Chương 02
Hấp
Hối
Thời Khắc Quan Trọng Của Cuộc Đời
Cái chết đến
với tất cả một cách tự nhiên. Cái chết là ngả tư dẫn tới tương lai.
Chúng ta phải đối xử với nó
bằng
sức mạnh kinh nghiệm
Thiền.
Trong chương này chúng ta sẽ xét tiến trình chết và cách đối xử với
cái chết khi nó xuất hiện, gồm cả trí thức và kinh nghiệm của một số "delog"
là những người đã trải qua tiến trình chết và trở lại thế gian để kể
những kinh nghiệm của mình.
Với sự xuất hiện của "cơn chí tử", những bệnh tật, bị thương, hay
những sự kiện khác đưa đến cái chết, chúng ta bước vào tiến trình chết.
Trong tiến trình chết, những thành phần tạo nên thể xác và tâm trí đều
sẽ tan rã tất cả. Đối với những hành giả thành tựu, tiến trình chết kết
thúc với sự xuất hiện của chân tánh. Đối với người thường, tiến trình
chết kết thúc với sự ngừng thở và rơi vào vô thức của sự chết.
Đa số mọi người sẽ trải qua những kinh nghiệm về tiến trình chết
được mô tả ít nhiều dưới đây, nhưng những hành giả thành tựu trọn vẹn có
thể không cần trải qua những kinh nghiệm này. Khi sắp chết, với sức mạnh
thiền quán, chúng ta có thể hợp nhất chân tâm của mình với cõi chân
không và trí tuệ, đó là Phật quả. Nếu chứng ngộ và duy trì sự hợp nhất
này, như vậy chúng ta đã đắc Phật quả. Nếu không thể làm được như vậy,
thì qua pháp Phowa, chúng ta có thể chuyển di thần thức tới một
cõi tịnh độ của các vị Phật và tái sinh ở đó.
Tiến trình chết
Khi bước vào tiến trình chết, hay lúc hấp hối, thần thức dần dần
rời khỏi thể xác khi những thành phần sắc, thọ, tưởng, hành, thức của
thân tâm bắt đầu tan rã. Trước hết những tinh lực của thể xác trở nên
hỗn loạn, rồi sau đó, chúng ta trải qua sự phân hủy của năm thành phần
nói trên.
Những nguyên tố và những tinh lực của cơ thể
Để có thể theo dõi tiến trình phân giải được mô tả dưới đây, chúng
ta nên hiểu một ít chi tiết về cơ thể con người dựa theo huyền học Phật
Giáo. Mỗi phần tử của cơ thể được cấu tạo bởi bốn yếu tố hay sự phối hợp
của chúng: đất, nước, gió và lửa. Đất làm thành những phần cứng của cơ
thể như xương và thịt; Nước là những chất lỏng như máu, bạch huyết và
nước tiểu; Lửa là thân nhiệt và sự trao đổi chất; Gió là hơi thở cũng
như sự di chuyển của các chất và các tinh lực của cơ thể. Còn có nguyên
tố thứ năm, không (không gian), chứa đựng bốn nguyên tố kia. Về mặt thể
xác thì nó tương ứng với những khoảng không trong cơ thể.
Thêm vào những phương diện vật chất của cơ thể là hệ thống những
lực tinh tế ở bên trong. Ba thành phần là hệ thống tinh lực là khí, kinh
mạch và tính chất.
Kinh mạch (tsa, nadi) là mạng lưới vô số kinh mạch tạo thành những
đường dẫn tinh lực của cơ thể. Ba kinh mạch chính là kinh mạch trung
ương, kinh mạch phải và kinh mạch trái.
Khí (lung, prana) là những sức mạnh của tinh lực thể hiện sự di
chuyển qua những kinh mạch. Có khi chúng được gọi là gió vì những hoạt
động khác của sinh lực:(a) khí đi lên, giúp sự nói, tiếng nói, và sự
nuốt; (b) khí đi theo lửa, gây ra sức nóng của sự tiêu hóa; và (c) khí
đi xuống, giúp những sự bài tiết.
Tinh chất (thigle, bindu) là những tinh chất lỏng trắng và đỏ di
chuyển qua những kinh mạch của cơ thể bằng tinh lực khí. Chúng được mô
tả là những giọt hay quả cầu lực sáng tạo cần yếu mà chúng ta nhận từ
Cha Mẹ vào lúc thọ thai. Tinh chất trắng là tinh lực nam từ Cha của
chúng ta, và tinh chất đỏ là tinh lực nữ của Mẹ. Trong tiến trình chết,
hai tinh lực này bắt đầu quy tụ ở tim. Sự quy tụ này là lúc chết.
Nhiều giáo lý huyền học Phật Giáo dùng những tinh lực của cơ thể
này làm phương tiện tu tập cần yếu. Thí dụ, Đạo Sư Tsele dạy các đệ tử
"tu luyện về kinh mạch như chỗ ở, về khí như sự di chuyển và về tinh
chất giác ngộ như sự trang trí". Khi chứng nghiệm đại lạc của tinh chất,
các hành giả di chuyển tâm và tinh lực của mình cùng với nhau qua những
kinh mạch, gieo tinh chất hoan lạc. Kết quả là họ đưa tâm và khí vào
kinh mạch trung ương và giữ nó ở đó không lay động. Như vậy kinh mạch
trung ương trở nên còn hơn là một kinh mạch của thể xác. Nó trở thành
đạo tu tập và quả chứng đắc, cõi vô thượng, thoát khỏi những hạn chế của
ý niệm, sự phân biệt, và những khuynh hướng.
Sự phân giải của các nguyên tố
Khi tiến trình chết bắt đầu, khí hay tinh lực, trước hết trở nên
hỗn loạn và bắt đầu phân tán, và chúng ta đi qua hai giai đoạn của sự
phân giải. Trong giai đoạn thứ nhất, tức là sự phân giải bên ngoài,
những lực của bốn nguyên tố vật chất: đất, nước, gió và lửa của thể xác
tan rã, và rồi các giác quan ngừng hoạt động. Trong giai đoạn thứ hai,
sự phân giải bên trong: những ý nghĩ và cảm xúc của tâm trí ngừng lại.
Mỗi giai đoạn này được kèm theo những chứng nghiệm nội tâm nào đó.
Những chứng nghiệm nội tâm diễn ra trong tiến trình chết có tính
chất gì? cần phải hiểu rằng khi chúng ta rút sự cảm nhận hướng ngoại vào
bên trong và tập trung tất cả sự chú ý vào những sự biến đổi đang diễn
ra trong cơ thể trong tiến trình chết, tất cả thế giới của chúng ta trở
thành sự kiện riêng biệt đó. Đối với chúng ta, toàn thể vũ trụ trở thành
những biến đổi diễn ra trong cơ thể của mình lúc đó. Đó là lý do những
sự biến đổi diễn ra dù chỉ trong một giọt máu sẽ có cảm giác trái đất
tan vỡ. Một sợi tóc trên đầu của chúng ta có vẻ giống như một cái cây
lớn. Thói quen sợ hãi cũng như những khuynh hướng và những cảm xúc khác
sẽ xuất hiện trong hình thức, hình ảnh những sinh linh, những cõi giới,
những âm thanh và những cảm xúc. Đây là một số những chứng nghiệm mà
chúng ta sẽ thấy được mô tả trong lời kể của các "delog" ở phần sau của
chương này.
Trước hết, nguyên tố đất của thể xác tan trong nguyên tố nước. Vào lúc
này chúng ta cảm thấy mình đang mất năng lực hay sự kết nối với nguyên
tố đất của thân xác vốn có những tinh chất cụ thể, sức mạnh, trụ tại chỗ
và ở trên mặt đất. Mặt của chúng ta xanh xao giống như cơ thể không còn
sinh lực. Chúng ta có thể cảm thấy mình đang rơi xuống hay chìm xuống,
và đất đang sụp ở phía dưới mình. Chúng ta không thể ngồi dậy hay đứng
lên được, chúng ta mất thăng bằng, và cảm thấy như dang bị ép bởi một
vật nặng. Đó là lý do những người hấp hối thường yêu cầu:" xin kéo
tôi lên. Tội cảm thấy như mình đang chìm xuống". Chúng ta có thể cảm
thấy mờ mịt và thấy những hình ảnh huyễn ảo.
Thứ hai, nguyên tố nước của thể xác tan trong nguyên tố lửa. Đến đây
chúng ta có thể cảm thấy mình đang mất năng lực nước hay sự kết nối với
nguyên tố nước vốn ướt, lỏng và chịu đựng. Chúng ta có thể cảm thấy rất
khát, Nước bọt nhểu xuống, nước mắt rơi rồi lại khô. Đó là lý do mà
người sắp chết thường yêu cầu:"Xin cho tôi chút nước, tôi khát nước".
