CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ


Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth của đại sư học giả Tulku Thondup Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011
17/06/2011 08:47 (GMT+7)
Số lượt xem: 16570
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chương 05

CHUYỆN KỂ VỀ CÕI TRUNG ẤM BARDO

Kinh nghiệm sau khi chết
của các vị Delog người Tây Tạng

 

Vì phần lớn những lời kể của các vị delog là về cõi trung ấm bardo, nên tôi dành trọn vẹn chương này cho những chuyện được tuyển chọn của họ. Mục đích của chương này là trình bày những nghiệp báo không thể tránh được mà mọi người sẽ phải đối diện. Tôi hy vọng chương này sẽ giúp mọi người cư xử đúng cách và cải thiện tương lai của mình.

Người ta thường hỏi tại sao những delog chỉ nói về những lời cầu nguyện, pháp tu thiền quán, các vị Thần, các vị Thầy tâm linh. Tôi nghĩ rằng điều này là một vấn đề. Theo ý tôi thì những ý nghĩ, những cảm giác an lạc và sự biểu hiện của họ trong những lời nói và hành động đều trở thành những nguồn tạo lợi ích và giải thoát, dù chúng được trình bày qua Phật Giáo hay một tín ngưỡng nào khác. Bất cứ ai đã đạt được trí tuệ an lạc vô thượng thì đều có năng lực giải thoát cho người khác, dù vị ấy mang hình dạng thuộc Phật Giáo hay không. Tuy nhiên, các delog Tây Tạng đã chứng kiến năng lực của những vị Thần và giáo lý Phật Giáo vì chính họ là những tín đồ Phật Giáo, thói quen tinh thần và nhân duyên của họ liên quan đến các vị Thần và giáo lý của Phật Giáo. Như đã nói ở phần trước, người Phật tử tin rằng mọi sắc tướng chúng ta và mọi kinh nghiệm mà chúng ta  trải qua chỉ là những hình ảnh phản chiếu của những thói quen tinh thần của chúng ta. Vậy dù chúng ta có tin theo bất cứ tôn giáo nào, nếu có trí tuệ về an lạc vô thượng, thì nó sẽ là nguồn lợi ích thực trong cuộc sống và trong lúc chết. Chúng ta sẽ xem và thấy tín ngưỡng của mình là nguồn giải thoát. Danh hiệu và hình tướng bên ngoài không thực sự là vấn đề, vì chúng chỉ là những phương tiện để đạt đến cứu cánh. Chỉ có phẩm chất bên trong mới là đáng kể.

Khi đọc những chuyện kể này, nên nhớ rằng các nhân chứng khác nhau có kinh nghiệm về âm thanh, hình ảnh và những hoạt động của cõi trung ấm một cách khác nhau, vì những hiện tượng này là những ảo giác hay những phản chiếu tinh thần của riêng họ. Ví dụ, một người có thể thấy vị Pháp Vương trong hình dạng phẫn nộ, trong khi một người khác thấy các vị này trong hình dạng hiền hòa. Một số có thể trông thấy vị Thần Mặt Khỉ (Monkey-Face One) đang ghi chép, trong khi người khác thấy vị này đang xét những hành vi tốt và xấu của một người được phản chiếu trong tấm gương ở Tòa Phán Xét. Dù có những khác biệt giữa những cá nhân, nhưng điều đáng chú ý là vẫn có rất nhiều điểm tương đồng trong những lời kể của các vị delog.

NHỚ LẠI TẤT CẢ NHỮNG GÌ MÌNH TRÔNG THẤY: KINH NGHIỆM CỦA BÀ LINGZA CHOKYI

Mỗi câu chuyện của delog đều có một loại trí tuệ hay minh triết khác nhau. Chuyện kể của bà Lingza Chokyi có thể giống những kinh nghiệm mà phần lớn người bình thường có thể có vào lúc chết và sau khi chết.

Bà Chokyi thấy chính bà nhìn vào giường mình và trông thấy xác chết của một con rắn lớn mặc y phục của bà, bốc mùi hôi thối kinh khiếp. Con rắn chết đang mục rữa là thể xác của bà, nhưng bà không nhận ra nó. Người chết thường không nhận biết xác chết của chính mình trong hình dạng thật, ngay cả khi họ nhìn thấy nó.

Khi những người con của bà Chokyi bắt đầu khóc, ôm và hôn con rắn, thì tất cả những nhận thức của bà đột ngột biến đổi. Bà bắt đầu nghe thấy những âm thanh rền vang như sấm sét cùng lúc. Bà trông thấy một cơn mưa máu và những cục mủ lớn cở quả trứng rơi xuống mình. Bà không thể chịu đựng nổi! Nhưng ngay khi các con của bà ngừng khóc, tiếng sấm sét và âm thanh của cơn mưa ngừng lại tức khắc. Không gian trở nên yên tĩnh, và tất cả mọi sự đau đớn và sợ hãi chấm dứt. Những nhận thức của bà đã trở lại bình thường trong một lúc. 

Người Phật tử Tây Tạng thường tin rằng sự khóc lóc kể lể sẽ làm tổn hại cho người chết. Đó là lý do mà đại hành giả Milarepa đã nói lên những ý nguyện sau đây:

"Không có ai hỏi về bệnh tật của tôi
Không có ai khóc cho tôi khi tôi chết
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy.
Thì ý nguyện của hành giả này sẽ trở thành sự thật.

Không có dấu chân của người thân ở cửa hang
Không có vết máu ở bên trong do tranh chấp quyền thừa kế
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy
Thì ý nguyện của hành giả này đã được thực hiện".

