Lời cuối sách
Ngày nay sách viết và nói
về Phật Giáo Tây Tạng không thiếu bất cứ một loại tiêu đề nào. Có những
sách bằng tiếng Anh nổi tiếng do chính đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết
nhan đề là: My land and my people (Nước tôi và dân tôi), hay Freedom in
Exil (Tự do trong lưu đày). Hoặc do các vị Đại sư nổi tiếng khác của
Phật Giáo Tây Tạng viết về Tánh Không, Trung đạo v.v... cũng có nhiều
sách được dịch giả như Nguyên Phong chuyển ngữ rất hay như quyển ‘Hoa
sen trên tuyết’ chẳng hạn. Đồng thời ở Úc cũng có nữ Phật tử bút hiệu
Hồng Như đã dịch quyển ‘Tinh túy Bát Nhã Tâm Kinh’ và trực dịch nhiều
lần giảng pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma thật là tuyệt vời, khiến cho ai đó
có nhân duyên đọc được những sách này hay nghe được những bài giảng
được chuyển dịch qua Việt ngữ cũng điều ca ngợi tán thán. Đây là công
đức hoằng pháp lợi ích không nhỏ cho quần sanh của người xuất gia và tại
gia trong đời này vậy.
Tôi là người rất ham đọc
sách. Nghĩa là bất cứ lúc nào có thì giờ là phải có quyển sách hay tờ
báo trên tay để xem. Nếu không, cảm thấy nó vô vị và tẻ nhạt. Vì tôi
quan niệm rằng: đọc sách để học hỏi và tìm hiểu những cái hay cái đẹp
của tác giả hoặc dịch giả muốn gởi đến độc giả. Dầu cho tác giả hay dịch
giả ấy có viết hoặc dịch dở như thế nào đi chăng nữa, cũng là cái hay
nhất của chính họ, mong đem ra cống hiến cho độc giả. Do vậy chúng ta
nên cần đọc sách là vậy.
Đã nhiều lần nghe đức Đạt
Lai Lạt Ma giảng tại chùa Viên Giác, ở Hamburg, một tuần lễ ở
Schneverdingen, 5 ngày ở Franfurt và cũng đã từng nghe cũng như đọc qua
nhiều sách vở của Phật Giáo Tây Tạng, nhưng tôi chỉ được biết và học qua
giáo lý Trung đạo của Ngài Long Thọ, đại sư Tống Khách Ba, Ngài Liên Hoa
Sanh, Ngài Shantideva, Ngài Ajita v.v... và hầu như chưa bao giờ nghe
qua về việc vãng sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà theo quan niệm
của Phật Giáo Tây Tạng.
Năm nay 2010 – 2011 nhân
lần nhập thất tịnh tu tại Úc lần thứ 8, tôi có ý định dịch chung với
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng, Phó viện chủ Tu Viện Quảng Đức tại
Melbourne và là người chủ xướng trang nhà Quảng Đức; Thầy cũng là người
đã dịch qua nhiều tác phẩm của Phật Giáo Tây Tạng bằng Anh Văn; cho nên
tôi đề nghị dịch chung với Thầy ấy là vậy.
Đầu tiên Thầy ấy định dịch
một tác phẩm mới về xá lợi, nhưng sau đó Thầy gởi cho tôi quyển:
Peaceful Death, Joyful Rebirth (Chết an lạc, tái sanh hoan hỷ) của đại
sư học giả Tulku Thondup hiện đang dạy tại Đại Học Havard – Hoa Kỳ. Ngài
thuộc phái Phật Giáo Nyingma của Tây Tạng. Thầy Nguyên Tạng giao cho tôi
dịch từ chương 6 đến chương thứ 10 nghĩa là từ trang 168 đến trang 228.
Sau khi dịch xong 5 chương ấy tôi thấy phần phục lục A và B cũng không
kém phần quan trọng cho các hành giả muốn làm quen với những lễ nghi
tang ma của Phật Giáo Tây Tạng, nên tôi đã dịch tất cả 2 phần này cho
đến trang 280 của sách tiếng Anh là chấm dứt.
Khi cầm quyển sách tôi bắt
đầu đọc những chú thích trước từ ngày 7 tháng 6 năm 2010 và đọc qua một
lần có ghi chú vào ngày 28 tháng 6 năm 2010 nhân lần sinh nhật thứ 62
của tôi và cũng chính ngày này tôi đã đặt bút xuống giấy trắng để dịch
ngay cho đến ngày 5 tháng 8 năm 2010 thì xong, với 112 trang sách chữ
nhỏ. Phần đầu gồm mục lục, lời tựa, lời giới thiệu và từ chương một đến
hết chương sáu gồm 167 trang. Phần này do TT Thích Nguyên Tạng dịch sang
tiếng Việt.