Chúng ta có thể cảm thấy ngạt thở và khó chịu và thấy những hình ảnh
giống như khói xuất hiện.
Thứ ba, nguyên tố lửa của thể xác tan trong nguyên tố gió. Tới đây chúng
ta có thể cảm thấy mình đang mất năng lực lửa hay sự kết nối với nguyên
tố lửa vốn là hơi ấm, làm cho chín muồi và thiêu đốt. Nếu người hấp hối
đã là một hành giả thành tâm và có lối sống lập công đức với lòng từ bi
và phục vụ người khác, sự phân tán sức nóng từ cơ thể bắt đầu ở chân và
di chuyển lên phía tim. Nếu người hấp hối đã sống một đời xấu xa, hư
hỏng và vị kỷ thì sự phân tán sẽ bắt đầu ở phần thân trên và di chuyển
xuống phía tim. Trong cả hai trường hợp, rốt cuộc sức nóng sẽ phân tán
từ tim. Người đó có thể không còn trông thấy gì nữa, mọi thứ có vẻ giống
như những tia lửa đỏ trên một hậu cảnh tốt.
Thứ tư là nguyên tố gió của thể xác tan nhập vào thần thức. Vào lúc
này chúng ta cảm thấy bị mất năng lực gió hay sự kết nối với nguyên tố
gió vốn nhẹ và có tính lưu chuyển. Chúng ta cố gắng thở. Hơi thở vô trở
nên ngắn hơn và hơi thở ra dài hơn. Rồi "hơi thở bên ngoài" chấm
dứt và hai mắt trợn lên. Vào lúc này, những người đã sống đời sống không
tốt, có thể trông thấy ảo ảnh trong hình thức những hình ảnh đáng sợ,
còn những người đạo đức có thể trông thấy những hình ảnh vui vẻ. Chúng
ta cũng có thể trông thấy những hình ảnh giống như ánh sáng đèn.
Cuối cùng ý thức tan nhập vào cõi không. Vào lúc này "hơi thở
bên trong" chấm dứt.
Các nguồn tài liệu khác nhau có ý kiến khác nhau về lúc chấm dứt hơi thở
bên ngoài và bên trong. Lúc chấm dứt này xảy ra khác nhau tùy theo mỗi
người, vì mỗi người có những cá tánh riêng (individual natures) của họ.
Nói chung thì khi hơi thở của phổi ngừng lại sau ba hơi thở dài, thì đó
là lúc chấm dứt hơi thở bên ngoài. Khi thần thức rời thể xác hoàn toàn
thì đó là lúc hơi thở bên trong cũng chấm dứt.
Nếu cái chết của chúng ta là do nghiệp báo sẽ rất khó cho chúng ta
đảo ngược được sự chết. Nếu cái chết do hoàn cảnh bất ngờ, không do
nghiệp báo, chúng ta vẫn có thể được hồi sinh bằng phương tiện y khoa
hay tâm linh. Nhưng trong những trường hợp bình thường, chúng ta không
thể được mang trở lại đời sống như những delog. Họ đã đi xa hơn giai
đoạn này nhiều nhưng họ đã sống lại.
Ba sự phân giải bên trong
Khi hơi thở bên trong ngừng lại và tâm đã mất sự kết nối với những
nguyên tố của thể xác, những kinh mạch, khí và tinh chất của cơ thể cũng
sẽ phân rã. Hơi thở của chúng ta nhập vào hư không. Kết quả là trong lúc
đó, ba giai đoạn tan rã bên trong tinh tế, tinh tế hơn, và tinh tế nhất,
hay ba sự rút lui, sẽ diễn ra:
1.Thần thức tan nhập vào "sắc
tướng". Vào lúc
này, tinh chất trắng mà chúng ta đã nhận được từ Cha đi xuống từ đỉnh
đầu qua kinh mạch trung ương. Chúng ta thấy mọi thứ có màu
" hơi trắng", không sáng bóng hay trắng sáng như ánh sáng ban ngày,
mà trắng giống như ánh trăng trên bầu trời không mây. Tất cả ý nghĩ sân
hận chấm dứt.
2. Sắc tướng tan nhập vào "gia
tăng". Vào lúc này,
từ đáy kinh mạch trung ương ở bụng, tinh chất đỏ mà chúng ta đã nhận
được từ Mẹ đi lên kinh mạch trung ương. Mọi thứ có vẻ hơi đỏ, giống như
ánh sáng mặt trời lặn trên bầu trời không mây. Tất cả những ý nghĩ tham
chấp chấm dứt. Nhưng có những người chứng nghiệm hình ảnh hơi đỏ trước,
hình ảnh hơi trắng sau. Theo Đại sư Tsele, đây là lúc tốt nhất để làm
pháp chuyển di thần thức phowa.
3. "Gia tăng tan nhập vào "thành
tựu". Vào lúc này,
thần thức do lực của khí, trở nên được bao bọc giữa hai tinh chất Cha Mẹ
và mọi thứ trở nên "đen", giống như bầu trời không mây trong một đêm thu
không trăng. Đến đây, những ý nghĩ mê muội chấm dứt.
Bây giờ khí, tinh chất và thức tụ tập ở nơi tim. Sự kiện này được
gọi là hư không tan nhập vào quang minh. Sự xuất hiện của "quang minh
căn bản" sẽ diễn ra kế tiếp, báo trước sự đi vào giai đoạn kế đó, trạng
thái chân tánh, sẽ nói đến ở chương sau.
Sau sự tan nhập của hư không vào quang minh, người bình thường sẽ
rơi vào vô thức, nhưng có những lối diễn dịch khác nhau về những gì xảy
ra khi quang minh căn bản xuất hiện. Theo đạo sư Karma Lingpa thì ở giữa
sự chấm dứt của hơi thở bên ngoài và bên trong, nếu là hành giả cao cấp,
chúng ta sẽ thấy quang minh chân tánh khi khí của cơ thể đi vô kinh mạch
trung ương. Nhưng người bình thường thì sẽ trở nên vô thức và hơi thở
bên trong sẽ ngừng lại. Sau đó chân tánh quang minh sẽ xuất hiện. Jigme
Lingpa cũng viết: "Khi màu đen xuất hiện, sẽ bất tỉnh trong cõi không.
Và tám sinh lực xuất hiện trở lại và sự bất tỉnh sẽ tan biến. Lúc đó sự
sáng của trạng thái nguyên thủy sẽ xuất hiện. Trong sáng và lâu dài,
giống bầu trời mùa thu. Trụ trong chân không và quang minh, không mê
muội và không bị che phủ".
Kyabje Dudjom Ringpoche nói rằng khi khí tan nhập vào thần thức,
tâm trí sẽ rơi vào trạng thái vô thức lâu dài. Nhưng đối với các Thầy
thành tựu hay hành giả kinh nghiệm thì sau khoảng hai phút sự vô thức sẽ
tan nhập vào hư không và hư không sẽ tan nhập vào quang minh.
Cần phải biết một điều rất quan trọng, đó là không phải tất cả
những người hấp hối đều có cùng những kinh nghiệm theo cùng thứ tự.
Tsele viết rằng những lời giải thích về sự phân giải chỉ là những điều
tổng quát về cách người ta trải qua những chứng nghiệm đó, nhưng không
thể nói chắc là tất cả sẽ có những chứng nghiệm giống nhau. Mỗi người
người có một loại kinh mạch, khí và tinh chất khác nhau, và mỗi người sẽ
chịu một loại bệnh tật, lực xấu hay tại nạn (khi chết) khác nhau. Do vậy
sự phân giải có thể diễn ra cho mọi người theo những thứ tự khác nhau,
hay có thể diễn ra cùng lúc.
Những chứng nghiệm này kéo dài bao lâu ? Tsele viết rằng: "thời
gian diễn ra những sự phân giải bên ngoài và bên trong khác nhau. Đối
với đa số người, mỗi chứng nghiệm có thể kéo dài một khoảnh khắc, và ba
sự phân giải bên trong đặc biệt sẽ không kéo dài hơn một khoảnh khắc.
Chúng ta nên làm gì khi hấp hối ?
Những người bình thường nên làm gì đối với những giai đoạn phân
giải này ? Trước hết chúng ta phải cố gắng biết là mình đang ở trong
tiến trình chết. Chúng ta nên cố gắng giữ càng nhiều an tĩnh càng tốt
trong những chứng nghiệm về sự phân giải này và không hốt hoảng. Chúng
ta nên cố gắng nhớ rằng mọi sắc tướng và chứng nghiệm phù du chỉ là
những sự phản chiếu của tâm và cảm xúc của chính mình, giống như những
giấc mộng. Chúng ta không nên bám giữ vào chúng, khó chịu vì chúng, hay
sợ chúng. Chúng ta nên cảm nhận mọi thứ như con đường tâm linh của mình.
