
trong sáu cảnh giới bởi sự Tẩy tịnh cho sáu tình thức khổ sở ấy ở từng
cõi một. Rồi sau đó sự quan hệ sẽ cho quyền năng hoặc gia trì nơi thân
thể, lời nói và tâm thức của chư Phật.
Thứ bảy, rồi thì họ cúng
dường những đồ tốt đẹp như thực phẩm đã được nấu chín hay thức uống.
Theo nhiều tài liệu thì hầu hết những chúng sanh ở thân trung ấm không
thể vui với thức ăn cứng; họ sẽ cảm thấy đầy đủ với những thức ăn đã
được nấu chín có mùi.
Trong kinh Ayushpatti –
Yathakara – Paripriccha (Kinh nói về hạnh phúc như thế nào khi chết),
đức Phật đã giải thích rằng ở đây không được sự lợi ích trong việc cúng
thức ăn cho người chết, bởi vì khi chẳng có một thân thể to lớn thì họ
không thể vui với thức ăn to lớn được. Nếu với một tâm hồn buồn bã hay
bất thiện thì bạn sẽ thay đổi một vài loại thực phẩm cho người chết ở
trên bàn, như điều này được thực hiện trong một vài nền văn hóa, bạn sẽ
chẳng giải thích được sự đói khi chết, lại chẳng thể tạo phước đức nhiều
cho bạn, nếu chẳng có được tinh thần, sự cầu nguyện, lòng từ bi hay sự
độ lượng bao gồm trong ấy. Tuy thế, trong những nghi lễ trang trọng, một
sự gia trì nơi thức ăn đã có mùi vị với sự thiền định và hồi hướng những
đồ ăn ấy sẽ cho người chết một sự hưởng thọ trong lành.
Ở một nơi thông thoáng ngọn
lửa đốt cháy đã được chuẩn bị không có khói bay lên từ củi đốt hay dầu
là những nhiên liệu được dùng đến và ở đó được thiêu đốt những thức ăn
cứng cũng như rải những đồ uống chung quanh ngọn lửa. Một vài mảnh nhỏ
của áo quần cũng có thể đem đi đốt, như là một sự cúng dâng.
Giữa những thực phẩm được
dâng cúng trong những lễ nghi tốt đẹp, thịt cũng nên tránh xa đi, bởi vì
nó mị hoặc một cách mãnh liêt. Và có hại cho sức mạnh tinh thần. Do vậy
theo quan niệm của tôi một điều là chẳng nên xử dụng trái cây còn sống
hay một vài thực liệu phẩm. Đây chính là nguyên nhân để sinh ra mùi khi
thiêu đốt. Ở Tây Tạng đồ được xử dụng chính là những đồ được cúng chay
bởi bột lúa mạch và bơ trộn lại cùng một vài bộ áo quần mới nhỏ nhắn,
tượng trưng cho quần áo. Ở Tây phương thì có thể xử dụng thích ứng với
những bánh được đút lò và một cặp áo quần mới. Tuy nhiên nếu bạn chẳng
thể cúng dâng thức ăn khi thiêu thì bạn nên thay đổi bằng những thực
phẩm chay và thức uống để trên bàn kéo dài suốt buổi lễ và rồi thì hãy
xử lý chúng như bỏ vào trong lửa hoặc để cho sạch sẽ phải cho vào chỗ
kín đáo.
Trong những nghi lễ thuần
túy ấy với sức mạnh của lòng từ bi sâu thẳm, với năng lực của Thiền định
và sức mạnh của Thần chú, chúng ta tẩy sạch tất cả những đồ vật nào
không được thanh tịnh, những đồ thêm vào chứa đầy đất cát và hãy biến
hóa chúng trở thành vật chất mà khi chết sẽ vui vẻ theo cũng như được sự
lợi ích từ đó . Như vậy khói sẽ chẳng những chỉ thể hiện ra với sự chết
giống như thực phẩm và đồ uống, mà cũng còn là những gì mà người mất cần
và họ mong mỏi. Ngay cả nếu những người thực hiện chẳng thể nương theo
thiền định trong từng chi tiết và nếu họ đã quy y với đức Phật, gia trì
điều tốt đẹp với người cầu nguyện và phụng hiến điều ấy cho người quá cố
với tình yêu trong sạch, rồi thì sự dâng hiến trong sạch kia sẽ trở
thành sung mãn và lợi ích. Nếu chúng ta cúng những đồ tốt đẹp cho tất cả
những chúng sanh đau khổ với tình thương yêu và sự khoan dung thì điều
ấy sẽ sáng tạo một phước đức lớn lao. Nếu chúng ta hồi hướng và nhiệt
tình với nhiều chúng sanh, thì người chết sẽ vui vẻ với những phước đức
to lớn cho sự linh ứng của chúng ta để sản xuất ra tất cả những tư tưởng
có tính cách lợi tha và việc cúng hiến nhơn từ.