Đọc và dịch tôi cảm thấy
say mê. Vì lẽ tôi tu theo pháp môn Tịnh Độ mà nay mới tìm được quyển
sách trong tình cờ của Phật Giáo Tây Tạng viết về Tịnh Độ, nên chẳng
quản ngày đêm trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm nay tại xứ Đức, trời nóng
oi ả ở nhiệt độ 35 đến 40, mà sau mỗi đêm lễ phật 250 đến 300 lạy kinh
Đại Bát Niết Bàn quyển thứ 2, phẩm Sư Tử Hống, với mỗi chữ một lạy, tôi
vẫn thức khuya và dậy sớm hơn thường lệ để hoàn thành dịch phẩm này. Đây
có lẽ là dịch phẩm ưng ý nhất của tôi và vì lý do gì thì bạn đọc sẽ tìm
được bàng bạc trong ‘lời cuối sách này’.
Đức Phật A Di Đà, giáo chủ
cõi Tây Phương Cực Lạc qua sự giới thiệu của đức Phật lịch sử Thích Ca
Mâu Ni trong kinh Đại phẩm và Tiểu phẩm A Di Đà cũng như kinh Vô Lượng
Thọ với nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit, đức Phật A Di Đà khi còn là một
Pháp Tạng Tỳ Kheo phát ra 46 lời nguyện. Nhưng khi Phật Giáo Đại Thừa
Tịnh độ được truyền qua Trung Hoa vào thế kỷ thứ 3, Đại Hàn, Nhật Bản
thế kỷ thứ 6; Việt Nam thế kỷ thứ 4 đã trở thành 48 lời nguyện, thay vì
46 như ở Ấn Độ. Đến thế kỷ thứ 9 khi Phật Giáo Tịnh độ được truyền sang
Tây Tạng đã trở thành 51 lời nguyện. Như vậy cõi Tịnh độ thì nhiều;
nhưng cõi Cực Lạc chỉ có một và giáo chủ chỉ có đức Phật A Di Đà với sự
phụ tá của đức Quán Thế Âm Bồ Tát và đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Thế mà các
Ngài đã hiện thân qua nhiều cái nhìn khác qua các lời nguyện của các
nước theo Phật Giáo ở vào thời điểm khác nhau. Cho nên việc vãng sanh về
thế giới của Ngài cũng khác nhau, chứ không hẳn nhiên giống nhau hoàn
toàn. Ví dụ:
- Trung Hoa, Đại Hàn, Việt
Nam dựa theo tín, nguyện, hạnh để tin tưởng, phát nguyện và hành trì
pháp môn niệm Phật để được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A
Di Đà. Trong đó dùng lời nguyện thứ 18 làm căn bản.
- Nhật Bản với Tịnh độ Chơn
Tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhơn đề xướng vào thế kỷ thứ 13, muốn vãng
sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà phải hội đủ 5 việc. Đó là:
chí tâm, tín nhạo, dục sanh, nhiếp thủ và bất xả. Ba tâm đầu là tâm của
chúng sanh hưóng về đức Phật và chư vị Bồ Tát. Hai tâm sau do chư vị Bồ
Tát làm chủ. Một lòng chí tâm niệm danh hiệu của Ngài và tin tưởng một
cách xâu xa tuyệt đối cũng như có ý cầu mong sanh về được cõi Cực Lạc
của đức Phật A Di Đà thì các Ngài sẽ tiếp nhận chúng sanh ấy và giữ gìn
nơi cõi Cực Lạc, không bỏ chúng sanh ấy ra, để bị trôi lăn trong sanh tử
luân hồi nữa.
- Tây Tạng với Phật Giáo
Mật Tông, khi tin theo pháp môn Tịnh độ, các vị Tổ Sư chia ra bốn điều
kiện. Đó là: niệm danh hiệu Phật, tu tạo công đức, phát Bồ Đề tâm và hồi
hướng những công đức ấy về cõi Cực Lạc cho người mất hay chính mình. Như
vậy việc trì danh hiệu Phật là điều căn bản. Kế tiếp là phải tạo ra công
đức bố thí, cúng dường cho người còn sống cũng như người đã quá vãng là
điều cần thiết. Kế đó phát tâm Bồ đề dũng mãnh, cầu sanh về cõi Cực Lạc
của đức Phật A Di Đà và cuối cùng là nếu những phước đức ấy có được phải
hồi hướng hết tất cả đến cảnh giới ấy cho chính mình, cho người quá vãng
và cho tất cả chúng sanh thì mới mong giải thoát được sanh tử luân hồi.