Trụ trong an tĩnh, chúng ta nên bình tĩnh để cho bất cứ tình trạng xuất
hiện và biến đi.
Chúng ta nên nhớ dùng bất cứ lối tiếp cận tâm linh hay kinh nghiệm
tâm linh nào mà mình đã quen thuộc trong đời sống. Những lối tiếp cận
tâm linh quen thuộc sẽ hiệu quả hơn và dễ hơn cho chúng ta.
Chúng ta nên nhớ đến nguồn gia hộ cho mình, như các vị Phật, các vị đạo
sư, những đối tượng tâm tốt, những giáo lý, những chứng nghiệm thiền
quán, và dùng những kinh nghiệm và ký ức này làm sự hỗ trợ tâm linh của
mình. Cố gắng nhớ những pháp môn tu tập của mình, tất cả những chứng
nghiệm tâm linh và những lực tâm linh của mình, rồi hợp nhất với chúng.
Cảm thấy các vị Phật, đạo sư và thần thánh luôn có mặt với mình, đang
bảo hộ và hướng dẫn cho mình. Từ các vị, hãy để cho ánh sáng an lạc,
chân không và oai lực, hoan hỷ đến với mình, tràn ngập mình và chuyển
hoá thể xác của mình thành thân ánh sáng giống như cầu vòng, tỏa ra an
lạc và sức mạnh. Rồi cố gắng an trụ trong thân tâm linh đó suốt tiến
trình chết.
Chúng ta phải liên tục nhắc nhở mình"Mình phải trụ với chứng
nghiệm tâm linh của mình". Điều này có ảnh hưởng tốt và thực sự giúp
chúng ta nhớ lại những kinh nghiệm của mình, ngay cả trong tiến trình
chết đầy khó khăn. Nếu trụ với chứng nghiệm của mình, tiến trình chết sẽ
bớt khó khăn và sẽ đưa chúng ta đến một cõi tịnh độ hay một sự tái sinh
an lạc và lành mạnh.
Nếu đã chứng ngộ chân tâm khi còn sống, chúng ta phải cố gắng nhớ
trụ trong ý thức về chân tánh này. Dù điều gì xảy ra cũng cố gắng thấy
tất cả chỉ là sự biểu lộ chân tánh của mình, thay vì theo đuổi và bám
giữ vào những ý nghĩ và những chứng nghiệm với sự chấp thủ hoặc sân
hận.
Nếu chúng ta đã được biết và tu tập về chân tâm và những linh ảnh
quang minh của nó, thì đây là lúc để trụ trong chứng nghiệm đó. Đây cũng
là lúc các hành giả nhắc nhở chúng ta về những chứng nghiệm mà chúng ta
đang trải qua. Longchen Rabjan khuyên: "Trong tiến trình chết, những
nguyên tố của thể xác sẽ phân giải. Người ta sẽ thấy những ảo ảnh mờ mịt,
méo mó. Rồi đất, nước, gió, lửa và hư không của thể xác sẽ phân giải.
Năm giác quan sẽ ngừng hoạt động. Lúc đó nên nhắc nhở mình: "Mình đang
hấp hối nhưng không cần phải lo ngại".
Rồi hãy xét :"sự chết là gì ? ai đang hấp hối? sự chết có ở đâu ?".
Sự chết chỉ là dấu hiệu trả lại bốn nguyên tố mà mình đã vay mượn.
Chân tánh là vô sanh bất tử.
Trong trạng thái thanh tịnh, chết là sự hợp nhất của chân không và
trạng thái tự nhiên của Pháp Thân tức Thân Vô Thượng".
Cứ xét :"sự chết là gì ? ai đang hấp hối? sự chết có ở đâu ?” Vì sự chết
không có ở đâu cả nên nó tuyệt đối không có thật. Hãy can đảm và tin
tưởng vào điều này.
Jigme Lingpa viết rằng trong tiến trình chết, điều tốt nhất để làm là an
trụ trong chân tánh. Điều tốt thứ hai là chuyển di thần thức đến một cõi
tịnh độ. Ít nhất thì cũng an trú trong Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Cầu
nguyện vị đạo sư của mình, và hợp nhất tâm của mình với tâm giác ngộ của
Ngài.
Guru Rinpoche khuyên chúng ta hãy tu tập, hãy cầu nguyện không bám
giữ một cái gì lúc chết, hãy nhớ lại những giáo lý, và hãy thiền quán
hợp nhất chân tánh của mình với chân không: "khi cái chết đến gần,
hãy buông bỏ sự chấp thủ vào bất cứ thứ gì, chú tâm vào những lời dạy
sáng tỏ không lay động, và chuyển di chân tánh vô sanh đến trạng thái
chân không".
Những lời dạy như vậy của các vị đạo sư về hấp hối và sự chết là
những điểm quan trọng để ghi nhớ và ứng dụng, không chỉ trong tiến trình
chết mà còn trong tất cả bốn giai đoạn chuyển tiếp của đời sống, kể cả
kiếp sống hiện tại này.
Kinh nghiệm chết của các delog
Để minh họa những gì xảy ra khi chúng ta vượt qua cửa tử, tôi kể
tóm tắt mười một bản tường thuật của các delog. Tất nhiên những chuyện
này là kinh nghiệm của cá nhân. Nên nhớ là người ta sẽ có những kinh
nghiệm chết khác nhau, vì những sự khác nhau về tâm trí, thể chất,
nghiệp quả, ảnh hưởng văn hóa, khuynh hướng thói quen, và hoàn cảnh lúc
chết của họ.
Như đã nói, các delog là những người rất mộ đạo, và nhiều người là
những vị Thầy thành tựu. Họ trở lại đời sống vì đã có những việc chưa
làm xong. Một phần kinh nghiệm của họ sẽ khác với những gì bạn hay tôi
sẽ gặp lúc chết, nhưng có thể có những sự tương đồng đối với những người
có bối cảnh, trí tuệ, cảm xúc hay văn hóa giống nhau.
Trong những lời kể này, chúng ta chú ý tới tiến trình chết. Chúng
ta sẽ trở lại với phần lớn những delog này ở chương 3 và chương 5, để
thấy kinh nghiệm sau khi chết đi tiếp như thế nào vào con đường của chân
tánh và cõi trung ấm bardo.
Những năng lực phân rã: kinh nghiệm của Karma Wangdrin
Karma Wangdrin đã chết trong bảy ngày. Ra đời ở Lhotrag, miền Nam
Tây Tạng, bà là người có học và mộ đạo. Chồng của bà là Depai Drung,
trưởng làng Oktra. Bà đã đến Tu Viện Traphu học giáo lý với Lama Norbu
Trashi, và đã thấy linh ảnh của Tara Trắng cũng như của đại sư Liên Hoa
Sanh.
Karma đã nhập thất một năm để cầu nguyện và hành thiền. Một hôm bà
bất ngờ ngã bệnh, không muốn ăn gì và không nhận ra những người thân
quen. Ngày hôm sau, một người bạn vừa khóc vừa nói với bà:"chị ơi,
mắt của chị sâu, mũi của chị gãy (những dấu hiệu của sự chết). Tôi có
nên gọi chồng chị đến đây không?".
Karma nghĩ thầm: "nếu mình không chịu nỗi một cơn bệnh nhỏ thì
việc mình tu tập có ích gì?" Rồi bà nói với người bạn: "cứ để
ngày mai". Nhưng ngay chiều hôm đó, bà cảm thấy lạnh, bà cảm thấy
khát nước, nhưng khi uống nước vào thì tràn ra ngoài mũi.
Những dấu hiệu lực tứ đại đang phân rã bắt đầu xuất hiện với bà. Bà
cảm thấy thân xác của mình chìm xuống dù các bạn kéo bà lên. Đó là dấu
hiệu những lực thể xác đang tan nhập vào nguyên tố đất. Miệng và mũi của
bà khô khan vì mất nước, nhưng dù rất khát, bà cũng không thể uống nước
được. Đó là dấu hiệu năng lực của máu tan nhập vào nguyên tố nước. Bà
run lên vì lạnh, dù được đắp những cái chăn ấm. Đó là dấu hiệu sức nóng
cơ thể tan nhập vào nguyên tố lửa. Bà cố gắng thở, nhưng khó thở vô hay
giữ hơi thở. Đó là dấu hiệu hơi thở tan nhập vào nguyên tố gió.
Khi ánh
sáng thị giác bắt đầu mờ đi từ khả năng nhìn, bà không thể thấy hay nhận
ra những gì ở xung quanh. Khi thính giác yếu đi, bà cũng không thể nghe
các bạn đang nói gì với mình. Khi mất kiểm soát hệ thần kinh, bà không
thể nói một tiếng nào nữa. Bà đã gần mất đi sự tiếp xúc với thế gian này
và đã sẵn sàng bước vào cõi giới mà mình sẽ đến.
