Phụ lục
Một vài lễ nghi đơn giản
cho người Phật tử khi qua đời.
Điều quan trọng để thực tập
những hình thức lễ bái cầu nguyện và thiền định nơi một vị Phật và những
vị Phật Tịnh Độ ở trước, trong khi hay sau khi của một người quá cố là
phải lễ bái một vài vị Phật, tốt hơn là đức Phật Vô Lượng Quang (A Di
Đà), đức Quán Thế Âm, đức Kim Cang Tát Đỏa, bằng 100 sự hòa bình và
những vị thần phẫn nộ, Sarvavid Vairochana hoặc Vajrabhairava (Kim Cang
Đại Sĩ). Trong đó sự giới hạn của quyển sách này, tôi không thể dụng ý
làm rõ từng chi tiết về những lễ nhạc cho việc qua đời có tính cách
truyền thống được. Thay vào đó, tôi sẽ đưa ra một vài nghi lễ đơn giản,
nhưng những nghi lễ ấy có tính cách quan trọng mà có thể thực hiện bởi
một vị Lạt Ma hay người trợ tử cho một người sắp chết hay đã qua đời.
Lễ cầu siêu được giới thiệu
ở phần phụ lục A và B, những việc này rất phổ thông ở Tây Tạng và là căn
bản chính cho việc cầu nguyện cũng như thiền định với đức Phật Vô Lượng
Quang (A Di Đà). Những tài liệu đặc biệt mà tôi xử dụng ở đây được trích
dẫn từ những công trình của các vị Lạt Ma lớn thuộc truyền phái
Nyjingma.
Nếu các bạn thỉnh cầu để
thực hiện một vài lễ nhạc như thế này thì hãy cố gắng đọc những chữ bằng
tiếng Tây Tạng in đậm có đính kèm nếu các bạn có thể. Nếu các bạn thích
thì thay vào đó các bạn cũng có thể đọc bằng bảng dịch tiếng Anh đi kèm,
tuy nhiên những Thần chú và tên người cầu nguyện thì các bạn phải đọc
bằng tiếng Tây Tạng hoặc tiếng Sanskrit mà những chữ ấy cũng sẽ hiện ra
đậm kèm theo đó.
Một vài chú giải khi yêu cầu
phát âm bằng tiếng Tây Tạng được thể hiện nơi đây được giản dị hóa qua
cách phát âm để người đọc có thể đọc được và tụng kinh cầu nguyện. Tiếng
Tây Tạng khác nhau giữa một vài âm điệu mà chẳng phải lúc nào những
người nói tiếng Anh khó nhận ra được. Điều quan trọng được ghi nhận rằng
những người nói tiếng Anh cần phải phân biệt cách phát âm của một vài
phụ âm. Như vậy tôi mong trong sự trích dẫn đặc biệt này nên chú ý về
những âm sau đây.
-Ph và Th: Tiếng Tây Tạng
phát âm P và T nhưng được viết Ph và Th. Tùy theo những chữ giống như
phowa và Thamel. Những âm này không đánh vần giống như tiếng Anh F và Th
như Fat và That. Thay vào đó chúng phải được gần giống với tiếng Anh như
P và T riêng lẽ cho phần phát âm ra hơi, có thể nghe bằng tiếng Anh
trong âm P trong chữ “put’’, như trái ngược lại với P trong chữ paper và
chữ T trong butter như là sự trái ngược lại với việc không nhiệt thành
trong chữ but.
-Ch: điều quan trọng nên ghi
nhớ những sự khác biệt ấy giữa tiếng Tây Tạng và tiếng Anh về cách phát
âm và không phát âm theo bản dịch của tiếng Anh âm Ch. Ở trong bản phụ
lục này việc phát âm tiếng Tây Tạng Ch như dưới đây bởi dấu nhấn như là
chữ ch’o. Đây là điều nhấn mạnh hơn âm cho. Việc phát âm Ch’ có thể ngẫu
nhiên gặp trong tiếng Anh là chesse như ngược lại và mềm hơn ch trong
chữ chess. Chữ Ch’ hoặc Ch âm ấy chẳng hề đánh vần giống như chữ Ch nặng
trong tiếng Anh như chord.
Zh- là ngang qua giữa tiếng
Anh sh và z và được phát âm đại khái giống như một tử âm trong tên Zsa
Zsa.
-Ts và được phát âm Tsh là
những âm khó tìm ra trong tiếng Anh ở phần bắt đầu của một âm tiết;
nhưng có thể được nghe chữ ấy giống như its và heats.
-Dz là giống với Ts; nhưng
với âm của một chữ z
-Ng và Ny không phải lúc nào
cũng được phân biệt như trong tiếng Anh từ chữ N. Tuy nhiên những âm
thanh ấy có thể nghe giống như trong chữ Long Island (phát âm không mạnh
như chữ G) và trong chữ can you.
* Ghi chú của dịch
giả: để đơn giản hoá cách đọc tụng, chúng tôi chỉ dịch phần
tiếng Anh đã được dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Việt và chúng tôi
không kèm theo phần tiếng Tây Tạng trong sách này. Nếu quý vị nào cần
tụng đọc tiếng Tây Tạng thì xin xem nguyên mẫu hoặc trong quyển sách
tiếng Anh này đã được phiên âm cho các Phật tử Tây phương làm quen để
đọc tụng.