Riêng Phật Giáo Tịnh độ Tây
Tạng còn có thêm phần phowa, nghĩa là thực hiện việc chuyển di tâm thức
của người mất vào tâm của đức Phật A Di Đà. Đồng thời Thiền tọa để hướng
dẫn cho người quá cố cũng như chính mình lúc còn hiện hữu trên cõi đời
này. Đây là điều mới lạ so với Phật tử Việt Nam, Trung Hoa cũng như Nhật
Bản. Vì lâu nay các nước Phật giáo này tin rằng sự vãng sanh ấy là do
Phật lực, từ lực của đức Phật A Di Đà mà một chúng sanh có thể sanh về
thế giới của Ngài sau khi lâm chung và chí thành cầu nguyện danh hiệu
Ngài, chứ không phải do năng lực của một vị Thầy hay những người hộ niệm
mà có thể làm được.
Mặt khác phần quán tưởng để
đóng cửa những sự nhầm lẫn khi tái sanh, thì Phật Giáo Tây Tạng táo bạo
hơn, bằng hình ảnh giao hợp, để hợp nhất hòa tan vào chân ngã không còn
phân biệt, là phương tiện khó nghĩ bàn của chư Thánh Bồ Tát.
Cũng như các bậc đạo sư, để chúng sanh sợ, đừng nhận nơi đó đầu
thai, thì đây cũng là cái nhìn táo bạo so với các nước Phật Giáo khác.
Mặc dầu trong kinh Đại Bảo Tích phẩm Nhập Thai Tạng pháp giới đức Phật
Thích Ca Mâu Ni có giải bày tỉ mỉ, nhưng không như Phật giáo Tây Tạng đã
trình bày qua Ngài Liên Hoa Sanh, mà phải xác nhận một điều rằng ở trung
ấm thân, Phật Giáo Tây Tạng đã chỉ rõ ràng từng chi tiết một cho người
đang ở trong trạng thái lâm sàng phải làm như thế nào qua sự chấp nhận
của màu sắc để được tái sanh ở cõi cao hoặc thấp hơn là điều đáng nên
lưu ý.
Khi chúng ta nghiên cứu một
học phái khác, không phải chúng ta phải chạy theo hoàn toàn tông phái
đó, vì lẽ dù cho là tông phái của Phật Giáo nước nào đi nữa thì cũng
niệm câu Thần chú:
Nam Mô A Di Đà Phật bằng
tiếng Việt
Om Amitabha Hum bằng tiếng
Sanskrit
Namo Amida Butsu bằng tiếng
Nhật
Namo Amitafo bằng tiếng Hoa
Tất cả ý nghĩa chỉ là một :
con xin quy ngưỡng về đức Phật A Di Đà. Nghĩa là vị Phật có ánh hào
quang vô lượng hoặc Amitayns là vị có đời sống thọ mạng lâu dài. Tất cả
dù khác ngôn ngữ, nhưng ý nghĩa vẫn là một.
Hoặc câu: Om Mani Padme Hum
cũng vậy. Tiếng Việt dịch là: Án Ma Ni Bát Di Hồng và ý nghĩa cũng tương
tự như trong nội dung của sách này đã giải thích rằng: “Tam mật của đức
Phật với lòng từ bi quý báu và trí tuệ ấy. Xin cho con sự gia hộ của quý
Ngài”.
Việt Nam Phật Giáo chúng ta
nên học theo Phật Giáo Nhật Bản để có cái nhìn thực tiển hơn, chứ không
nhứt thiết phải rập khuôn theo Trung Hoa hoàn toàn. Ví dụ như Trà đạo,
Thơ đạo, Kiếm đạo, Nhu đạo, Thiền v.v... đều phát xuất từ Ấn Độ và Trung
Hoa, nhưng khi du nhập vào Nhật thì Chado, Shodo, Kendo, Judo, Zen là
của người Nhật, chứ không còn là của Phật Giáo Trung Hoa nữa và ngày nay
thế giới cũng chỉ biết Zen (Thiền) là của Nhật, chứ không phải của Trung
Quốc.
Chúng ta cần phải thẩm định
lại giá trị này để tạo thành một Phật Giáo Việt Nam đa diện mà không
phải rập khuôn theo lối cũ của nơi mà Phật Giáo được truyền từ.