Nhưng
trong suốt những sự kiện này, tâm của bà Karma vẫn sáng suốt, giống như
con cá trong làn nước trong trẻo. Bà nhớ rõ tất cả những người thân yêu
của mình nhưng biết rằng họ không thể giúp gì cho nhau được nữa. Đối với
bà, đã đến lúc phải đi một mình. Karma không tin rằng mình đã đạt được
một kinh nghiệm tu tập nào cả. Ký ức về tất cả những điều xấu mà bà đã
phạm diễn ra trong tâm bà, và điều này làm cho bà khóc trong lòng.
Kế tiếp là một tiếng động lớn, và hơi thở của bà hoàn toàn ngừng
lại. Bà chìm trong bóng tối cứ như một ngọn nến bị bất ngờ thổi tắt. Tất
cả lực tâm trí của bà rút vào trong tim, và bà rơi vào vô thức. Karma
bất tỉnh một lúc và không biết mình còn sống hay đã chết.
Hãy tạo công đức cho tôi: kinh nghiệm của Lingza Chokyi
Lingza Chokyi sinh ra ở xứ Kham, thuộc miền Đông Tây Tạng. Bà đã
bệnh nặng trong mười sáu ngày rồi và không có một lễ cúng hay một phương
thuốc nào có thể giúp cho bà khỏi bệnh. Bà nghĩ:"mình sắp chết. Khi
còn trẻ mình muốn đi tu, nhưng những người thân không cho mình rời khỏi
gia đình. Mình có biết một chút về giáo lý, nhưng có ít chứng nghiệm, vì
rất ít thực hành thiền quán, mình cũng đã không bố thí gì cả. Than ôi,
mình đã bỏ phí cả đời người quý báu của mình, mà kiếp làm người thì hiếm
có với đầy cơ hội tu tập đạt giải thoát. Bây giờ mình phải đi khỏi thế
gian đầy tiềm năng với hai bàn tay trắng. Đến lúc ân hận thì đã quá trễ".
Rồi bà nghĩ tiếp: "trước đây gia đình mình đã giết hai, ba chục
con trâu và cừu mỗi năm". Điều này làm cho Chokyi lo ngại vì sát
sanh là một trong mười giới cấm chính yếu của Phật Giáo và là ác nghiệp
mang lại đau khổ và sẽ bị đọa xuống địa ngục. Bà lại lo nghĩ: "bây
giờ người ta không chịu làm lễ cầu an cho mình. Như vậy có nghĩa là mình
sẽ phải đối diện với nghiệp quả xấu mà không có nghiệp quả tốt hay công
đức nào cả. Chồng và con của mình chỉ thích của cải vật chất. Họ keo
kiệt và có rất ít niềm tin vào đạo pháp. Nhưng dù sao mình cũng phải hỏi
họ là họ sẽ làm cho mình nghi lễ nào".
Chokyi gọi người thân đến bên giường rồi nói với chồng của mình "
tôi sẽ không qua khỏi cơn bệnh này. Bây giờ tôi có vài lời cuối cùng
để nói với ông. Trong đời tôi đã không tạo được công đức nào cả mà lại
tạo nhiều bất thiện nghiệp. Xin ông dùng một phần ba gia tài để lập
công đức cho tôi". Trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, thân nhân
của người quá cố dùng một phần khá lớn gia sản để làm lễ cúng, tụng niệm,
hành thiền, phát thực phẩm cho người nghèo, phóng sanh (như mua và thả
chim, thú hay cá), xây tháp, chùa, tu viện hay cúng dường chư Tôn Đức
Tăng Ni. Họ tin rằng những việc như vậy sẽ tạo công đức, thiện nghiệp,
đưa đến sự qua đời thanh thản và tái sanh an lạc cho người quá cố.
Chokyi nói tiếp: "một nửa đồ trang sức của tôi sẽ là của con gái
chúng ta. Một nửa sẽ dùng để tạo công đức. Dù làm nghi thức nào cũng xin
làm theo lối thuần túy giáo pháp. Nếu có thể, cả nhà hãy thực hành theo
giáo pháp một chút, nếu không lúc chết sẽ phải hối hận. Ít nhất hai con
trai của tôi cũng phải tu tập một chút. Xin đừng tục huyền để ba đứa con
của tôi phải khổ vì một người đàn bà khác. Hãy hứa với tôi là ông sẽ làm
những điều này".
Đến đây chồng bà lên tiếng: " nếu dùng một phần ba tài sản cho
bà thì chúng tôi sẽ ăn bằng cái gì ? con cái của chúng ta cần đồ trang
sức của bà cho riêng nó. Sau khi bà chết, tôi sẽ tục huyền để có người
trông coi nhà cửa. Mấy đứa con còn quá nhỏ để tự lập. Tôi sẽ dùng một
chút gì cho bà, nhưng không thể hứa là bao nhiêu".
Chokyi nghĩ: " ông ta sẽ không làm lễ cúng lớn nào cho mình. Tại sao
khi có cơ hội và khả năng mình lại không tự lập công đức cho mình? ông
ta sẽ tục huyền và mấy đứa con sẽ khổ. Tội nghiệp chúng nó quá".
Cuộc nói chuyện đã làm cho Chokyi buồn. Nỗi buồn này mang lại cảm giác
quay cuồng. Kế đó bà cảm thấy mình đang bị kéo xuống lòng đất, và bà bắt
đầu đi qua một số cảnh tượng đáng sợ. Bà cảm thấy mình đang bị đẩy xuống
bởi lực của nhiều người, trôi nổi đây đó trong một không gian rộng lớn,
và run rẩy với cái lạnh băng giá. Rồi bà có cảm giác thể xác của mình
đang bị thiêu ở một nghĩa địa thiêu xác chết, trông thấy những tia lửa
và nghe thấy tiếng hú của ngọn lửa, Khi cảm giác đó chấm dứt, bà bị thổi
đi bởi một cơn bão lớn. Rồi bà cảm thấy thể xác bị cắt thành từng mảnh
bởi nhiều người với những dụng cụ khác nhau. Tất cả những điều đáng sợ
này chỉ là hệ quả của sự kiện các nguyên tố đất, nước, gió, lửa tan rã
trong thể xác của bà.
Sau tất cả những cảm giác này, bà nhìn thấy những linh ảnh đỏ,
trắng và đen. Tiếp theo là cảm giác không còn trí nhớ hay ý thức và đây
là trạng thái phúc lạc lâu bền. Sau đó khi sống lại, bà không thể nhớ là
kinh nghiệm này đã kéo dài bao lâu.
Các vị Thần chết đã đến đưa mình đi chưa? kinh nghiệm của Denma
Sangye Seng-ge
Sangye ra đời gần Chabdo ở tỉnh Kham, miền Đông Tây Tạng. Ông học
với nhiều vị Thầy, kể cả Đức Karmapa thứ mười bốn (1798-1868).
Một hôm ở tuổi năm mươi lăm, ông cảm thấy đau nhói ở tim giống như
mình đã bị một viên đạn bắn trúng. Ông bắt đầu có những ảo giác kỳ lạ.
Ông không muốn ăn uống gì cả và có khi cảm thấy thể xác dường như sắp
loại bỏ mọi cơ quan nội tạng ra ngoài. Ông thấy thần kinh tay chân bị
kéo về phía tim.
Sangye sợ là mình sắp chết. Nhưng ông không thể làm gì để giữ mạng
sống của mình. Ông trở nên nhạy cảm với mọi thứ, đến mức bất cứ điều gì
xảy ra cũng làm cho ông lo sợ. Hơi thở của ông mỗi lúc mỗi ngắn hơn. Ông
đang chịu đau khổ và cảm thấy bất an giống như con chim bị bàn tay người
bóp nghẹt hay một con cá bị vất lên trên cạn. Ánh sáng trong mắt ông mờ
đi mau chóng. Rồi bỗng nhiên tất cả sắc tướng trở thành bóng tối.
Sangye đi qua một loạt những kinh nghiệm đau đớn khi lực của các
nguyên tố của thể xác bắt đầu phân giải. Có lúc ông cảm thấy rất khát
nước, cứ như là phần bên trong cơ thể đang bị thiêu đốt, và ông thèm
muốn một giọt nước. Những lúc khác, ông cảm thấy mình bị đè bởi một vật
nặng giống như một quả núi. Trong khoảnh khắc kế tiếp ông cảm thấy mình
đang bị thổi bay đi giống như một cộng lông trong cơn bão. Có những lúc
ông cảm thấy mặt trời và mặt trăng đang rơi xuống đất. Ông nghe thấy
những tiếng nổ lớn giống như hàng ngàn tiếng sấm cùng lúc, và trông thấy
hàng ngàn tia chớp đánh xuống đồng thời. Rồi ông cảm thấy một căn nhà đổ,
mà sự thật là chính thân thể của mình đang sụp đổ. Nhưng ngay khi những
hình ảnh và những cảm giác này xuất hiện chúng đã biến đi như một ảo
giác.