Bước thứ tám được thực hiện
phowa (chuyển di thần thức) trong sự ra lệnh cho di động thần thức hoặc
tâm linh của người chết vào tâm thức giác ngộ của đức Phật; như vậy thì
họ sẽ được tái sanh vào thế giới Tịnh độ của đức Phật.
Bước thứ chín là phục vụ
tang lễ của thân thể đã được bảo quản. Ở Tây Tạng có hai cách chính để
cho thân thể của người chết về lại với thiên nhiên: hỏa táng và làm thức
ăn cho kênh kênh. Hình thức này người Tây Phương gọi là ‘Tang lễ trên
bầu trời’’. Những vị Lạt Ma thực tập những nghi lễ Thiền định để gia trì
cho thân thể như là cam lồ trí tuệ và nhiên liệu hỏa táng hoặc cho kênh
kênh như các vị Thánh thần và cảnh Tịnh độ của họ. Rồi thì họ cúng dường
thân thể như là chất cam lồ cho những vị Thần linh để Tẩy tịnh những
nghiệp lực bất thiện và để hoàn hảo cho những công đức và trí tuệ của
người quá vãng. Họ cũng sẽ thiêu tử thi (hay những ngẫu tượng) là dấu
hiệu tiêu phí của tự kỷ mê hoặc, sự khổ não về những tình thức và những
nghiệp lực bất thiện với tất cả những dấu tích bằng ngọn lửa của năm trí
tuệ; những điều nào là tự nhiên tối hậu và phẩm chất của tâm hồn. Hoặc
giả họ có thể cho thân thể làm đồ ăn cho kênh kênh. Ngay cả sau đó họ
muốn đốt cháy từng mảnh nhỏ của xương cốt theo sau những lễ nghi ấy.
Bước thứ mười, họ gom những
mảnh xương (xương đã được thiêu rồi) và mang xương đặc biệt để làm lễ
sái tịnh cho cả tuần sau hoặc tương tự như thế. Để cho việc này họ thực
hiện lễ nghi cho việc “giải thoát từ các cảnh giới”, như đã nói trước.
Cũng còn những cơ hội khác để Tẩy tịnh sạch những nghiệp bất thiện của
người quá vãng, xử dụng sự tồn tại liên tục trong thể thức của tro cốt.
Bước thứ mười một, sau khi
cốt được Tẩy tịnh , tro cốt là một hổn hợp của đất bụi trộn lẫn với tro
và nhồi thành những tháp nhỏ là dấu hiệu mà người quá cố đã thuộc về sự
biến hóa vật lý vào phẩm chất của đức Phật. Ngọn tháp là hình ảnh của
tinh thần trí tuệ Phật. Một lễ nghi gia trì được thực hiện trong một
tuần lễ hoặc gia trì như thế, hồi hướng những tượng được nhồi vào tháp,
như là thân trí tuệ của đức Phật.
Bước thứ mười hai, trong
tháp được nạp cốt vào đó là nơi để cúng dường, cho vào sông hay vào biển
cũng như cho phép chìm vào với thiên nhiên; như vậy chẳng có một vật gì
còn sót lại của người quá cố cả. Chẳng để lại một cái gì mà người mất
khó ra đi dễ dàng, bởi vì không bị giữ lại hoặc tồn tại to lớn cho những
tình thức bất thiện giống như sự phụ thuộc bởi sự quan hệ. Tuy nhiên
những người Phật tử hay giữ gìn một vài vật còn sót lại của một vài vị
đại sư nổi tiếng trong hình thức của những bia kỷ niệm của Tôn Giáo; như
vậy đây sẽ là đối tượng cho sự hướng về và sự nương tựa cũng là một
nguồn lực gia trì.