Chokyi nghe thấy em trai của mình nói với những người thân trong gia đình:  “than khóc không ích lợi gì cả. Tốt hơn nên tổ chức tang lễ. Chúng ta phải cung thỉnh một vị lạt ma để làm pháp chuyển di thần thức phowa, Chúng ta phải thỉnh Đại Sư Thugje Rinpoche và hai mươi hoặc ba mươi vị Tăng sĩ để làm lễ cầu siêu.” (Một tang lễ có thể kéo dài nhiều tuần hoặc suốt bốn mươi chín ngày tùy theo khả năng của gia đình người quá cố). Chúng ta cũng phải thỉnh Đại Sư Gomchen, một Lạt Ma Đại Hành Giả chủ trì cho lễ tang, vì bà ấy tin tưởng nơi vị Tăng này ” .

Bà Chokyi có thể trông thấy và nghe thấy gia đình đang sửa soạn tang lễ cho mình, nhưng bà lại nghĩ rằng họ đang làm một buổi lễ gì đó khác.

Khi một vị Lạt ma bắt đầu tụng kinh Kim Cương (Vajracchedika Sutra/ Diamond Sutra), bà Chokyi chỉ nghe thôi cũng cảm thấy hoan hỷ. Buổi chiều hôm đó, Đại Sư Gomchen và khoảng hai mươi vị Tăng đến nhà. Bà đảnh lễ đến Ngài Gomchen cùng những vị khác và đến gần để nhận sự gia hộ từ các Ngài. Nhưng các vị này không đáp ứng gì cả, bà nghĩ có lẽ họ giận mình chăng. Bà hỏi: “Nếu quý Thầy giận con thì quý Ngài đến đây làm gì ?” Không ai trả lời gì cả. Bà Chokyi không thể hiểu tại sao họ cũng không nhìn thấy mình.

Bà Chokyi thấy Đại Sư Gomchen đặt tay lên đầu của “con rắn” và nói, “Chokyi, cái chết đã đến với con. Đừng luyến ái đến con cái, tài sản, hay đồ ăn. Hãy hòa nhập thần thức của con vào tâm thức của ta. Rồi chúng ta sẽ cùng lên đường về cõi Cực Lạc của Phật Vô Lượng Quang. Chúng ta sẽ đi đến đó!”

Bà Chokyi nghĩ, “Mình đâu có chết. Mình vẫn còn thể xác đây mà.” Cùng lúc đó, bà muốn hòa nhập như lời khai thị của vị lama. Nhưng vì sợ con rắn nên bà lui lại.

Lúc đó, bà nghe Đại Sư Gomchen hô lớn PHAT, bà cảm thấy vui mừng và an lạc. Rồi Ngài Gomchen nói với gia đình của bà. “Việc làm pháp chuyển di thần thức bây giờ là đã quá trễ, vì Chokyi đã rời khỏi thể xác rồi.”

Sau đó mọi người ăn tối, nhưng không có dọn thức ăn cho Chokyi. Đại Sư Gomchen nói với con gái của Chokyi, “Hãy dọn thức ăn cho Mẹ của con”. Con gái của bà liền làm một đĩa thức ăn với một miếng thịt và một tách trà. Đặt những món này gần con rắn, cô bé nói, “Mẹ ơi, con mời Mẹ ăn.” Dù đang đói và khát, bà Chokyi không thể ăn được, vì con rắn làm cho bà cảm thấy gớm ghiếc. Chokyi giận con gái của mình vì cô bé đặt đĩa thức ăn ở gần con rắn.

Sau bữa ăn chiều, Đại Sư Gomchen vừa cầu nguyện vừa đốt các món ăn của bà trong lửa để làm lễ cúng hiến phạn cho người chết. Chỉ đến lúc đó bà Chokyi mới cảm thấy thỏa mãn cứ như thể bà mới ăn uống xong. Sur là một nghi thức truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, cúng dường thức ăn, nước uống, và của cải cho người chết hay những vong linh khác. Những lễ vật "sur" được gia hộ bằng những lời cầu nguyện và thiền quán, rồi sau đó hiến cúng cho những vong linh đó. Đồ cúng được thiêu đốt để tỏa ra mùi, vì sinh linh trong cõi trung ấm chỉ có thể hưởng những mùi hương. Sau nghi lễ này, bà Chokyi không còn cảm thấy đói khát nữa.

Ngay sau khi vị lama thiết trí xong bàn thờ, các vị bắt đầu cử hành tang lễ. Đại Sư Gomchen tham thiền một mình. Bà Chokyi tiếp tục cảm thấy buồn vì bà nghĩ mọi người bất mãn với mình; Vì họ không tiếp món ăn cho bà; Và vì bà không còn thân xác vật chất nên bà không thể ở yên một chỗ và duy trì một cảm xúc.

Rồi bà nảy ra một ý tưởng “Mình sẽ lấy những món nữ trang của mình và bỏ đi.” Đúng lúc đó, các con của bà lại òa lên khóc và một cơn mưa máu và mủ bắt đầu dội lên người của bà Chokyi. Bà không thể nhìn thấy gì cả, và thần thức của bà bắt đầu nhảy quanh quẩn nhiều hơn nữa.

Bà Chokyi muốn chạy đến chỗ Đại Sư  Bangar Rinpoche đang làm chủ lễ, nhưng bà nghĩ, “Ngài là một vị Tăng, có lẽ không thích hợp cho một phụ nữ đến gần.” Vì vậy bà đứng nấp ở phía sau lưng Ngài. Buổi lễ mang lại sự an ủi êm dịu cho bà nhưng bà vẫn cảm thấy sợ.