Rồi Sangye thấy nhiều tia lửa giống như đom đóm trên bầu trời đêm.
Có lúc chúng xuất hiện rõ ràng, có lúc không.
Sangye nhận xét: "những sắc tướng này xuất hiện là vì những lực
đất, nước, gió, lửa đang tan rã khi mình sắp chết". Nhưng rồi, đúng theo
bản chất con người, ông cảm thấy lo sợ. Nhiều câu hỏi kéo tới. "phải
chăng mình đang trải qua kinh nghiệm tan rã của tứ đại ? giống như trong
vô số kiếp trước, lúc chết lại đã đến với mình hay sao? các vị thần chết
đã đến để đưa mình đi chưa? mình sẽ không sống lâu hơn sao?".
Ông cảm thấy mình bị kẹt ở một nơi rất tối, mà thật ra chính là thể
xác của ông, bây giờ đã mất hết ánh sáng. Ở đó ông thấy chín lỗ hổng (mắt,
tai, mũi...) có thể giúp ông thoát ra khỏi nơi tối tăm đó. Ông nhìn qua
lỗ hổng dẫn thẳng lên trên và la âm HIK ba lần như đã được dạy trong
pháp chuyển di thần thức phowa. Việc này giúp ông thoát qua lỗ hổng thứ
mười, chỗ hở của sọ ở đỉnh đầu.
Theo Phật Giáo, vào lúc chết thần thức sẽ thấy mình thoát ra ngoài qua
một trong mười "cửa" (cửu khiếu và thiên môn). Nếu thần thức đi qua
những cửa ở phần thân trên thì điều này giúp hành giả tái sanh vào những
cõi hạnh phúc an vui. Các hành giả được dạy đóng kín cửa thấp, đặc biệt
là những cửa thấp nhất, với việc quán tưởng chữ HUM. Rồi họ di chuyển
thẳng lên qua kinh mạch trung ương với lực của tinh lực trong thiền quán
,và thoát qua khe hở trên sọ ở đầu trên của kinh mạch trung ương ở đỉnh
đầu.
Bầu trời không mây, giống ánh quang minh: kinh nghiệm của Dagpo
Trashi Namgyal
Dagpo Trashi Namgyal là người miền Trung Tây Tạng. Ông đã chết
được năm ngày. Ông bị đau nhức ở đầu và thân trên. Biết là cái chết có
thể đang tới, ông muốn biết những giáo lý về cõi trung ấm bardo.
Khi những nguyên tố của thể xác bắt đầu dần dần phân giải, ý thức
hướng ngoại của ông bắt đầu quay vào trong. Ông thấy linh ảnh ánh sáng
năm màu. Đây không phải là một thứ ánh sáng bên ngoài, vì ông đang nhìn
bằng mắt thần thức, một thứ ánh sáng ở bên trong chính mình.
Trước hết ông mất nhận thức những đối tượng của năm giác quan: sắc,
thanh, hương, vị và xúc. Khi thị giác mờ đi, ông không nhận ra những
người mình quen biết. Tai của ông không thể nghe, mũi không thể ngửi,
lưỡi không thể nếm, và thân không thể cảm thấy gì.
Nguyên tố đất của thể xác ông tan nhập vào nước và thể xác ông trở
nên nặng nề. Khi nguyên tố nước tan nhập vào lửa, miệng và mắt ông cảm
thấy khô khan, và ông cảm thấy khát nước. Những mạch máu của ông dường
như bị cuốn lại giống như một nùi chỉ. Rồi nguyên tố lửa tan nhập vào
nguyên tố gió, và thân nhiệt của ông bị gió phân tán.
Vì nguyên tố gió là tinh túy của chân tánh nên khi hơi thở bên
ngoài chấm dứt, thần thức của ông tan nhập vào ánh quang minh. Khi hơi
thở bên ngoài hòa vào hơi thở bên trong của ông, kinh nghiệm đầu tiên
của ba kinh nghiệm xuất hiện.
Trước hết ông nhận thấy "sắc tướng". Như dấu hiệu bên trong, những
giác quan của ông trở nên trong sáng. Những sắc tướng bên ngoài trở nên
hơi trắng, giống như ánh trăng. Những giác quan của ông thoát khỏi những
biến đổi tạm thời và ông cảm thấy rõ ràng và trong sáng.
Rồi "sắc tướng" hòa nhập vào "gia tăng". Như dấu hiệu bên trong,
ông trông thấy những tia lửa, giống như đom đóm. Như dấu hiệu bên ngoài,
ông trông thấy mọi thứ có màu hơi đỏ như bầu trời rạng đông.
Rồi "gia tăng" tan nhập vào "thành tựu". Những giác quan của ông
vẫn trong sáng trong vài khoảnh khắc. Ông trông thấy những ngọn lửa và
những ánh sáng như ánh đèn. Sự vô minh của ông về chân tánh chấm dứt.
Rồi xuất hiện bầu trời không mây, giống như quang minh. Nói cách khác,
ông bắt đầu chứng nghiệm sự hòa nhập quang minh vốn rất trong sáng giống
như bầu trời mùa thu không mây, một trạng thái không có lối nhận thức
thô kệch hay nhị nguyên về chủ thể (tâm) và đối tượng (vật).
Những cảm nhận lúc chết: kinh nghiệm của Samten Chotso
Ở tuổi mười chín, Samten Chotso người xứ Kham thuộc miền Đông Tây
Tạng, đã có kinh nghiệm cận tử (delog) trong bảy ngày. Những nguyên tố
thể xác của cô bất ngờ bị khuấy động và cô đã sửa soạn để chết. Những ảo
giác xuất hiện liên tục. Cô biết là mình đang hấp hối và cô bắt đầu có
những cảm nhận ảo giác sau đây.
Trước hết những nguyên tố và những giác quan của thể xác của cô bắt
đầu tan rã: khi những mạch máu của tim ngừng hoạt động, cô có cảm giác
một quả núi bị lật ngược. Rồi những mạch máu trong hai mắt ngừng hoạt
động, và cô cảm thấy như mặt trời và mặt trăng rơi xuống. Rồi những mạch
máu ở lưỡi ngừng hoạt động, và cô cảm thấy
không gian được soi sáng bởi những tia chớp. Kế tiếp
những mạch máu ở tai ngừng hoạt động, và cô nghe thấy hàng ngàn tiếng
sấm nổ ra cùng lúc.
Một delog độc đáo: kinh nghiệm của Dawa Drolma
Dawa Drolma (1910-1941) sinh ra ở Washul Thromtha, thuộc tỉnh Kham,
miền Đông Tây Tạng. Một trong mấy người con trai của bà là đạo sư
Chagdyd Tulku Ringpoche (1930-2002), là người đã sống và hành đạo tại
Hoa Kỳ và Brazil trong mấy chục năm nay.
đạo sư Chagdyd Tulku Rinpoche (1930-2002)
Dawa Drolma là người độc đáo trong các delog vì bà đã biết là mình
sẽ có trước một kinh nghiệm delog. Vì vậy bà đã sửa soạn cho mình và cho
những người khác ở xung quanh mình. Hành trình delog của bà kéo dài năm
ngày.
Vào năm 1924, Dawa Drolma thường có những lần nhập định sâu. Một
hôm bà trông thấy Tara trắng và được Ngài ban lời tiên tri sau đây: "con
sắp bị bệnh và chết, nhưng nếu con làm theo những lời hướng dẫn thì sau
năm ngày con sẽ sống lại như một delog và làm lợi ích cho nhiều người".
Vị Thầy của Dawa, Chogtrul Rinpoche, ngần ngại chấp thuận ý muốn của
bà sửa soạn và trải qua một kinh nghiệm cùng cực như vậy. Ngài gia hộ
cho bà và nhắc nhở: "trụ trong tâm vô niệm, không rơi vào vọng niệm.
Giữ cảm nhận trong sáng và sự tôn kính đối với các bậc Thầy và các vị
thần bảo hộ của mình. Phát tâm từ bi đối với chúng sanh".