Phụ lục A
Thiền định về
bốn nguyên nhân tái sanh cảnh giới Cực Lạc
Thiền định và cầu nguyện
được đưa vào bản phụ lục A này là từ sự cộng thông hoặc là những kinh
điển, lời dạy của chư Phật (những điều căn bản này nằm ở trong kinh;
những lời dạy của đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni). Nếu tâm thức của
bạn được hấp thụ bởi những sự thực tập này thì bạn sẽ sẵn sàng học để
thực tập những điều ấy.
Chúng là những lời cầu
nguyện và thực hành Thiền quán cho bốn nguyên nhân của việc sanh về cõi
Cực Lạc. Những việc thực hành này sẽ mở ra một con đường cho bạn để sanh
về cõi Tịnh độ. Chúng sẽ bổ sung cho bạn để thực hiện lễ cầu siêu cho
những người khác.
Dựa theo những nguồn của các
kinh điển Phật Giáo, vô số thời gian dài trước đức Phật Vô Lượng Quang
(A Di Đà) đã trở thành một sự nương tựa cho con đường Bồ Tát đạo. Tên
của Ngài là Dharmakara (Pháp Tạng). Trước đức Phật tên là Lokeshvara
(Thế Tự Tại) Ngài đã khởi đầu con đường tinh thần qua những lời thệ
nguyện của một vị Bồ Tát. Ngài thề rằng sẽ dẫn dắt cho tất cả những ai
nghe, nhớ nghĩ và cầu nguyện đến tên của Ngài với sự tin tưởng và quy
hướng về cõi Tịnh độ của Ngài thì lúc ấy Ngài mới thành Phật.
“Tất cả chúng sanh, ai
nghe được danh hiệu ta sẽ đến cõi Tịnh Độ của ta”
Nếu bạn tin tưởng, tín cẩn
vào những lời nguyện của đức Phật, trí tuệ và lòng từ bi của Ngài thì
bạn sẽ mở cánh cửa cho kết quả năng lực của những lời thệ nguyện ấy. Bởi
vì qua năng lực của sự hỗ tương nương tựa để tồn tại là nguyên nhân của
những lời nguyện của Đức Phật. Nếu bạn cầu nguyện qua danh hiệu Ngài thì
sẽ hoan hỷ sanh về nơi cõi Tịnh độ của Ngài – bên trong bạn và cả bên
ngoài bạn - sẽ được xác nhận. Ngài Shinran (Thân Loan) là người sáng lập
nên Jodo Shinshu (Tịnh Độ Chơn Tông) vào thế kỷ thứ 12 là Tông Tịnh Độ
Chơn Tông của Nhật Bản đã nói rằng: “Trong khoảnh khắc ấy nếu chúng
ta vận chuyển toàn tâm Nembutsu (niệm Phật) (Thần chú của Đức Phật Vô
Lượng Quang) bởi sự kiên cố chí thành thì việc tái sinh của chúng ta về
cõi Tịnh độ sẽ đạt được chắc chắn bởi đức hạnh của những việc làm của
đức Phật A Di Đà không thể rõ biết và đo lường được. Lời nguyện nguyên
thỉ ấy, chúng ta có khả năng chia ra bởi sự lợi ích đó mà che chở cho
tất cả cũng như không bỏ một người nào”.
Nếu với sự tin tưởng hoàn
toàn của tâm thức bạn thì hướng về trọn vẹn ở nơi đức Phật Vô Lượng
Quang (A Di Đà); Ngài có tấm thân đầy lòng từ bi và trí tuệ và ở nơi sức
mạnh của sự cầu nguyện danh hiệu Ngài, cả cuộc đời của bạn sẽ trở nên
hòa bình, trong sáng và tỉnh thức. Bạn sẽ trở thành một nguồn năng lượng
giống hệt cho tất cả mọi người ở chung quanh bạn.
Khái niệm không tốt và những
tình thức khổ não sẽ không có chỗ đứng yên ổn dễ dàng trong các bạn. Như
vậy thì các bạn sẽ chẳng cần một vài cách nào khác để đạt thành sự giải
thoát. Một tâm thức như vậy tự nhiên bao gồm phẩm chất của Lục độ ba la
mật. Sự khoan dung, đạo đức, kiên nhẫn, sự siêng năng, sự chờ đợi và trí
tuệ.
Nếu các bạn hoan hỷ tin
tưởng hoàn toàn nơi đức Phật thì các bạn phải thích dụng nó như là ý
nghĩa của sự cải thiện về cái chết cũng như sự tái sanh của các bạn như
xuyên qua thiền định ở dạng thức phowa. Bạn phải chuẩn bị lâu dài trước
khi cái chết của chính bạn và cũng như trước khi thực hiện lễ cầu siêu
cho người chết. Nếu bạn chẳng có kinh nghiệm trầm tư trong sự tiến bộ
thì bạn chẳng có thể nhận hoặc cho sự giúp đỡ xuyên qua việc cầu nguyện
hay thiền định. Nếu bạn chẳng có sự nối kết mặc nhiên với đức Phật Vô
Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài thì làm thế nào bạn có thể tái sanh
vào cõi Tịnh độ hoặc hướng dẫn một vài người chết khác ở tại đó?