Sau đó bà chạy đến chỗ Đại Sư Gomchen. Bà thấy Ngài có hình dạng trong suốt như Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara). Ngài đang nói, “tội nghiệp! tội nghiệp! (Nyingje! Nyingje!). Bà Chokyi hiểu rằng Đại Sư Gomchen đang hợp nhất thần thức của bà với tâm Ngài, vốn an trụ trong trạng thái thiền quán định tĩnh. Bấy giờ bà cảm thấy bớt sợ và tâm trí xao động của bà nhập vào một an lạc kỳ lạ.

Một lúc sau, bà trở lại với những suy nghĩ trôi nổi thông thường. Bà thấy người ta có bữa ăn. Ngài Gomchen lại làm lễ sur, bà hưởng thức ăn đã được hồi hướng cho bà trong dạng mùi.

Sau một lúc, bà nghe một giọng nói từ bên ngoài, “Chokyi, lại đây!” bà đi ra. Một người nào đó đang ở bên ngoài mà bà nghĩ là Cha mình. Ông nói, “Hãy ra ngoài, ta có cái này muốn cho con thấy. Ta sẽ để cho con trở về sớm thôi.” Nghe thấy vậy, bà lại nghĩ, “Nhà mình có đầy những vị lama. Nhưng tất cả các vị này đều giận mình. chồng và con không dọn đồ ăn cho mình. Vậy mình sẽ đi theo Cha.”

Ngay sau khi nghĩ như vậy, bà thấy mình ở trên một con đường khô cằn xám xịt, không có một cọng cỏ hay một cái cây nào. Từ chỗ đó bà có thể thấy những vật ở rất xa, và bà thấy một cánh đồng cát bằng phẳng, rộng lớn. Ở giữa cánh đồng có một con sông lớn đang chảy, nhưng khó có thể nói là nó chảy theo hướng nào. Bà thấy một chiếc cầu rộng. Bên này của chiếc cầu, ở chân núi là một thành phố lớn.

Người đã gọi Chokyi ra, bây giờ đưa bà đến thành phố đó và nói với bà, “Hãy nhìn quanh đây xem có người nào mà con quen biết hay không. Ta sẽ đi qua bên kia sông. Con cũng nên qua bên đó.”

Thành phố này có nhiều người đến mức bà thấy giống như một tổ kiến. Một số người mặc y phục nhiều màu và có diện mạo đẹp đẽ. Số khác mặc quần áo xấu xí và dơ bẩn. Nhưng tất cả đều buồn bã, khóc lóc và có nét mặt u ám. Chokya nghĩ “Có lẽ mình cũng ở trong tình trạng giống như những người này,” Chokyi bắt đầu run sợ.

Trong đám người đó, Chokyi nhận ra Chogon, là người trước kia thường trông coi đàn gia súc cho bà. Anh ta nhìn Chokyi và nói với vẻ quan tâm, “Ủa, chị đã đến đây rồi sao?” bà đáp “phải, tôi vừa đến.” Sau đó Chokyi hỏi dồn dập, “Anh sống ở đây à? Những người này là ai? Tại sao họ có vẻ không vui? Có người bảo tôi qua bên kia cầu, tôi nghĩ phải đi đến đó. Vậy có ai ở bên đó không ?".

Chogon nói, “Đây là thành phố chuyển tiếp, vùng biên cương giữa người sống và người chết. Mọi người đang đợi ở đây vì tuổi thọ trên trần gian này chưa hết. Những người mặc quần áo đẹp và có khuôn mặt đẹp là những người đã tích lũy công đức trong quá khứ. Họ đang đợi để có thêm công đức mà gia đình của họ ở cõi người tạo lập và hồi hướng cho họ. Những người mặc quần áo dơ bẩn và nước da xấu là những người không có công đức nào cả, cũng không có ai tạo công đức cho họ. Ngay sau khi tuổi thọ chấm dứt, mỗi người trong chúng ta sẽ đi qua bờ sông bên kia. Ở bên đó có vị Pháp Vương của Tử Thần và các đao phủ của Ngài. các vị này sẽ xét bản công và tội của mọi người. Những người có công đức sẽ được các Ngài cho đi lên các cõi cao hơn hoặc được giải thoát. Những người đã tạo ác nghiệp sẽ bị đọa xuống địa ngục. Ở trong địa ngục họ sẽ bị thiêu đốt và bị luộc trong nước sôi không thể tưởng tượng được. Ngày đêm tôi lo nghĩ về số phận đang đợi chờ mình. Tôi đã đến bên kia mấy lần rồi, nhưng họ bảo tôi cứ đợi ở đây, vì tuổi thọ của tôi chưa hết. Chị có thể đi qua bên kia để xem mấy vị Thần Chết nói gì. Nếu phải đợi ở đây, thì chị cứ trở lại.”

Sự Phán Xét của các Thần Chết

Không bao lâu sau đó, bà Chokyi được gọi đến bên kia sông. Ở đó bà thấy một bức tường lớn. Phía bên kia của bức tường là một ngai lớn bằng vàng. Ngồi trên ngai là vị Pháp Vương của những Thần Chết. Diện mạo của Ngài màu vàng, và mặc áo tu sĩ thêu chỉ vàng. Hai tay Ngài đặt trong tư thế thiền quán. Trên đỉnh đầu Ngài có một chỗ lồi lên. Có những tấm màn lụa bao quanh và những lọng thêu kim tuyến che trên đầu Ngài. Đủ loại trang trí và lễ vật dâng cúng được thiết bày chung quanh Ngài. Vì vậy bà Chokyi thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Đức Phật.