Tôi không sử dụng tự điển
Anh Việt hay Việt Anh để dịch tác phẩm này, mà xử dụng tự điển Anh Nhật
cũng như Nhật Anh do nhà xuất bản Obunsha của Nhật ấn hành để làm phong
phú hóa cho dịch phẩm này. Cầm trên tay quyển tự điển Anh Nhật có ghi
ngày 18 tháng 6 năm 1973 đã mua tại Nhật, tôi hơi xúc động. Vì lẽ đã gần
40 năm rồi mới xử dụng lại quyển tự điển này. Còn quyển tự điển Nhật Anh
tôi đã mua tại Nhật vào năm Chiêu Hòa thứ 49 nhằm ngày 24 tháng 3 năm
1974 và lần mở vào bên trong, thấy quyển này tôi đã dịch sang tiếng Việt
đến trang 103 ở vào giữa vần C và bỏ dở từ ngày 22 tháng 11 năm 1978 đến
nay vẫn chưa có cơ duyên để soạn lại. Đây là một công trình đang còn
dang dở vậy. Tiếng Nhật tuy không phải là tiếng mẹ đẻ của mình, nhưng
tôi rất yêu mến tiếng Nhật. Vì trong đó có nhiều chữ Hán, rất quen thuộc
với mình.
Khi dịch tôi cố gắng dịch
cho đúng ý của tác giả. Tuy nhiên tiếng Pháp nói rằng: ‘Dịch tức là phản
dịch’’. Nghĩa là nếu dịch sai ý tác giả; tức là mình đi ngược lại tác
giả rồi. Chỉ có điều tôi muốn trình bày ở đây là không nên dịch sát quá,
nghĩa nó sẽ tối, khiến người đọc khó nhận ra ý nghĩa của câu văn. Tùy
theo trong từng trường hợp mà tôi dịch chữ “Dedicate” là sự hiến dâng,
phụng nạp, cống hiến hay hồi hướng. Ngay như chữ: ‘the King’’ người ta
cũng có thể dịch là: ông vua, nhà vua, hay đức vua, tùy theo trong mỗi
trường hợp một mà khác nhau. Dĩ nhiên là người dịch có quyền chọn lựa
danh từ nào thích hợp để dịch và điều quan trọng hơn là độc giả khi đọc
hiểu được ý là vấn đề, chứ không nhất thiết phải bị gò bó vào chữ nghĩa.
Khi phê bình sẽ có nhiều người chê dở, khen hay. Nhưng việc khen, chê
lâu nay vốn đã có sẵn trên đời này rồi. Vì cõi Ta Bà này chẳng có cái gì
là tuyệt đối cả. Trong cái dở luôn luôn có cái hay và trong cái hay luôn
luôn có cái dở là vậy.
Chữ Hán tôi học kinh luật từ
lúc mới vào chùa tu năm 1964 và năm đó khi bắt đầu học Trung Học Đệ Nhất
cấp ở Trường Diên Hồng và trường Bồ Đề Hội An, Quảng Nam tôi đã chọn
sinh ngữ Pháp làm sinh ngữ một. Khi sang đệ nhị cấp tại trường Trần Quý
Cáp ở Hội An, Trường Cộng Hòa và Văn Học tại Sài Gòn tôi đã chọn tiếng
Anh làm sinh ngữ hai. Khi đến Nhật vào năm 1972 tôi chọn tiếng Nhật gần
như tiếng mẹ đẻ để học tại trường Nhật ngữ và Đại Học giáo dục Teikyo
sau đó. Ở đây tôi chọn tiếng Anh làm sinh ngữ chính. Đầu năm 1977 khi
thi vào Cao Học Phật Giáo tại Đại Học Risso (Lập Chánh) ở Tokyo tôi lấy
sinh ngữ Hoa (Hán cổ) làm sinh ngữ chánh và tiếng Pháp làm sinh ngữ phụ.
Khi đến Đức 1977 học tiếng Đức tại Đại Học Kiel và phân khoa giáo dục
tại Đại Học Hannove lấy tiếng Đức làm sinh ngữ mẹ đẻ và chỉ cần thi lại
những môn mà ở Tokyo chưa thi. Do vậy không cần phải thi môn tiếng Anh
hay tiếng Pháp tại đây nữa.
Quý vị đọc đoạn trên đây để
biết thêm rằng: tại sao tôi lại có cơ duyên với nhiều ngôn ngữ như vậy.