Người chết đã được thực tập
thiền định trong sự tiến bộ có thể thiền quán và cầu nguyện một mình,
không cần tin tưởng vào sự trợ lực của những người khác nữa. Hoặc giả,
nếu có một người chết với nhiều kinh nghiệm và người trợ tử thực tập tốt
cùng nhau thực tập thiền định và cầu nguyện thì sự sanh về nơi cõi Cực
Lạc dễ dàng đạt được.
Như vậy điều đó thuộc về bản
chất để huấn luyện cho việc xác nhận về bốn nguyên nhân ấy, để cho thành
tựu qua việc lần lượt quyết định thuộc về kinh nghiệm của bạn. Bạn có
thể luyện tập cho bốn nguyên nhân ấy như thực tập Thiền định hằng ngày
của bạn cũng như sự cầu nguyện trong hằng tháng, hằng năm. Bạn nên giữ
việc lập lại danh hiệu Ngài để cầu nguyện và tụng những Thần chú hàng
trăm, hàng ngàn hay hàng triệu lần như vậy.
Nếu các bạn đã thực tập
trong bốn nguyên nhân ấy thì các bạn sẽ sanh về cõi Tịnh độ, ngay cả nếu
bạn đã chìm sâu vào những hành vi tội lỗi ngoại trừ hai hành vi sai trái
căn bản. Đầu tiên là hành động hủy báng giáo pháp. Nếu bạn đã chẳng tin
vào giáo pháp,
điều ấy sẽ chẳng thể được
nương tựa với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà),vì nguyên nhân căn bản
của việc tái sanh về cõi Tịnh độ là phải đặt niềm tin nơi giáo pháp.
Hành vi sai trái thứ hai là phạm vào tội ngũ nghịch như: giết Mẹ, giết
Cha, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng và làm cho thân Phật hư hoại. Tiêu
điểm chính yếu của bốn nguyên nhân này là sự cầu nguyện và thiền định
hướng về đức Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) cùng cõi Cực Lạc của Ngài. Đức
Phật là hóa thân của tất cả những bậc giác ngộ và sự biểu thị của chơn
lý vũ trụ. Cõi Cực Lạc được hiện ra với ánh sáng trí tuệ và năng lượng
trí tuệ của chư Phật tại cõi Tịnh độ.
Ngay cả các bạn chưa quy y
với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và ngay cả là một người Phật tử
đang thực hành 4 nguyên nhân sẽ được tạo ra vô số phước đức. Giòng suối
tâm thức của bạn và tất cả những sự biểu hiện trong ngôn từ và hành động
sẽ trở thành sự hòa bình và an lạc an toàn hạnh phúc trong việc tái
sanh.
Hãy quán tưởng một bầu không
khí có tính cách an toàn ở trước bạn, như cảnh giới Cực Lạc được tường
thuật ở chương 7 rằng: sáng chói tuyệt vời và đẹp đẽ; phồn vinh và trong
sạch; hoan hỷ và hòa bình được tạo nên bởi ánh sáng trí tuệ và năng
lượng trí tuệ. Ở giữa cõi kia được quán tưởng như một cung điện với sự
hiện hữu của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), giống như một núi ánh
sáng to lớn vĩ đại.
Vô lượng ánh sáng trí tuệ
được lưu xuất từ thân thể của Ngài, chiếu sáng đến khắp các vũ trụ và
những cõi Tịnh độ với sự hòa bình và an lạc to lớn. Ngài đang hướng về
các bạn và nhìn xem bạn đồng thời ở mỗi chúng sanh với trí tuệ toàn tri
của Ngài; sức mạnh vô địch, cũng như lòng từ bi không điều kiện, giống
như một người Mẹ đối với chỉ có riêng cho con mình.
Các bạn có thể cầu nguyện và
thiền quán về bốn nguyên nhân này cho chính bạn hoặc ngoài ra có một vài
người nào đó có thể làm điều ấy cho bạn, cho chính sự tái sanh của bạn
về cõi Cực Lạc. Bạn có thể thể hiện việc này cho những người khác, ngay
như họ đang chết hoặc còn sống. Hoặc giả bạn và những người khác có thể
thực hiện chung điều ấy với nhau cho chính bạn hoặc cho những người
khác. Tuy nhiên những hình thức lễ bái sau đây được lập lại ngay cả nếu
bạn thực hành cho chính bạn và cho sự lợi ích của chúng sanh.
Với sự tin tưởng lớn lao, sự
quy ngưỡng, sự sẵn sàng và hoan hỷ tập trung vào nơi đức Phật và thiền
quán cho bốn nguyên nhân. Hình thức lễ bái này có bốn phần. Đó là sự
thực tập có tính cách ban đầu; sự thực tập chính cho bốn nguyên nhân là
sự tái sanh về cõi Cực Lạc; thần chú và danh hiệu; cuối cùng là kết thúc
việc thực tập.