Ở bên phải của Pháp Vương là một vị Thần Chết có thân người và đầu bò, tay đang cầm một tấm gương.  Ở bên trái là một Thần Chết đầu khỉ trong tay cầm một cái cân. Ở phía trước Pháp Vương là Thần Chết đầu hươu, đang viết và đọc một cuốn sổ. Ngoài họ ra còn có nhiều vị Thần Chết với những đầu thú khác nhau. Mặc những loại trang phục đáng sợ, họ nhe nanh, trợn mắt, vung đủ loại khí cụ và la lớn “Giết! Giết! Đánh! Đánh! Ha! Ha! Hung! Hung!”. Họ chạy, nhảy khắp nơi. Thật là một cảnh tượng đáng sợ. Tòa Phán Xét đang định đoạt số phận của khoảng ba trăm người.

 

Trong số những người này có một vị tu sĩ tay cầm chuỗi hạt. Pháp Vương đang hỏi vị Tăng này chi tiết về những gì đã làm trong lúc còn sống trên thế gian. Vị này kể ra nhiều việc tốt. Về việc xấu thì vị này chỉ nói đến một điều là ăn thịt.

Pháp Vương ra lệnh cho Thần Đầu Bò Awa và Thần Đầu Khỉ kiểm tra lại trong sổ. Họ tường trình với Pháp Vương rằng, ngoài những điểm khác biệt không quan trọng, vị tu sĩ đã nói đúng sự thật.

Lúc đó, Vị Thần Bảo Hộ Trắng xuất hiện và biện hộ cho vị tu sĩ, “Người này đã tạo lập công đức lớn và đã không làm điều gì xấu. Vị này không đáng bị đưa vào cõi người hay cõi trời, mà xứng đáng đưa về một cõi tịnh độ của đức Phật.” Rồi Ngài trình ra một túi đựng những hòn sỏi trắng, tượng trưng cho những công đức của vị tu sĩ.

Sau  đó, Quỷ Đen hiện ra và chống lại " người này đã tạo nhiều nghiệp xấu trong nhiều kiếp trước, vì vậy phải đầy y xuống địa ngục ". Quỷ Đen trình lên một cái chén đầy những viên sỏi đen biểu trưng cho những bất thiện nghiệp của vị tu sĩ.

Sau khi so sánh hai bên, các vị này thấy thiện nghiệp nặng hơn nhiều so với bất thiện nghiệp. Vị Pháp Vương tuyên bố “tất cả những nghiệp xấu của người này đã được những nghiệp tốt giải trừ rồi"

Sau đó Pháp Vương phán quyết: “Ngươi đã thành tựu bổn phận làm người. Được sanh ra làm người tốt hơn sanh vào cõi trời. Vậy Ta gởi ngươi đến làm con của một gia đình giàu có. Ở đó ngươi sẽ tiếp tục theo đuổi con đường đạo và tu tập tinh tấn.”. Ngay sau đó, vị tu sĩ biến mất theo một con đường  màu vàng lốm đốm.

Tiếp đó, Thần Chết tra hỏi một người khác. Người này nói, “Tôi không có chi tiết gì để kể về những việc làm tốt cho các Ngài. Tôi là một người nghèo khổ, thiếu ăn. Vợ tôi cũng không có đạo tâm. Vậy, ngoài việc đóng thuế, tôi đã không bố thí nhiều, tôi cũng không tu tập gì về thân và tâm. Tôi đã sát sanh một số cá, gà, dê, và cừu. Do ảnh hưởng những người xấu, tôi đã ăn trộm đồ vật của những vị ẩn tu, tôi rất hối hận!”. Người này run rẩy và tự đánh mình. Những Thần Chết cầm khí cụ lên và cười vui vẻ. Còn bà Chokyi thì sợ hãi.

Sau khi kiểm tra lại, những Thần Chết trình tâu với Pháp Vương, “Làm sao có thể đếm số cá mà người này đã bắt giết? y cũng đã giết hai mươi chín con gà, bốn mươi bảy con heo, bốn mươi ba con cừu, và sáu mươi con bò. Hãy xem con số côn trùng đã bị y giết hại khi đốt một quả núi! Cùng với bốn người khác, y  đã đánh và ăn cắp của bốn người đi hành hương.”

Nghe đến đây, Pháp Vương nói, “Ngươi đã làm những việc xấu như vậy, ngươi đã có lòng dạ hư thối, ngươi không lo cho bản thân mình một chút nào hay sao? Cướp bóc và làm hại những người có đạo tâm là tội còn nặng hơn giết các loài thú.” Ngài nói với các Thần Chết, “Bây giờ hãy cho y chịu đau khổ trong những địa ngục khác nhau. Y sẽ thọ hưởng những quả báo vô đạo đức của những việc cướp bóc, nên y phải chịu ăn uống bằng những hòn sắt nấu chảy.”

Vị Thần Bảo Hộ Trắng hiện ra xin giảm án và đưa ra hai mươi hòn sỏi trắng để tiêu biểu cho việc làm thiện của người đó. Rồi Quỷ Đen xuất hiện và đòi phải giam người đó vào địa ngục thấp nhất, vị này trình lên một số lượng lớn sỏi đen như Núi Tu Di (Sumeru). Lập tức, các vị Thần Chết tròng một sợi dây thòng lọng quanh cổ người đó, dùng móc sắt móc vào ngực và lôi y vào khu phòng sắt nóng cháy.