Điều quan trọng là tôi rất thích ngoại ngữ cho nên cứ miệt mài với sách
vở và các ngôn ngữ này. Cho nên trong các dịch phẩm của tôi từ tiếng này
sang qua tiếng khác như các loại ngôn ngữ: Nhật, Hán, Việt, Anh, Đức mà
có những điểm sai trái, lỗi lầm là do tôi và khả năng của tôi chưa đạt
được ở điểm cao như độc giả mong muốn. Điều này là lỗi của tôi, tôi xin
nhận tất cả và xin quý vị cao minh chỉ bày cho.
Ngay như dịch phẩm thứ 57
này trước khi mang sang Úc, tôi cũng đã nhờ quý Thầy đệ tử của mình, đã
tốt nghiệp trường Đức, trường Mỹ qua ngôn ngữ học dò lại từng chữ và
từng câu để sửa lại cho đúng ý và đúng lời của tác giả. Tuy vậy chắc
chắn vẫn còn khiếm khuyết. Sau đó tôi sẽ mang bản dịch này đến Úc và nhờ
Thầy P.H và Sư cô G.A, đệ tử của bào huynh tôi, Hòa Thượng Thích Bảo
Lạc đánh máy và xem lại, đối chiếu với bản chính một lần nữa, trước khi
trình bày thành sách. Đồng thời đầu năm 2011, sau khi tham dự khóa tu
học Phật Pháp Úc Châu kỳ thứ 10 do GHPGVNTN Úc Đại Lợi Tân Tây Lan tổ
chức tại Adelaide, tôi sẽ về Tu viện Quảng Đức tại Melbourne để cùng với
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng duyệt lại lần cuối từ chương một đến cuối
sách để sau đó gởi cho Thầy Hạnh Bổn ở Đài Loan dàn trang và sau đó in
ấn tại Đài Loan để cuối năm 2011 quý vị sẽ có quyển sách này trên tay.
Việc làm nào cũng cần có sự
cố gắng và xả kỷ thì việc ấy mới có thể thành công một cách dễ dàng. Do
vậy khi làm bất cứ cái gì, đừng đặt cái ta vào đó thì mình sẽ thênh
thang hơn trong cõi Ta Bà này. Có thế mới gọi là một chút gì đền ơn cho
Đàn Na Tín Thí và ơn Thầy Tổ, Cha Mẹ trong nhiều đời.
Vì tôi lo cho tác phẩm này
nên đã dịch hoàn thành sớm hơn dự định và để khỏi phải mang tự điển đủ
loại bay qua biển lớn, cả một dặm đường dài từ Đức đến Úc hơn 17.000 cây
số, cho nên quyển sách dịch xong, tôi đã nhẹ nhỏm hơn nhiều. Tôi sẽ để
thời giờ vào cuối năm nay 2010 ở Tu Viện Đa Bảo tại Úc săn sóc dịch phẩm
này và sẽ phóng tác một quyển tiểu thuyết dựa vào lịch sử đầu đời vua
Gia Long với nhân vật là Hoàng Cô và Liên Hoa Hòa Thượng để viết và sẽ
gởi đến độc giả xa gần cũng vào cuối năm 2011 này.
Cho đến trang này là trang
bản thảo thứ 172 và bản này tôi sẽ cho vào nhà lưu trử cá nhân tại Tu
Viện Viên Đức nằm ở miền Nam nước Đức để làm kỷ niệm. Biết đâu đó 100
hay 200 năm sau nữa sẽ có người đi tìm dấu vết đàn chim Việt đã một thời
sinh sống và làm việc đạo tại xứ này, thì đây là một bằng chứng của
những tháng năm ấy.
Tôi xin niệm ân tất cả mọi
người đã cho tôi một cơ hội để trang trải tấm lòng của mình trên những
trang giấy trắng mực đen như thế này và nếu được có một công đức nhỏ
nhoi nào đó, xin hồi hướng đến tất cả chúng sanh và cầu nguyện cho tất
cả, đều sớm thành đạo.
Mỗi lần ấn tống cả 5.000
cuốn. Nếu không có sự ủng hộ của quý Đạo Hữu và quý Phật tử tại Châu Úc,
Châu Mỹ và Châu Âu thì dịch phẩm này sẽ không có cơ duyên đến tay của
quý vị độc giả xa gần. Xin chấp hai tay để niệm ân tất cả.
Viết xong lời cuối sách “Chết an lạc, Tái sanh
hoan hỷ” tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover – Đức Quốc vào ngày 6
tháng 8 năm 2010 - Phật lịch 2554 nhân mùa An Cực Lạc Kiết Hạ của năm
Canh Dần.
Dịch giả Thích Như Điển
(Tu Viện Quảng Đức)