Dự bị thực
tập
Quy y
Từ nơi sâu thẳm của nội tâm
bạn, dùng sự nương tựa tối hậu với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà),
trong giáo pháp, sự dạy dỗ, con đường luyện tập và sự đạt được thuộc về
lãnh vực tinh thần và với Tăng Già; cộng đồng có tính cách tinh thần của
các vị Bồ Tát, các vị A La Hán và những người quy y.
Lập lại 3 lần như sau:
“Đối với đức Phật, giáo
pháp và Tăng già
Con xin nương tựa cho đến
khi con đạt thành giác ngộ
Với phước đức của sự
khoan dung và cho những người khác
Xin cho con đạt thành quả
vị Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh”.
Phát Bồ đề tâm
Với tình yêu diệu hiền được
phát sanh, lòng từ bi, sự hoan hỷ đồng tình và sự tĩnh lặng hướng đến
tất cả những chúng sanh như là sự hướng về chính người Mẹ của bạn. Hãy
suy nghĩ rằng bạn sẽ cầu nguyện và thiền quán cho sự lợi ích của tất cả
chúng sanh để sanh về cõi giới Cực Lạc.
Lập lại 3 lần như sau:
“Xin nguyện cho tất cả
chúng sanh vui với hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc.
Cầu nguyện cho tất cả
được thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của sự khổ đau.
Cầu nguyện cho tất cả
chẳng hề phân chia những hạnh phúc cao cả, sự tự do từ những nổi khổ
Cầu nguyện cho tất cả sự
bình tĩnh mãi mãi tồn tại, tự do cả hai sự chấp trước để quan hệ và
ngược lại với sự sân hận”.
Bốn nguyên nhân
vãng sanh cõi Cực Lạc
Để được sanh về một trong
những cảnh giới Tịnh độ, các bạn phải chuẩn bị và cố gắng bởi chính bạn.
Điều này kể cả sự Tẩy tịnh cho những nghiệp bất thiện và những hành vi
tích chứa công đức với sự trắc định của bốn nguyên nhân. Sự lược thuật
sau đây là những việc căn bản được viết bởi đại sư Dodrupchen Rinpoche
thứ 3, người đã căn cứ vào kinhAmitabhavyuha Sutra (kinh A Di Dà), nhớ
lại điều căn bản của 4 (hay ít nhất là 3) nguyên nhân cho sự tái sanh về
cõi Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà).
Nguyên nhân đầu
tiên: Nhớ nghĩ về cảnh Tịnh độ
Nguyên nhân đầu tiên là nhớ
về và hồi tưởng đến cấu trúc đẹp đẽ thật ngạc nhiên, không khí an lành
và cảm giác hoan hỷ của cảnh giới Cực Lạc, cứ lập đi lập lại mãi như
vậy.
Cõi Cực Lạc có một không khí
tuyệt đối an bình cũng như hoan hỷ, phát ra ánh sáng tươi đẹp, là một
cõi phồn vinh cũng như trong sạch, nơi đó không hề biết đến sự khổ. Ở đó
không có khái niệm hay biểu hiện tính cách khổ não như tham lam, sự hỗn
loạn và sân si. Tất cả đều được tạo nên bởi ánh sáng trí tuệ và năng
lượng trí tuệ của sự hòa bình tối cao và hoan hỷ. Đây là thiên đường
không có giới hạn bởi núi non và những cánh đồng ánh sáng; sông núi ao
hồ cũng bằng ánh sáng, vườn tược và hoa trái cũng bằng ánh sáng; cây
trái bằng ánh sáng; đường xá và nhà cửa bằng ánh sáng. Được chứa đầy với
vô số chúng sanh dự tri của những tia sáng ở hình thái khác thường cùng
với y phục và những sự hoạt động. Họ bay đi qua không gian và di chuyển
xuyên qua vũ trụ ở trạng thái hòa bình và an lạc tuyệt đối. Những chúng
sanh ấy thăm viếng vô số cõi Tịnh độ khác và nhận được những lời dạy
cùng những sự gia trì. Bất cứ vật gì mà các bạn cần, đều được hiện ra.
Âm thanh của những lời giáo huấn ấy cũng như pháp âm đầy dẫy khắp nơi.
Tất cả những ai tồn tại nơi ấy đều ở trong trạng thái tối cao của hòa
bình và hoan hỷ.
Ở ngay chính giữa, ở phía
dưới cây giác ngộ vĩ đại ấy là đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà). Thân
đoan chánh của Ngài và thân thể trẻ trung với ánh sáng đỏ được trang sức
với những chứng tích của những chúng sanh thượng thặng. Ngài ở ngay
chính giữa biển trí tuệ giác ngộ của chúng sanh cùng với tám vị Bồ Tát,
các Ngài gồm đức Quán Thế Ấm và Ngài Đại Thế Chí. Toàn thể khung cảnh ấy
chứa đầy những tia ánh sáng từ thân thể của Ngài. Tình yêu thương của
Ngài không có giới hạn, trí tuệ toàn tri và năng lực biến khắp để phụng
sự cho tất cả chúng sanh không chấm dứt.