Rồi Dawa Drolma trở bệnh rất nặng. Bà thỉnh cầu đại sư Chogtrul
Rinpoche và các vị khác ở đó làm những việc sau đây :"Dọn hết thực
phẩm và nước ra khỏi phòng của con; Sau khi con chết, hãy rửa xác của
con với nước nghệ được chú nguyện với sự hiện diện của một cô gái tên là
Drolma; Để tượng trưng cho bộ phái Phật của con, đầu của con sẽ được
quấn khăn xanh; Cửa nhà của con sẽ được khóa bằng ổ khóa, rồi bọc ổ khóa
bằng một tấm vải xanh và niêm phong nó với con dấu có hình một con bò
cạp. Một người mặc áo xanh sẽ ngồi bên ngoài để canh phòng ngôi nhà.
Trong năm ngày lúc con chết, không một ai được vào phòng của con hay gây
tiếng động xung quanh ngôi nhà. Khi sống lại, con sẽ cần một cái áo làm
bằng vải xanh và không làm bằng da thú. Con sẽ cần nước đã chú nguyện để
súc miệng". Bà cũng thỉnh cầu các vị lama cử hành những nghi lễ như
cỗ cúng Yunka (một vị nữ Phật) và Năm Nữ Thần Trường Thọ và cầu nguyện
Guru Rinpoche (Đại Sư Liên Hoa Sanh).
Bà và các vị Thầy làm lễ cúng Yumka vào ngày mười lăm âm lịch Tây
Tạng. Các vị Thầy nhắc nhở bà một lần nữa:"Giữ cho tâm an tĩnh không
xao lãng với những vọng niệm. Để cho tâm hợp nhất với chân tánh, vì tâm
sẽ tự nhiên làm như vậy vào lúc chết".
Khi đến lúc, Dawa Drolma giữ tâm an tĩnh trong trạng thái tự nhiên. Bà
chứng nghiệm như một trạng thái chân không và đại hoan hỷ, hoàn toàn
trong sáng và vô nhiễm. Mọi vọng tưởng đều chấm dứt. Bà không ngủ quên
trong cõi không, nơi không có vọng niệm. Bà không bị kẹt trong mạng lưới
hoan lạc, quang minh hay vô niệm. Bà cũng không trôi theo những vọng
tưởng. Mà bà đang ở trong cõi không vô biên của tâm tự nhiên. Như vậy bà
ở trong một trạng thái tâm thức khác, dù bà có thể nghe thấy tất cả
những tiếng động và những tiếng nói ở xung quanh.
Vào buổi sáng ngày hai mươi sáu, bà trông thấy rõ ràng sự hiện diện của
Tara Trắng, nữ thần bảo hộ của mình ở trước mặt, bên trong một khối ánh
sáng kỳ diệu.
Rồi bà trông thấy từ cõi tịnh độ của Đại Sư Liên Hoa Sanh một ánh
sáng cầu vồng với năm luồng ánh sáng song song chiếu vào phòng của bà. Ở
giữa những ánh sáng này, bốn "dakini" (Thiên nữ) mặc áo đẹp với những
món trang sức xuất hiện như đoàn tùy tùng của Dawa. Họ đặt bà lên một
cái kiệu được che với những tấm lụa nhiều màu. Dawa Drolma và bốn dakini
đồng thanh tụng bài cầu nguyện bảy câu Vajra và niệm Thần chú Guru
Rinpoche liên tục với lòng chí thành. Bà trông thấy tất cả những hình
ảnh này trong linh thị của mình.
Thần thức du hành không chướng ngại: kinh nghiệm của Gyalwa
Yungtrung
Gyalwa Yungtrung người xứ Kham, miền đông Tây Tạng, là tín đồ đạo
Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Năm ông bốn mươi chín tuổi, Mẹ của
ông qua đời. Ông mời nhiều vị Lạt Ma đến làm lễ bốn mươi chín ngày, theo
niềm tin cho rằng hầu như không có ai còn ở lại trong cõi trung ấm bardo
sau bảy tuần. Ông dùng tất cả của cải để làm những nghi lễ này. Ngày đêm
ông nghĩ đến tình thương và lòng tử tế của Mẹ và buồn vì bà đã qua đời.
Rồi một hôm, khi đang thiền quán về tâm của mình, ông thấy nó vô sinh và
hiện diện một cách tự nhiên, một lúc khác, ông cảm thấy thế gian và thể
xác đều là không, tâm của ông có thể đi khắp nơi mà không có chướng ngại
nào cả, ông phải nối kết với thần thức của mẹ mình ở bất cứ nơi nào bà
đang lưu trú. Bỗng
ông cảm thấy mình rời khỏi thể xác.
Gyalwa trải qua thêm nhiều chứng nghiệm, như chúng ta sẽ thấy ở
chương 5 về những chứng nghiệm trong cõi bardo của các delog. Ở giai
đoạn này ông không viết về sự kiện của mình có hay không chứng nghiệm sự
phân giải của bốn nguyên tố của thể xác. Lời kể về lúc chết của ông chỉ
cho thấy một lần nữa rằng mỗi cá nhân kinh nghiệm tiến trình chết một
cách khác nhau.
Chân tánh: kinh nghiệm của Tsophu Dorlo
Tsophu Dorlo là một vị Thầy thành tựu. Tên thật của Ngài là Dorje
Duddul, người xứ Khrozur, nhưng Ngài được mọi người gọi là Tsophu Dorlo.
Ngài có kinh nghiệm về delog ở tu viện Pema Sheltrag ở Nya-rong, miền
Đông Tây Tạng.
Năm 1923, khi được sáu mươi mốt tuổi, Thầy Dorlo bất ngờ ngã bệnh,
và mọi người đều không hy vọng Ngài sẽ hồi phục. Để giảm sự đau buồn của
các đệ tử, Ngài ban cho họ những lời pháp nhũ và nói chắc với họ rằng
Ngài sẽ trở về trong kiếp kế tiếp. Trong một linh thị, vị Thầy chính của
ngài, Zhing Kyong Rinpoche, gia hộ Ngài và nói: "đây không phải là
lúc để con đi vào tịnh độ, con phải đi cứu độ chúng sanh ở địa ngục".
Vị lama đưa cho Ngài một cái bánh xe cầu nguyện cầm tay cở lớn để mang
theo mình.
Vào buổi tối ngày thứ tư, những dấu hiệu của sự chết bắt đầu xuất
hiện. Dorlo cố gắng giữ tâm thanh tịnh với những giáo lý và những lời
hướng dẫn của các vị Thầy của mình. Ngài đặc biệt giữ cho tâm hợp nhất
với tâm trí tuệ của vị Lama của mình và trụ trong trạng thái hợp nhất
không lay động. Trong một lúc lâu, Ngài trụ trong chân tánh của mình. Đó
là sự hiện diện vô cùng và trạng thái không lay động của sự hợp nhất
tịnh quang và chân không của tâm trí.
Không bao lâu sự tan rã của những nguyên tố của thể xác bắt đầu.
Như dấu hiệu của thịt tan nhập vào đất, Dorlo cảm thấy thân xác của mình
rơi và chìm xuống đất. Khi máu tan nhập vào nước, Ngài mất năng lực của
cơ thể, mũi và miệng của Ngài chảy nước, và lưỡi của Ngài khô khan. Khi
sức nóng tan nhập vào nguyên tố lửa, thân xác của Ngài mất hơi nóng, sự
trong sáng của tâm Ngài lúc có lúc không, rồi hai mắt của Ngài trợn lên,
Ngài không nhận ra những người thân quen. Khi hơi thở tan nhập vào
nguyên tố gió, hơi thở của Ngài trở nên nặng nề và tay chân của Ngài run
rẩy, tâm của Ngài cảm thấy bưng bít và Ngài thấy những linh ảnh giống
như ảo ảnh mờ nhạt.
Sau sự tan rã của những nguyên tố thô, Ngài bắt đầu chứng nghiệm sự
phân giải của những tinh lực. Khi tinh chất lửa tức tinh chất đỏ đi lên,
những "sắc tướng" tan nhập vào "gia tăng", và mọi vật trở nên hơi đỏ.
Khi tinh chất nước tức tinh chất trắng đi xuống, và "gia tăng" tan nhập
vào "thành tựu". Mọi vật trở nên hơi trắng. Rồi khi sinh lực tinh tế
nhất chấm dứt, "thành tựu" tan nhập vào "quang minh". Mọi vật trở nên
tối đen.
Tâm trí tuệ trở nên trong sáng: kinh nghiệm của Shugseb Jetsun
Lochen
Shugseb Jetsun Lochen (1865-1953), cũng được gọi là Jetsun Rigdzin
Chonyi Zangmo, là một trong những nữ tu vĩ đại nhất của Tây Tạng ở thế
kỷ hai mươi.
Shugseb Jetsun Lochen (1865-1953)
Jetsun sinh ra ở Ấn Độ nhưng tu học ở Tây Tạng và sống nhiều năm
cuối đời ở Shugseb, gần Kangri Thokar, Tu viện của Longchen Rabjam, một
vị Thầy Dzogchen (pháp Đại Hoàn Thiện) thuộc thế kỷ mười bốn.