Kế tiếp là một tu sĩ đang mang một túi thuốc trên vai. Khi được tra hỏi, vị ấy kể ra tất cả những kinh sách mà mình đã tụng niệm và tất cả những lễ cúng  mà mình đã làm. Vị ấy cho biết chưa bao giờ để cho một hành giả nghèo (poor yogis) ra đi tay không. Vị ấy là thầy thuốc và chữa bệnh cho tất cả  mọi người với khả năng tốt nhất của mình. Vị ấy không bao giờ đòi trả lệ phí mà chỉ nhận những gì người bệnh đem biếu cho. Vị ấy không bao giờ cho ai dùng lầm thuốc. Vị ấy không bao giờ giết một con gia súc nào, vì là một gia chủ, ông chỉ liên quan gián tiếp sát sanh.

Sau đó những vị Thần Chết kiểm tra lại trong tấm gương và nói, “Ngươi đã nói thật về những nghiệp tốt của mình. Nhưng khi anh của người là Chongthar ngã bệnh. Ông ta đến để nhờ ngươi chữa bệnh. Vì ganh tị với sự giàu có của người anh mà ngươi đã cố tình cho ông ta uống không đúng thuốc, và ông ta đã bệnh nặng hơn trong tám tháng. Cuối cùng ngươi cũng chữa lành bệnh cho ông ta nhưng lại lấy một bộ áo giáp chất lượng tốt để bù vào công chữa bệnh của ngươi. Ngươi cũng đã giết một trăm bảy mươi ba gia súc.”

Khi đếm sỏi, các vị thần thấy số lượng sỏi trắng nhiều hơn một chút, nhưng khi cân thì nghiệp xấu lại nặng hơn.

Vị Pháp Vương nói với vị tu sĩ, “Nếu không cho uống sai  thuốc,  ngươi có thể được tái sanh vào cõi trời hay cõi người.” Rồi Ngài ra lệnh cho Thần Chết, “Hãy đưa người này đến hồ nước độc nóng sôi, lúc nào cũng cho y  uống nước độc đang sôi đó. Đóng một ngàn gai sắt lên cơ thể của người này. Khi nghiệp bất thiện đã được giải trừ, sẽ cho y đi lên". Các vị Thần Chết lấy móc sắt móc vào ngực  lôi đi giữa sự rúng động của mọi người.                                 

Tiếp đó, một người đàn ông mặc quần áo len xanh thú tội, “Khi người vợ thứ nhất bỏ tôi, tôi mất đi tất cả hai trăm gia súc. Để trả thù, tôi đốt trụi hai ngôi nhà của cha mẹ cô ta, thiêu chết bảy mươi lăm gia súc, bắn và giết một người đàn ông và một phụ nữ khi họ đang cố chạy trốn. Sau đó tôi tái hôn và trở nên giàu có. Để thanh lọc những ác nghiệp của mình, tôi đi hành hương lễ bái khắp đất nước Tây Tạng trong hai năm và đã gặp nhiều vị lạt ma thành tựu. Tôi đã khóc lóc và sám hối tội lỗi của mình trước mọi người. Tôi đã tiếp nhận được gia trì lực và truyền pháp thiền quán về chơn tánh, về sự hợp nhất của quang minh, trí tuệ và chơn không. Tôi đã tuyệt thực nhiều lần và đã thọ trì nhiều kinh điển.”

Vị Pháp Vương nói, “Có nhiều người làm điều tội lỗi, nhưng rất ít người thanh lọc ác nghiệp. Nếu biết thanh lọc thì ác nghiệp có thể được giải trừ. Nếu ngươi đã tạo nghiệp tốt mà không có nghiệp xấu thì ngươi sẽ là người hướng dẫn những ai có liên hệ với mình đạt đến giải thoát. Nhưng ngươi sẽ tái sanh lại cõi người và sẽ tu tập theo Kim Cương Thừa hay Mật Tông, và trong bốn kiếp nữa ngươi sẽ thành tựu trong việc đạt đến Phật quả. Vậy ngươi hãy đi theo con đường màu vàng, là con đường đến cõi người và cõi trời.”

Một lúc sau, nhiều người đến Tòa Phán Xét Pháp Vương cùng lượt với bà Lingza Chokyi đã được đi lên hay đi xuống các cõi tái sanh khác nhau. Nhiều người được các vị Thầy của họ đưa lên các cõi cao. Nhưng rồi vẫn có những người mới được đưa vào.

Bỗng vị Pháp Vương đứng dậy nói, “đó, ông ta đã đến kìa”. Bà Chokyi thấy trên đường đèo ở xa đi đến một vị Tăng với vóc dáng khỏe mạnh to lớn, với ba trăm người vây quanh. Đi sau đoàn người này là khoảng ba ngàn người nữa. Tất cả đều nhảy múa và niệm Thần chú OM MANI PADME HUNG. Sau đó vị tu sĩ tuyên bố: “Tôi là Jechung, người niệm OM MANI PADME HUNG. Đây là cõi trung ấm và địa ngục. Tất cả những ai có liên hệ với tôi, hãy đi theo tôi. Tôi sẽ hướng dẫn các vị đến cõi tịnh độ". Những cánh cửa của địa ngục đột ngột mở ra một cách tự nhiên. Các vị Thần Chết ngất xỉu và những khí cụ rơi khỏi tay họ. Dòng người  đông đảo đi theo vị tu sĩ. Những vị Thần Chết đứng dậy với vẻ tôn kính và ra lệnh, “nhiều người trong các ngươi có thể rời nơi đây nhưng không phải tất cả.” Có khoảng ba trăm người bị bắt lại trong dòng người đó và đưa họ trở lại địa ngục.