Bạn phải ứng dụng bốn năng
lực ấy để chữa trị. Những hình ảnh thiện lương, ngôn từ, cảm giác và
niềm tin tưởng – qua khỏi và cao hơn nữa với thể lực hồi tưởng lại của
bạn về cảnh Tịnh độ.
1)
Hãy quán tưởng chi tiết của cõi Cực Lạc
như đã giới thiệu trong chương 7
2)
Hãy nghĩ về chi tiết của cõi Tịnh độ và
phẩm chất của cõi kia với ngôn từ và sự cầu nguyện.
3)
Hãy hoan hỷ với cảm giác của sự tồn tại
kia và sự gia trì từ chỗ thẩm sâu nơi tâm thức của bạn
4)
Hãy tin tưởng rằng cõi Cực Lạc với đức
Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) đang ở trước mặt bạn và hãy tin rằng với
năng lực của lời nguyện của đức Phật sẽ hướng dẫn bạn tái sanh về thế
giới Tịnh Độ.
Ở vào thời điểm quá vãng,
tâm thức của bạn sẽ được tự do từ sự hạn chế phụ thuộc bởi thân thể vật
lý của bạn cũng như nền văn hóa bao bọc chung quanh bạn. Như vậy trong
khi bạn đang sống nếu bạn muốn gieo trồng tập quán xem xét cũng như cảm
nhận về cảnh Tịnh Độ trong tâm của bạn thì khi chết sự lý giải của bạn
sẽ có tính cách tự phát trổi dậy như là một cảnh Tịnh Độ chơn thật và
bạn sẽ tìm lại được bởi chính bạn ở trong ấy. Thế rồi việc tái sanh về
cảnh giới Cực Lạc sẽ là chuyện tự nhiên.
Không phải bất cứ ai cũng sẽ
được diện kiến đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và cõi Cực Lạc của Ngài
giống nhau. Sự lý giải của chúng ta từ sự đạt được tinh thần của chúng
ta. Một vài người sẽ thấy cõi Tịnh độ như là hiện thực; những người khác
sẽ thấy cõi ấy như là sự biểu thị của cõi Tịnh độ. Tuy nhiên trên thực
tế của cõi Cực Lạc chỉ là một.
Nếu bạn giác ngộ thì bạn sẽ
gặp đức Phật Vô Lượng Quang như là đức Phật trong hiện tại, với trí tuệ
căn bản bạn sẽ nhìn thấy cõi Tịnh độ của Ngài như là cõi Tịnh độ hoan
hỷ, sức mạnh và ánh sáng của trí tuệ có tính cách căn bản của chính nó.
Tất cả những hình tướng và kinh nghiệm sẽ hiện hữu một cách tự nhiên
không khác hai. Tất cả đều thể hiện như là thiên nhiên chơn thật và chất
lượng trong sáng. Những lời dạy của đạo Phật gọi cảnh Tịnh độ này là:
“Cõi Tịnh độ với thân thể hỷ lạc’’ (báo thân của Phật quả). Sanh về thế
giới tốt đẹp hơn bất cứ nơi nào khác. Đó là sự thể đắc của vũ trụ, sự
phổ biến Phật quả với chính những điều không thể phân ly của Tịnh Độ.
Nếu bạn là một người quy
ngưỡng bình thường thì ngược lại, bạn sẽ gặp đức Phật cũng như cõi Tịnh
độ của Ngài như là một thế giới đầy an lạc và hoan hỷ được chứa đầy ánh
sáng giác ngộ của chúng sanh với tình yêu thương không có điều kiện, trí
tuệ toàn tri và năng lực không giới hạn. Thế nhưng bạn sẽ nhận ra thế
giới này như một thế giới nào đó ở bên ngoài, giống như là một cảnh giới
khác vậy. Bạn cũng sẽ hoan hỷ không thể nói hết được sự hòa bình và an
lạc. Thế nhưng bạn sẽ vẫn trải qua kinh nghiệm của những sự vật này với
tâm hồn có tính cách nhị nguyên, hãy xử dụng những cảm giác và những sự
cảm kích ấy. Tất cả mọi vật sẽ là chủ đề để thay đổi. Những lời giáo
huấn gọi trạng thái này của cõi Tịnh độ là ‘Tịnh độ của ứng hóa thân’
(nirmanakaya). Việc vi diệu là con người ở đó giống như bạn và tôi –
Trên thực tế thì tất cả mọi chúng sanh – có thể sanh ra tại đây. Và khi
ở đấy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thối lui, nhưng luôn luôn tiến hành với
sự sanh trưởng tinh thần. Như thế một ngày nào đó chúng ta sẽ thể đắc
được cõi Tịnh độ với thân thể hoan hỷ của Phật quả.
Để sanh về cõi Tịnh độ biểu
thị này, chúng ta phải rèn luyện bốn (hay ba) nguyên nhân này.