Jetsun trải qua trạng thái delog trong nhiều ngày trong khi nhập
thất ở Zangyak Trag ở thung lũng Drigung, miền Trung Tây Tạng. Bà đã
thành tựu nhiều chứng ngộ thiền kỳ diệu. Bà có thể đi xuyên qua tường
một cách dễ dàng, và nhiều lần bà đã trở nên vô hình đối với những người
bạn của bà. Thỉnh thoảng bà có thể đi đến những nơi khác chỉ bằng ý nghĩ.
Bà có linh thị về các vị thần cũng như tất cả những loài sinh linh khác
vốn vô hình đối với loài người.
Một hôm tinh lực của Jetsun đi vào kinh mạch trung ương. Hậu quả là
phát ra đủ loại âm thanh, nhảy múa, bà cứ chạy ra chạy vô am thất của
mình. Rồi bất ngờ bà gục xuống và bất động.
Tưởng bà đã chết, mấy người bạn khóc than rồi bàn thảo việc mai
táng cho bà, nhưng Mẹ của bà nhận thấy mặt bà vẫn có màu sắc của sự sống,
vì vậy bà Mẹ bảo mấy người bạn kiểm soát lại cẩn thận. Họ thấy có một
chút hơi ấm ở tim của bà, giống như thân nhiệt của một con chim. Vì năng
lực dị thường của đời sống của bà, các bạn nghĩ rằng bà chưa chết hẳn,
Vì vậy họ sửa soạn một lễ cúng.
Về phần Jetsun, dù thân thể không thể cử động, tâm trí tuệ của bà
trở nên trong sáng gấp mấy lần trước kia. Bà có thể nghe tất cả những
lời nói chuyện của các bạn và những người khác ở xung quanh.
Quỷ đen tối biến đi: kinh nghiệm của Tagla Konchog Gyaltsen
Tagla Konchog Gyaltsen (1856-1946) ra đời
tại thung lũng Ma thuộc bộ tộc Akyong Ponmotsang, xứ Golok ở miền Đông
Tây Tạng. Ngài trở thành một vị Thầy nổi tiếng. Ngài có kinh nghiệm
delog trong nhiều ngày vào năm tám mươi tám tuổi.
Năm 1932, Thầy Tagla đang ở tại thung
lũng Ma tuyệt đẹp dưới sự canh phòng bảo vệ của rặng núi thiêng liêng
Amnye Machen. Một ngày nọ, Thầy Tagla ngã bệnh nặng khiến Ngài nửa sống
nửa chết. Đột nhiên Ngài thấy những đám mây có ánh sáng nhiều màu sắc ở
trên bầu trời trước mặt. Ở giữa những đám mây, Ngài thấy Guru Rinpoche
được vây quanh bởi nhiều vị hộ pháp có thân tướng hiền hòa hoặc phẫn nộ,
và nhiều vị Thầy của dòng truyền thừa. Ngài nghe thấy Đức Phật Từ Bi nói
với mình, “Con đừng xao lãng. Hãy chú tâm lên trên đây. Hãy thành tâm
tụng niệm Thần Chú Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn "OM MANI PADME HUNG". Con
sắp được chứng nghiệm giai đoạn chuyển tiếp [bardo].”
Rồi từ hướng Nam, trên những đám mây
trắng, Vị Thần Bảo Hộ Trắng với mặt trắng và dung mạo trẻ trung đi về
phía Tagla. Vị thần mặc áo lụa trắng, tóc được thắt búi trên đỉnh đầu,
mang một túi lụa trắng trên vai, và đeo trên thắt lưng một hột súc sắc
làm bằng vỏ ốc (thuộc một cặp súc sắc, một dụng cụ bói toán của Tây Tạng).
Sau đó, cưỡi trên một cơn lốc xoáy, một
Hắc Quỷ với nước da màu đen cũng đến. Ông mặc một áo choàng sẫm và xõa
tóc rũ xuống. Mang một túi màu đen trên vai, và một khuôn màu đen làm
bằng than đeo ở thắt lưng.
Một vị Thần Bảo Hộ Trắng nói với Thầy Tagla, “Ta là Thần Bảo Hộ Trắng
của những sinh linh đức hạnh. Ta đến từ cung điện của Pháp Vương Thần
Chết để rước con. Con có tự tin để tự tại với bardo, lộ trình chuyển
tiếp không? Ta có giữ những sổ ghi chép tả về những công hạnh đạo đức mà
mọi người đã tích lũy.”
Với lòng đầy tự tin, Thầy Tagla kể lại
mọi chứng nghiệm thiền định, những chứng ngộ của mình, số lượng bài cầu
nguyện mà mình đã tụng, và những công quả mà mình đã giúp đỡ người khác.
Ngài biểu lộ niềm hoan hỷ lớn lao khi nhập vào cõi trung ấm thân bardo
và gặp Pháp Vương. Sau đó Thầy Tagla cầu nguyện Tam Bảo, các vị Phật và
các vị Lạt Ma, để quý Ngài gia hộ. Tất cả các nguồn an trú này xuất hiện
đầy bầu trời ở trước mặt Ngài. Tất cả các Ngài cùng với Thầy Tagla trì
tụng thần chú Lục Tự chơn ngôn với âm điệu trầm bổng kỳ diệu hoan hỷ
nhất. Âm thanh này tràn đầy trong không gian.
Sau khi ban dạy giáo lý về giai đoạn
chuyển di.Vị Thầy chính của Thầy Tagla, Pema Dechen Zangpo nói, “Bây
giờ con hãy đi đi. Đức hạnh của con xuất hiện như Thần Bảo Hộ Trắng sẽ
dẫn dắt con.” Thầy Tagla thấy một luồng ánh sáng giống như cầu vồng
phóng về hướng Tây như con đường đưa tới cõi Cực Lạc của Đức Phật Vô
Lượng Quang. Nhưng vị Lama chính của Ngài nói thêm: “Vẫn chưa đến lúc
con đi vào cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà".
Hắc Quỷ nổi giận tiến đến chỗ Thầy Tagla.
Y bác bỏ những thiện nghiệp của Thầy Tagla cứ như thể việc đó là bất
tịnh và tố cáo Ngài đã tạo nhiều bất thiện nghiệp. Hắc Quỷ đe dọa Thầy
Tagla bằng cách mô tả hành trình khủng khiếp đi vào cõi trung ấm mà Ngài
sắp phải trải qua. Đến đây, các sứ giả thuộc triều đình của Pháp Vương
xuất hiện, đó là Awa, Đầu-Bò, Nghiệt súc Đầu Rắn, và Quỷ hèn Mặt-Khỉ.
Mới đầu, Thầy Tagla sợ hãi, nhưng ngay
sau đó Ngài lấy lại tự tin và nói, “Này Hắc Quỷ! nghe ta nói đây, Để
bảo vệ danh dự của những thiện nghiệp của ta, ta phải bác bỏ lời tố cáo
của ngươi.” Kể ra tất cả những thiện nghiệp mà Ngài đã tích lũy
trong đời, Thầy Tagla kết luận, “Ta không có lý do gì để sợ những lời
đe dọa của ngươi. Quỷ đen, hãy im miệng”. Nghe những lời này, Hắc
Quỷ biến mất trong một cơn bão.
Rồi trong một tia chớp, Thầy Tagla thấy
thể xác của mình đang nằm chết trên giường ở nhà, vây quanh là những
người bạn đang than khóc. Thầy Tagla buồn bã nghĩ, “Giờ đây mình
không còn cách gì để trở lại đời sống”. Đúng lúc đó, Thần Bảo Hộ
Trắng tiến đến gần và nói, “Con sẽ chỉ chết trong một lúc mà thôi,
rồi con sẽ sống lại". Sau đó, cùng với Thần Bảo Hộ Trắng, Thầy Tagla
bắt đầu hành trình chuyển tiếp của mình.
Đừng Hoảng Hốt: Kinh Nghiệm Của Changchub
Seng-Ge
Changchub sinh tại một nơi được gọi là
Lho Gyalwa. Cha của Ngài là người xứ Kham, và Tagla gọi Ngài là
Nyagtrug, như vậy có lẽ Ngài sống ở vùng Nyag-rung thuộc xứ Kham, phía
Đông Tây Tạng.
Changchub bị bệnh. Ngài không thể ra khỏi
giường để lấy nước uống. Ngài bỗng cảm thấy mình đang lơ lững trên hư
không. Nhà Ngài bị sụp đổ. Mỗi gốc chân lông trên thân xác Ngài đang đâm
thủng giống như những vật nhọn. Những quả núi và nhà cửa dường như sụp
xuống trên Ngài. Một giòng sông lớn đang cuốn trôi Ngài đi. Ngài bị
thiêu đốt trong một ngọn núi lửa. Một cơn bão dữ đang thổi bay Ngài đi.