Bà Chokyi không có mối liện hệ gì với vị tu sĩ này, nên không đi theo vị ấy. Bà hỏi vị Pháp Vương, “Vị tu sĩ đó đem theo nhiều người mà không cần hỏi han gì tòa án này. Ngài đã giải thoát cho những người đó khỏi luật lệ nghiêm khắc của tóa án này. Làm sao vị ấy có oai lực lớn như vậy?”

Vị Pháp Vương giải thích, “Vị tu sĩ đó được gọi là Jochung Ma-we Seng-ge, người trì niệm OM MANI PADME HUNG. Ngài đi tu từ hồi còn nhỏ. Ngài có lòng tin tưởng nơi Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), lúc nào cũng trì niệm OM MANI PADME HUNG và có lòng từ đối với tất cả chúng sanh. Ngài thực hành và tuyên dương phép tuyệt thực. Ba trăm người đến với Ngài là những người đã tạo nghiệp tốt thực hành phép tuyệt thực cùng với Ngài. Những người mà Ngài đưa đi là những người tin tưởng, thấy, tiếp xúc, nghe giáo lý, cúng dường Ngài hoặc nhận sự gia trì, của Ngài. Những người bị bắt lại là những người không có nhân duyên nào với Ngài hoặc đã có mối liên hệ tiêu cực đối với Ngài.

Người kế tiếp là một nữ tu có vẻ đẹp hấp dẫn. Tòa án nhận thấy cô ta chỉ tham muốn những thú vui của trần gian. Cô không có tín tâm, không bố thí, và tạo nhiều nghiệp xấu. Cô van xin được trở lại trần gian để tu tập theo Giáo Pháp. Nhưng cô đã bị đẩy xuống địa ngục.

Tiếp đó, một cô gái cầm xâu chuỗi trong tay đang niệm OM MANI PADME HUNG đi đến gần. Cô  tên là Marza Chodron. Cô đã học giáo lý và được gia hộ. Cô giữ gìn niềm tin, cúng dường, phụng sự các tu sĩ, và chết ở tuổi ba mươi ba.

Cô ta nói, “Tôi đã được các vị lạt ma chỉ dạy rằng bất cứ những sắc tướng và âm thanh tốt hay xấu nào của thế giới bên ngoài  xuất hiện, cũng là những ảo giác của tâm thức. Không có gì là thật cả. Vì vậy tất cả các vị mà tôi thấy ở đây là những sắc tướng tự xuất hiện trong tâm của tôi. Thực tế thì không có một vật nào có sự hiện hữu thực sự. Tôi không nghĩ rằng thân xác của tôi là có thật. Dù những hình thể hay màu sắc nào xuất hiện với tâm tôi, thì tôi cũng không có gì để nắm giữ cả. Vì vậy không có gì bị luộc hay bị thiêu đốt trong địa ngục cả".

Trong tấm gương của các vị Thần Chết thấy có nhiều nghiệp tốt hơn là cô đã kể. Nhưng họ cũng nhận thấy cô đã gián tiếp can dự vào những nghiệp bất thiện như giết một số côn trùng. Cô cũng gián tiếp đến việc cho phép làm thịt bảy con gia súc cho tiệc cưới của cô. Một phần tư nghiệp quả của việc sát sanh này sẽ thuộc về Cha Mẹ của cô dâu và chú rể, một phần tư thuộc về cô, một phần tư thuộc về chồng của cô, và một phần tư thuộc về người đồ tể. Tuy vậy Pháp Vương đã ngợi khen về những việc mà cô đã làm trong đời sống nói chung: “Nhờ thiền quán về thật tánh của tâm, ngươi đã nhận ra được tánh Không của vạn vật. Tất cả chúng đều xuất hiện từ tâm của chính ngươi. Ngươi đã đạt được trí tuệ về tánh Không, về mọi huyền ảo, Ngươi đã tu tập trong ý nghĩa của tâm bất khả phân và những vật đối tượng xuất hiện đến tâm. Đó là công đức vô thượng Dù người chưa chứng ngộ chân lý tối thượng, vì quá trình tu tập của ngươi chưa bao lâu, nhưng những gì ngươi đã đạt được cũng có sức mạnh. Tất cả những nghiệp xấu mà ngươi đã tạo đã được giải trừ. Nhưng trước khi ngươi chứng ngộ được chơn tâm, linh thị về các cõi tịnh độ sẽ chưa xuất hiện. Bây giờ ngươi sẽ tái sanh vào xứ Oddiyana ( ở miền Tây Bắc Ấn Độ, giáp giới với Pakistan & Afghanistan ) và sẽ tu tập theo mật giáo trong tám mươi năm. Sau đó người sẽ thác sanh về thế giới Cực Lạc và đắc Phật quả ở đó”.  Lúc đó vị Thầy của cô, Đại Sư Gomchen Kunga Yeshe đến cùng với nhiều người có nhân duyên với vị Thầy này. Cô đã đi theo con đường màu trắng.

Một ông già khoảng bảy mươi tuổi vừa đến, tay cầm xâu chuỗi và bánh xe pháp luân cầu nguyện, được tháp tùng bởi sáu mươi người nam và nữ. Họ đang trì niệm OM MANI PADME HUNG. Ông ta nói: “Tôi là Sherab Rinchen, người khắc câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên đá. Tất cả những người nào có nhân duyên thì hãy đến đây với tôi. Tôi đã được mời về cõi tịnh độ của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm”.  Có khoảng bốn trăm người đi theo ông. Nhưng ba người bị những vị Thần Chết kéo lại.