Cuối cùng những người tham
gia ấy hồi hướng tất cả những công đức mà ngay cả sự chứa nhóm ấy cho
người quá vãng và cho chúng sanh như là nguyên nhân của hành trình
chuyển đến sự an lạc cũng như sự tái sanh hoan hỷ (ví dụ như cõi Cực Lạc
cuả đức Phật A Di Đà). Hãy nên hồi hướng tất cả những công đức như là
những chủng tử; họ tụng kinh với nhiều lời cầu nguyện chân thành để lý
giải những mục tiêu quan hệ này.
Những nghi lễ khác.
Đối với những buổi tọa
thiền ngắn, đơn giản và những sự phục vụ cầu nguyện thì nên xem nơi bản
phụ lục B.
Đối với lễ cầu siêu cho
những bậc đã thành tựu cao cả, những vị Thầy khả kính; hoặc những vị Lạt
Ma hay những đệ tử thực hiện những nghi thức lễ nhạc thông thường của
sự quy ngưỡng về thiên nhiên trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần lễ. Ở đây
bao gồm cả nghi lễ sùng kính của vị Thầy, sự quy hướng về thiền định nơi
vị Thầy, cúng dường đồ ăn và những lễ nhạc cho những thân thể có tính
cách Thần thánh, với sự thực hành để Tẩy tịnh , tạo phước đức và sự hăng
say.
Giữa những lễ nghi này gia
đình và bạn bè nên trợ lực cho việc làm phước và phục vụ lợi ích cho
người quá vãng. Những điều này bao gồm cả việc tụng kinh cầu nguyện và
thực tập thiền quán, cho những quà cáp có tính cách tinh thần hoặc vật
chất, bảo hộ sức khỏe và mạng sống, bảo trợ những nghi lễ và cầu nguyện,
xây cất những nhà bia kỷ niệm và những việc bảo hộ, dựng những lá phướn
cầu nguyện và những bánh xe quay chuyển pháp, bảo trợ cho các học đường
và những trung tâm thiền định và mang sự hòa bình cũng như sự hòa hợp
vào trong xã hội.
Sau khi thực hiện một vài
việc này, hãy hồi hướng phước đức ấy như là cái nhân cho hạnh phúc và
giác ngộ cho mọi chúng sanh, đặc biệt là cho người quá cố và làm những
việc khác tốt đẹp cho cùng chung mục đích ấy. Sau đó qua kinh nghiệm của
người quá vãng về thân trung ấm cũng như sự tái sanh sẽ trở thành một
hành trình từ niềm hạnh phúc này kéo đến hạnh phúc khác.
Theo truyền thống của Phật
Giáo Tây Tạng điều này rất là phổ biến là cúng dường những vật chất của
một vài công việc cho nhiều chư Tăng Phật Giáo, những tự viện, những
việc có tính cách từ thiện để tạo phước đức cho người quá cố với nguyện
vọng cầu nguyện và tu tạo phước đức này cho họ, ngay cả nếu bạn không có
tiền hoặc tài sản vật chất để cúng dường thì bạn cũng có thể nghĩ tưởng
việc cúng dường những hình tượng đức hạnh của tài sản và thuộc về việc
cúng bái ấy cho họ với một niềm vui lớn và sự khoan dung. Nhiều sự cúng
dường ấy sẽ sáng tạo một việc to lớn là sự thành tựu công đức cũng như
vậy.
Những người Phật tử tin rằng
ngay cả nếu bạn cúng dường được một ít gì đó cho mục đích to lớn thì
phước đức của bạn có thể trở thành càng ngày càng quảng đại như phước
đức của mục đích chính nó, giống như từng giọt nước mưa chảy vào trong
biển cả và sẽ chẳng bao giờ khô cho đến khi biển ấy khô. Như vậy nếu một
nghiệp lực nối kết với những chúng sanh khác và ngay cả nếu sự cúng
dường dẫu cho nhỏ nhặt như một tách trà đi chăng nữa thì nó cũng là một
động lực và kết quả ấy có thể không bao giờ mất hết. Bởi vì sự thánh
thiện của người ấy là người mà bạn đang cúng dường.