Hàng ngàn mặt trời xuất hiện và thiêu cháy Ngài. Ngài nghe những tiếng
la đe dọa lớn như sấm. Như thể mỗi kinh nghiệm này kéo dài hàng ngàn năm.
Tất cả chúng đều là những dấu hiệu của những nguyên tố trên thân xác
Ngài tan rã và hơi thở bên trong Ngài ngừng lại. Khi hơi thở bên trong
đã ngừng lại, năm ánh sáng khởi lên. Bỗng nhiên Changchub có một linh
thị quang minh, giống như mặt trời mọc lúc nửa đêm. Ý thức trong sáng
như một ngọn đèn nhưng không bền, như một ngọn đèn chập chờn trong cơn
bão. Ngài cũng có thể thấy những đoạn tái sanh của Ngài trong những kiếp
trước và những kiếp sau của mình.
Rồi sự chấp thủ những đối tượng khởi lên
trong Ngài, và Ngài bỗng cảm thấy mình bị đè dưới một tảng đá. Một ý
nghĩ đến với Ngài, “Ồ, mình phải đi vào một tòa lâu đài”. Bất ngờ
Ngài thấy mình ở trong ánh sáng màu đỏ, điều này làm Ngài sợ hãi vì nghĩ
rằng mặt mình có thể bị thương. Ngay lúc này, từ luồng ánh sáng đỏ mở ra
hai luồng ánh sáng năm màu. Luồng ánh sáng năm màu phía trên rất rõ
ràng, sáng chói, rạng rỡ và linh hoạt. Chùm ánh sáng ở dưới thì mờ nhạt.
Kể đến đây, Changchub có lời hướng dẫn: “Vào lúc này, đừng sợ hãi
luồng ánh sáng phía trên. Đó lá ánh sáng của năm trí tuệ nguyên thủy.
Luồng ánh sáng mờ ở dưới là ánh sáng của năm cảm xúc độc hại. Đừng để
cho luồng ánh sáng phía dưới cám dỗ mình”.
Changchub là vị Thầy đáng chú ý về những
lời hướng dẫn này. Truyện của Ngài là một kho tàng những lời khuyên về
những gì mà người hộ niệm nên nói với hành giả sắp chết như một sự giới
thiệu hay nhắc lại pháp tu thiền định của họ. Và như vậy, khi hai luồng
ánh sáng được đề cập ở trên xuất hiện; Ngài Changchub khuyên: Đây là
lúc cho người bình thường làm phép chuyển di thần thức phowa, còn những
thiền giả đã thành tựu cao sẽ làm như sau: Nếu một người hấp hối
trợn ngược mắt lên và nếu không còn hơi thở qua lỗ mũi, đó là dấu hiệu
hơi thở bên ngoài ngừng lại. Lúc đó những người hộ niệm gọi tên người đó.
Chậm chậm nhổ một ít tóc nơi đỉnh đầu của người ấy. Đừng để những người
yêu mến đứng gần nếu như họ đang khóc lóc.
Hãy nói với người hấp hối những lời hướng
dẫn sau đây về những dấu hiệu của sự phân giải tứ đại của thế xác:
“Bạn có thể cảm thấy như ngôi nhà của mình đang sụp đổ, nhưng không phải
vậy. Đó là dấu hiệu khi hơi thở bên ngoài chấm dứt. Đừng để tâm lay
động! Bạn có thể cảm thấy có những vật nhọn đang đâm qua gốc của mỗi sợi
lông trên thân mình, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi các mạch
máu trong thân không làm việc nữa. Xin đừng hoảng sợ!”
Khi nước da chuyển sang màu vàng nhạt,
người hộ niệm nói “Bây giờ có thể bạn cảm thấy dường như căn nhà đang
sụp xuống bạn, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi năng lượng của
thịt đang tan nhập vào nguyên tố đất bên ngoài. Đừng lo sợ!”
Khi nước da chuyển sang màu hơi đỏ, hãy
nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình như đang bị thiêu đốt trên một
ngọn núi lửa lớn, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi nguyên tố lửa
bên trong hòa nhập vào nguyên tố lửa bên ngoài.”
Khi nước da chuyển sang màu hơi trắng,
hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình như đang bị một dòng sông
lớn trôi cuốn đi, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi nguyên tố máu
bên trong hòa nhập vào nguyên tố nước bên ngoài. Đừng sợ hãi!”
Khi nước da chuyển sang màu xanh lục, hãy
nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình như đang bị một cơn bão lớn
cuốn đi, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi hơi thở bên trong hòa
nhập vào nguyên tố gió bên ngoài.”
Khi sắc diện chuyển sang màu xanh lơ, hãy
nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình như đang chìm trong biển,
nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi các nguyên tố bên trong hòa
nhập vào hư không. Đừng hoảng hốt!”
Lời kể của Ngài Changchub độc đáo về cách
đi tới đi lui giữa việc chấm dứt sự phân giải và lúc xuất hiện của chơn
tánh cũng như giai đoạn khởi đầu của bardo. Thông thường, người ta đi
qua những giai đoạn phân giải, rồi kinh nghiệm cái nhìn thoáng qua của
chơn tánh quang minh và rồi đi vào cõi trung ấm. Nhưng trong trường hợp
này, ngay cả sau khi thoáng thấy chơn tánh quang minh, Ngài Changchub
lại kinh nghiệm sự phân rã thêm một lần nữa. Như vậy, có thể nói là có
những người hấp hối đi tới và đi lui trước khi họ lìa hẳn thể xác, do vì
bản chất của tâm, cảm xúc và nghiệp quả của họ. Hoặc có thể họ đang cố
gắng để duy trì mạng sống.
Đừng Sợ Hãi – Hãy sẵn sàng.
Bạn có thể cảm thấy lo sợ sau khi đọc
chương này. Có lần một phụ nữ Tây Tạng trình thưa với vị lama, Thầy của
bà rằng: “Khi nghe về quả báo tốt cho những thiện nghiệp, con mong
được giải thoát, dù là một người như chính con. Nhưng khi nghe về những
bất hạnh của những ác nghiệp, con lại nghi ngờ về sự giải thoát – dù là
cho một người như chính bản thân của Thầy".
Lo sợ những gì xảy ra sau khi chết cho
chúng ta không giúp ích gì cho chúng ta cả, nhưng chúng ta cần quan tâm
và thận trọng trước khi quá trễ. Điều tốt của nghiệp là chúng ta luôn cố
gắng cải thiện. Nếu đã không đi trên đường chánh đạo, chúng ta có thể
chuyển cho lối sống của mình đúng hướng. Nếu đã đi đúng đường đạo rồi,
chúng ta càng ra sức tu tập tinh tấn hơn nữa. Chúng ta có thể kiểm soát
vận mạng của mình. Có hàng trăm pháp môn tu tập khác nhau và có nhiều
đấng từ bi giúp chúng ta tự giải thoát.
Nhưng bước đầu tiên là biết và chấp nhận
rằng cái chết là không thể tránh được, và rằng những nghiệp quả đang chờ
đợi mình – trong khi vẫn còn có thời gian. Như vậy, chúng ta có thể làm
tất cả mọi sự chuẩn bị cần thiết trong lúc vẫn còn sống trên thế gian
này. Chúng ta cần gây dựng thái độ tốt và tạo thiện nghiệp đối với người
khác. Nếu chúng ta không chuẩn bị như vậy, cái chết sẽ là một sự kiện
đáng buồn, không chỉ ghi dấu sự chấm hết của cuộc đời mà còn đưa đến sự
nguy hiểm của một tương lai đau khổ hoặc thậm chí là rơi xuống địa ngục.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có lối sống tốt
thì cái chết chắc chắn sẽ là lúc đáng vui mừng. Nó sẽ đánh dấu sự chấm
dứt cho tuổi già và bệnh tật, và bắt đầu sự xuất hiện của phúc lạc. Một
số người trong chúng ta có thể thấy những bậc giác ngộ, từ bi và trí tuệ,
tiếp dẫn chúng ta đến với Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang,
điều này sẽ được bàn luận trong chương 7 và 9. Thêm nữa, nếu chúng ta là
những hành giả Mật Giáo thành tựu cao, chúng ta có thể đạt đến giác ngộ
vào lúc chết trong giai đoạn chứng ngộ chơn tánh, chương kế sẽ trình bày.
Nhưng điểm quan trọng là ngay bây giờ
chúng ta cần phải chuẩn bị cho cái chết và sau khi chết. Nếu thở ra mà
không hít vào, cái chết sẽ đến tức khắc. Chúng ta đang gần kề cái ngày
mà mình ăn mừng hay khóc than ấy.