Vị Pháp Vương nói, “Ông ấy đã trì niệm gần một trăm triệu biến OM MANI PADME HUNG. Ông cũng đã khắc câu Thần chú OM MANI PADME HUNG lên nhiều tảng đá và ông đã đặt bên lề đường để mọi người có thể bái lạy và thọ trì. Ông có một vợ và ba con. Những người đi theo ông là những người đã tin tưởng nơi ông. Ông có thể giải thoát cho nhiều người khác, nhưng vì người Tây Tạng nghĩ rằng đời sống hôn nhân là không phù hợp với một lạt ma nên nhiều người đã không tin tưởng ở ông ta”.

Vào thăm Địa Ngục

 Đến lúc này, những người đã đến Tòa Án cùng với bà Chokyi đều đã được đưa đi lên hay xuống sau khi thẩm vấn. Ngoại trừ Chokyi, trong những người đến trước đây, bây giờ đều không còn ai ở lại. Nhưng nhiều người mới vẫn tiếp tục đến và chờ đợi. Bà Chokyi tự nghĩ, “Mình không có nhiều nghiệp tốt để kể ra, mà ở đây lại không thể nói dối được. Vậy mình phải làm sao đây?”. Bà bắt đầu run lên vì sợ hãi.

Ngay lúc đó, vị Pháp Vương nhắm mắt lại để suy nghĩ. Rồi Ngài bảo các vị Thần Chết, “Hãy cho bà này vào một cõi của người chết, làm cho bà ta nhớ lại tất cả những gì đã thấy, sau đó đưa bà trở lại đây ngay.”

Một vị Thần Chết đầu-cọp đặt xuống bên dưới một thang màu đen. Khi leo xuống, vị Thần yêu cầu Chokyi đi theo mình vào thăm cõi địa ngục. Khi xuống đến nơi, bà thấy mình trên mặt đất bằng nền sắt đang bốc cháy, xung quanh là những bức tường sắt khổng lồ đang bốc lửa khoảng tám tầng. Ở mỗi tầng, bà Chokyi chứng kiến nhiều chúng sanh đang trải qua những loại đau khổ khác nhau.

Trong số những địa ngục mà bà Chokyi, Tsophu Dorlo, và những delog khác đã đi qua là tám địa ngục nóng và tám địa ngục lạnh cùng với những địa ngục phụ. Chúng sanh trong những cõi địa ngục này phải chịu  những mức độ tra tấn hành hạ khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiệp bất thiện từ thân, miệng, ý khác nhau. chính yếu là dựa trên nghiệp sân hận hay thù ghét mà họ đã tạo trong quá khứ.

Ở tầng thứ nhất, tính từ trên xuống dưới, nhiều người bị liệng nằm ngửa trên nền đất nóng cháy và bị những đao phủ khác nhau cắt ra từng mảnh. Tất cả những sinh linh này đều xem nhau như kẻ thù và giết hại lẫn nhau với vẻ đầy sân hận. Khi nào họ ngất xỉu, một tiếng nói sẽ vang lên “tỉnh lại.” Tức khắc họ tỉnh dậy và lại chịu những hành hạ đó. Những người này trong đời sống thế gian trước kia đã làm hại Cha Mẹ và bạn bè của mình với sự thù hận.

Ở tầng thứ hai, quân đao phủ đang liệng nhiều người xuống đất nóng cháy. Họ vạch những đường lằn trên thân thể của những người này rồi cắt thành từng mảnh theo đường lằn đó bằng lưỡi cưa nóng cháy. Những chúng sanh này trước kia là thợ săn, đồ tể hay những kẻ chuyên hạ độc người khác.

Ở tầng thứ ba, nhiều người bị ném vào cối sắt nóng cháy và bị giã nát bằng chày nóng bỏng. Nhiều sinh linh khác cũng bị ép lại giữa những ngọn núi đang cháy. Những tội đồ này là những thợ săn, đồ tể, những kẻ làm thịt gia súc, và thợ làm vũ khí.

Ở tầng thứ tư, nhiều người đang bị nướng trên lửa, và đang kêu la khủng khiếp. Họ là những người buôn bán thuốc và những  kẻ giết người, ngựa, hay chó. Cũng có những người đã mắng chửi người tu hành và làm vũ khí.

Ở tầng thứ năm, trong một tòa nhà khổng lồ nóng bỏng, các sinh linh bị thiêu đốt bên trong lẫn bên ngoài. Tất cả đều kêu khóc như tiếng sấm rền. Họ là những người đã xúc phạm đến ba ngôi Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, tà kiến và trộm cắp của những người có đạo tâm.

Ở tầng thứ sáu, các sinh linh bị thiêu đốt trong đống lửa lớn, thỉnh thoảng quân đao phủ lại lấy họ ra rồi đập nát họ bằng những búa nóng cháy, sau đó liệng vào ngọn lửa trở lại. Đây là những người đã không tin luật nhân quả và những hành vi thiện, ác; những người đã giết hại chúng sanh khác như cá, rắn với sự độc ác và xem thường nghiệp quả.

Ở tầng thứ bảy, nhiều người đang bị nấu trong sắt nóng chảy, với tiếng sắt sôi và tiếng bể thổi lửa vang lớn như tiếng sấm. Họ đã tạo nhiều nghiệp ác như đốt rừng khiến nhiều sinh linh bị chết và hủy diệt những kiến trúc tôn giáo.