Nguyên nhân thứ
hai: Tích tụ phước đức
Bạn phải tạo ra phước đức
như là những chủng tử để bạn tái sanh về cõi Cực Lạc. Với thiện nghiệp
hoặc phước đức được tích chứa với hoàn toàn sự tin cẩn bởi tính chất
lương thiện và những hành vi vật lý là có tính quan trọng cho một vài
kết quả của sự hòa bình và hạnh phúc, đặc biệt để cho sự tái sanh về cõi
Cực Lạc. Điều ấy có thể làm qua việc cúng dường, tặng quà cáp, phụng sự
cho những người khác, tụng kinh cầu nguyện, sám hối những hành vi tội
lỗi, bảo hộ mạng sống và sự đồng tình chăm sóc, sự dễ dãi, hòa bình, quy
ngưỡng, sự chú ý và sự suy niệm.
Nguyên nhân thứ
ba: Phát triển tâm giác ngộ.
Để phát triển tâm thức giác
ngộ hay Bồ đề tâm, bạn phải thệ nguyện hoặc là quyết tâm hướng dẫn cho
tất cả chúng sanh, không kể bất cứ họ là ai; cảnh giới Cực Lạc chẳng
phải với một tâm ích kỷ và bạn phải thật là nhiệt thành và trong sự thực
hiện xuyên qua thiền định và những hành vi hữu ích.
Tuy nhiên sự lập lại của
kinh điển, Ngài Dodrupchen đã chỉ trích rằng sự phát Bồ Đề tâm là chẳng
phải điều kiện thuộc về bản chất cho sự tái sanh cõi Cực Lạc. Thật vậy
sự phát triển tâm thức giác ngộ sẽ giúp bạn chắc rằng sự tái sanh về
cảnh giới Tịnh Độ và cũng sẽ làm cho bạn được nhiều hiệu quả hơn một khi
mà bạn đã được sanh về đó. Ngài Dodrupchen còn thêm rằng tạo ra một sự
hứa hẹn hay sự quyết tâm có nhiều năng lực hơn là tạo ra một sự nhiệt
thành. Ngài còn viết rằng: Để hoàn thành một vài nhiệt vọng ấy, điều
quan trọng là phát triển mạnh ý chí hoặc thệ ước như suy nghĩ rằng: “Trong
hầu hết cuộc đời liên tục của tôi, tôi sẽ thực hiện trong bản chất của
lòng từ bi và tánh Không, là con đường của đạo Phật”. Như các bạn
biết đó, tư tưởng “tôi sẽ dậy sớm trong buổi sớm mai” đã là một
sức đẩy lớn trong sự đánh thức thời gian hơn là tư tưởng “tôi có thể
dậy sớm trong buổi sáng chăng?’’
Nguyên nhân thứ
tư: Hồi hướng và phát nguyện.
Nguyên nhân thứ tư là việc
hồi hướng tất cả những công đức như là duyên khởi để được tái sanh về
cõi giới Cực Lạc và tạo ra một sự nhiệt thành cho cùng mục đích ấy. Ngay
cả nếu bạn có phước đức, bạn cần gia sức thêm vào đó cho mục đích có
tính cách đặc thù bởi sự hiến dâng ấy và tạo nên việc nhiệt tâm cầu
nguyện trong nhiều lần sự phụng hiến và sự nhiệt thành ấy chẳng phải là
một cách đơn thuần để phát triển phước đức như là những chủng tử để tái
sanh về Tịnh độ mà những việc ấy cũng có nghĩa là có tính cách mạnh mẽ
của việc tạo ra phước đức của chính nó.
Nếu bạn tưởng tượng rằng đức
Phật đang ở trước bạn, Ngài đang lắng nghe để gia hộ cho sự cầu nguyện
và sự nhiệt thành của bạn, thì những kết quả về sự cầu nguyện của bạn sẽ
đầy đủ năng lực hơn cũng như hiệu quả tốt hơn.
Để hoàn thành sự cầu nguyện
chân thành, điều quan trọng để trả lời, đó là nguồn năng lực để nương
vào. Như vậy thì rất là quan trọng cho việc nương vào một vị Thánh, như
là đức Phật Vô Lượng Thọ, đức Phật Tâm Từ Bi hoặc là đạo sư Liên Hoa
Sanh.
Những nguồn năng lượng này
phải là những ai đã hướng về các Ngài và với người mà các bạn chắc chắn
rằng nối kết được qua sự cầu nguyện và thiền định. Các bạn phải thừa
nhận rằng nguồn năng lực ấy giống như việc cụ thể của một trong tất cả
những đấng tối cao. Hãy cầu nguyện nơi các Ngài cho sự thành tựu của tất
cả những sự nhiệt thành của các bạn.
Lời dạy về bốn nguyên nhân
để được tái sanh về cõi Cực Lạc, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:
“Nầy A Nan ! ở đó có
những người họ suy nghĩ chi tiết về đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Tịnh
Độ của Ngài, lặp đi rồi lặp lại. Họ sáng tạo ra nhiều những phước đức
không thể tính đếm được. Họ phát tâm Bồ đề nhiệt thành để được tái sanh
về cõi Tịnh Độ. Khi mà họ chết, đức Phật Vô Lượng Quang trước họ hiện ra
đầy đủ giác ngộ, – với vô lượng Thánh chúng - đối với những người hư
hỏng Ngài sẽ thể hiện ra với một người theo cùng của vô số những người
khổ hạnh, rồi nhìn nơi họ. Họ được gặp Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và
họ chết với tâm hồn trong sáng lớn lao. Như vậy họ sẽ được tái sanh vào
vũ trụ của cõi Cực Lạc.”
Hoặc giả cũng cùng kinh đó
đã dạy rằng: Bạn cũng có thể cố gắng bởi chính bạn trong ba nguyên nhân
(nguyên nhân đầu, thứ hai và thứ tư; không có phát Bồ đề tâm đi kèm) và
cũng vẫn được sanh về cõi giới Cực Lạc. Hãy suy nghĩ về chất lượng của
cõi Tịnh độ nhiều lần như vậy, hãy tạo ra nhiều phước đức như bạn có
thể và hãy hồi hướng những phước đức ấy cùng với sự nhiệt thành và nói:
“cầu xin chúng sanh con được tái sanh về cõi giới Cực Lạc’’.
Hình thức cầu
nguyện của bốn nguyên nhân
Hãy suy nghĩ về hoặc quán
tưởng sự hiện hữu của cảnh giới Cực Lạc, một thế giới với sự hoan hỷ
tràn đầy và sự an lạc như đã mô tả trong chương 7. Ở chính giữa là đức
Phật Vô Lượng Quang, đang đoái nhìn bạn và đang suy nghĩ về bạn và tất
cả chúng sanh với trí tuệ, lòng từ bi cũng như hùng lực. Cõi Tịnh Độ này
chứa đầy vô số chúng sanh giác ngộ ở hình thức khác thường, hình dáng
mạnh khoẻ và đa dạng. Với sự quy ngưỡng trọn vẹn và tỏ ra tôn kính.
Trong một
đất nước cao cả ở về hướng phía Tây
Có cõi Cực Lạc của đức
Phật , hoàn toàn chẳng ô nhiễm
Được thành tựu bởi năng
lực cũng như sự nhiệt thành trong sáng và ở đó là đức Phật tối thượng.
Cũng như các đệ tử của
Ngài. Tất cả đều không thể tưởng tượng được sự trang nghiêm một cách
tuyệt đối. Với Ngài, con xin tôn kính.
Kế tiếp, với tâm quy hướng
và với âm thanh ngọt ngào, tán, tụng những giòng chữ sau đây cũng như
hãy Thiền tập êm dịu ở những ý nghĩa ấy, lặp đi lặp lại nhiều lần.
Con tôn kính sự gia trì
của Ngài, đức Vô Lượng Quang
Suy nghĩ về
chất lượng của cõi Tịnh độ
Con hồi tưởng lại cõi Cực
Lạc, cứ thế và cứ thế
Con nhớ đến Ngài, đấng Vô
Lượng Quang, từ nơi sâu thẩm của tâm con
Con hồi tưởng đến biển
chiến thắng của các đệ tử với sự nhất tâm.
Sự câu hội ấy, canh phòng
cho những ai chưa hề có được – xin gia hộ cho chúng con
Bảy lần tích tụ
phước đức
Một đấng đại từ, người
bảo hộ, đến với bạn
Con cúi đầu đảnh lễ với
sự tôn kính. Con hiến dâng biển mây để cúng dường. Con tự hối tất cả
những hành vi sai trái của con và những khuyết điểm. Con hoan hỷ trên
tất cả những đức hạnh.
Hãy xoay chuyển bánh xe
pháp, hãy ở lại, xin đừng vào Niết Bàn.
Phát Bồ Đề Tâm
Là động cơ cho tất cả
chúng sanh, không giới hạn bởi vũ trụ
Để đạt thành trạng thái
giác ngộ tròn đầy,
Sự thành tựu tổng thể của
Phật Tịnh độ,
Với biển giác ngộ nhiệt
thành và là những chủng tử - cầu xin cho con được thành tựu.
Sự hồi hướng và
phát nguyện
Bởi năng lực của phước
đức, kể cả điều này, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh và con,
Trong đời sống tiếp đến
của chúng con, ở cõi giới Cực Lạc
Đẹp đẽ với sự vi diệu
được phối trí của phép lạ
Xin được tái sanh và
hưởng niềm vui của tối thượng thừa (đại thừa).
Thần chú và hồng danh cầu
nguyện
Thần chú của đức Phật Vô
Lượng Quang
OM AMITABHA HRI (Án A Di Đà
Hồng)
Ý nghĩa của thần chú là: “Thân
thể, lời nói và tâm của chư Phật, đức Phật Vô Lượng Quang, xin hãy cho
sự gia trì của Ngài lên chúng con’’.
Ý nghĩa của từng chữ của
Thần chú ấy bằng tiếng Sanskrit được hiểu như sau:
OM (a,o, m): lời nói, thân
thể và tâm thức của chư Phật và ba cánh cửa của một hợp nhất (hoặc: ô!)
AMI (vô hạn): tất cả trải
rộng ra, không hạn định
TABHA (ánh sáng): sự gia
trì, chiếu tỏa, sức mạnh
HRI: dấu hiệu tâm chủng tử
của đức Phật Vô Lượng Quang. Để nói chữ HRI bạn phải tiến xa hơn hoặc
kêu gọi lòng từ bi và quả tim trí tuệ của đức Phật.
Hãy lặp lại thần chú này
100, 1.000 và 1.000.000 lần
Hồng danh cầu
nguyện đến đức Phật và chư vị Bồ Tát
Gọi danh đức Phật Vô Lượng
Quang (A Di Đà) (tiếng Sanskrist là Amitabha, tiếng Tây Tạng Opagme)
tụng tên của người cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sanskrist
hay tiếng Việt Nam. Lặp lại 21 lần, 100 lần và hàng ngàn lần như vậy.
Để được một sự gia trì,
đến một bậc Như Lai.
Tương ưng với một, hoàn
hảo,
Đầy đủ giác ngộ, bảo hộ,
Vô Lượng Quang, con xin quy kính, làm việc cúng dường và trở về nương
tựa.
Gọi danh của vị Bồ Tát Từ Bi
(tiếng Sanskrist: Avalokiteshvara; tiếng Tây Tạng: chenrezig), đọc tên
của Ngài cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sankrist hay tiếng
Việt. Lặp lại sự cầu nguyện ấy 7 hay 20 lần.
Với các vị Bồ Tát Ma Ha
Tát, với lòng từ bi của Ngài, cao quý đức Quán Thế Ấm, con xin quy kính
Ngài, xin cúng dường và xin nương tựa.
Gọi tên vị Bồ Tát với sức
mạnh (Đại Thế Chí) (tiếng Sanskrist : Mahasthama – prapta; tiếng Tây
Tạng: Thuchenthob) khi đọc tên Ngài cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay
tiếng Sanskrist hay tiếng Việt.
Lặp lại sự cầu nguyện ấy 7
hoặc 20 lần.
Với Đại Bồ Tát Ma Ha Tát,
đấng đầy đủ năng lực phi thường, con quy kính Ngài, xin cúng dường, xin
về nương tựa.
Phần thực tập sau cùng: Sự
hồi hướng và nhiệt vọng của người cầu nguyện
Như sự vinh quang thể đắc
của Ngài Văn Thù Sư Lợi cũng như đức Phổ Hiền
Trong việc luyện tập bởi
chính con bởi những điều sau
Con xin hồi hướng tất cả
những phước đức đến tất cả những chúng sanh
Tất cả chư Phật trong ba
đời
Với sự tán thán cao cả
cho sự hồi hướng công đức cho kẻ khác. Như thế tất cả những hành vi đức
hạnh của chính con
Tổng thể con đều phụng
dâng cho những hành vi tuyệt hảo cho kẻ khác
Trong khoảnh khắc con ra
đi,
Con xin nguyện cầu cho
những nghiệp lực hắc ám của con sẽ đi khỏi.
Cầu nguyện cho con gặp
được đức Phật Vô Lượng Quang, mặt đối mặt, và cho con bước sang cõi Tịnh
độ.
Khi đến đó được rồi, tất
cả lòng nhiệt thành của những hành vi tốt đẹp,
Con xin nguyện thể đắc và
không có ngoại lệ nào .
Bởi tổng thể sự chứa đầy
tất cả sự nhiệt thành không có ngoại lệ nào
Nguyện con phụng sự tất
cả chúng sanh dài lâu khi vũ trụ này còn.
Trong sự hội tụ tuyệt đối
an lạc của đấng Thắng Lợi
Cầu cho con được sanh về
nơi tuyệt diệu của bông hoa Thánh thiện
Bởi đức Phật Vô Lượng
Quang, trực tiếp
Cầu cho con được thọ ký
để được ngộ.
Được đón nhận sự thọ ký
tuyệt đối
Với trăm triệu lần biểu
thị của con
Và với năng lực trí tuệ
của con trong tất cả mười phương
Xin cầu cho con lợi lạc
với vô số sự lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Với sự gia trì của đức
Phật, Ngài có ba thân Phật
Bởi sự gia trì của giáo
pháp tối hậu, không thể thay đổi được chân lý
Bởi sự gia trì của Tăng
Già, là đoàn thể không thể chia cắt được
Cầu cho tất cả những sự
hồi hướng này và những sự nhiệt thành sẽ thành tựu như con đã dụng tâm.
Sự giải thích về việc hữu
ích của sự hồi tưởng và lặp lại hồng danh của đức Phật Vô Lượng Quang,
đức Thích Ca Mâu Ni đã dạy rằng:
“Này Xá Lợi Phất! Nếu có
thiện nam hay thiện nữ nào của những gia đình tốt đẹp, đã có lần nghe
đến danh hiệu của đức Phật Vô Lượng Thọ (Vô Lượng Quang) hãy giữ tên
Ngài trong tâm của họ không tán loạn trong một đêm, hai đêm, ba đêm, bốn
đêm, năm đêm, sáu đêm, hoặc bảy đêm - rồi thì khi người con trai hay
người con gái trong gia đình tốt ấy qua đời, ông ta hay bà ta sẽ làm như
vậy không động loạn thì đức Phật Vô Lượng Quang sẽ cùng với những người
đệ tử đều là những vị Bồ Tát sẽ hiện ra ở trước ông hay bà ta.
Ông ta hay bà ta sẽ sanh về cõi Cực Lạc của sự gia trì, rồi ra đi,
đến với đức Phật Vô Lượng Quang.”