Ở tầng thứ tám, các tội đồ bị đóng đinh vào nền đất nóng cháy và thân thể của họ bị cắt xẻ, bị hành hạ với những khí cụ khác nhau. Khi bị thiêu đốt, những ngọn lửa phụt ra từ những lỗ trên thân thể của họ. Họ là những người đã không làm một công đức nào cả, đã phạm ngũ nghịch tội (giết Cha, giết Mẹ, giết Thánh Nhơn, phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu) và những tội khác cũng như phá hủy những công trình kiến trúc tôn giáo và những nguồn lợi chung của mọi người. Họ cũng là những người vi phạm giới nguyện mật giáo, tà kiến và phá hủy niềm tín tâm và mục đích tu tập theo chánh đạo.

Bà Chokyi cũng đến thăm những địa ngục phụ, được gọi là “bốn địa ngục kế cận”. Trong những địa ngục này, nhiều người đang chìm trong bãi bùn lầy dơ bẩn và bị côn trùng rỉa róc. Nhiều người bị kéo lưỡi bằng móc sắt và bị cày bằng những lưỡi cày nóng cháy. Nhiều người liên tục làm cho mình bị thương khi họ trèo lên và leo xuống những ngọn núi mọc đầy những cây cối có hình thù như đao kiếm bén nhọn và nóng bỏng, hoặc họ đi trong một cánh đồng đầy lưỡi dao. Những hình thức hành hạ này là hậu quả của việc làm ô uế nơi thanh tịnh và thiêng liêng, vu khống người vô tội, tham dục, và hưởng lợi bất chính từ những tài sản của tôn giáo và của Cha Mẹ.

Sau đó Chokyi đi thăm tám địa ngục lạnh, nơi vô số sinh linh không có y phục che thân đang bị đông lạnh và run rẩy trên một nền băng giá với những luồng gió rét. Thân thể của họ bị nứt ra từng mảnh và nhiều màu sắc khác nhau, và họ thốt ra đủ mọi tiếng kêu la.

Thông Điệp cho người còn sống

Sau cùng, bà Chokyi trở lại Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Ngài nói với bà, “Ngươi là một trong những người bị  đưa lầm vào đây, vì có sự lầm lẫn về tên tuổi và gia tộc. Thân xác của ngươi vẫn còn nằm ở nhà an toàn. Ta đã xem trong tấm gương, nhưng không thấy có điều hạnh phúc nào đang chờ đợi ngươi, vậy lần này ngươi có thể trở về nhà. Lần tới khi trở lại đây, ngươi hãy làm sao để chắc chắn là không có lý do gì để lo sợ vì đã không tu tập theo Chánh Pháp. Ngươi đã chính mắt mình trông thấy quả báo của những thiện nghiệp và ác nghiệp”. Rồi Ngài nhắn gởi bức thông điệp sau đây cho những người còn sống trên thế gian:

Có nhiều người đang thọ hưởng đời sống trọn vẹn của thế gian,
Nhưng họ qua đời với hai bàn tay trắng, không có công đức tu tập nào cả.
Hãy nhắn lại với những người không có đạo tâm đó với thông điệp sau:
Nói với họ rằng chính ngươi đã đến cõi giới của người Chết
Nói với họ rằng ngươi đã gặp Pháp Vương.
Nói với họ rằng ngươi đã thấy mười sáu địa ngục.
Nói với họ rằng biển sanh tử luân hồi rộng lớn.
Dù số người nam nữ là vô lượng
Khi họ bị nghiệp quả theo đuổi
Họ sẽ không có nơi nào để đi ngoài Tòa Phán Xét
Khi nghiệp quả xấu đến với ngươi
Mọi sắc tướng sẽ xuất hiện như những kẻ thù địch
Sẽ không có gì không có tính cách chống đối
Ví dụ như, một ngọn lửa xuất phát từ ngươi sẽ đốt ngươi.
Ngọn lửa này không phát sinh từ nơi nào khác.
Sự phát sinh của những nhận thức của ngươi như những kẻ địch,
Là kẻ thù hơn bất cứ một thế lực nào khác.
Ai làm ra những vũ khí đáng sợ đó ?
Làm sao họ có những vũ khí đó? Ai đã làm và được trao cho ai ?
Ai là Cha Mẹ đã nuôi dưỡng
Những đao phủ quái dị đó của các Thần Chết ?
Hiện tượng địa ngục cũng huyễn ảo giống như những giấc mộng của ngươi
Ngươi sẽ không chứng ngộ tâm mình là Phật 
Trừ khi học cách chứng ngộ tánh Không của vạn hữu.
Khi biết cách giải thoát mọi cảm nhận của mình
Dù đi tìm ngươi cũng sẽ không thấy có địa ngục nào cả
Dù ngươi tìm địa ngục, địa ngục cũng sẽ là Tịnh Độ an lạc
Người ngu si vô trí lại lo sợ
Những hình ảnh tự tạo của chính tâm mình
Thì thật ra họ sợ cái bóng của chính mình.
Không có gì là có thật, nhưng mọi vật xuất hiện trong mọi hình dạng.
Mọi vật xuất hiện nhưng không hiện hữu theo tính chất thật của chúng.
Đó là tính chất của sự hợp nhất sắc tướng và chơn không.
Những người nào đã biết về tính chất đó,
Nên thiền quán về tính chất đó
Quyết định rằng tất cả đều là những hình ảnh tự xuất hiện
Tất cả chính là mình, không phân cách với mình.
Vậy hãy quyết định rằng luân hồi và Niết Bàn chính ngay nơi tâm của chính mình.
Hãy tinh tấn trì niệm OM MANI PADME HUNG.
Ngươi đã thấy ở đây oai lực của việc trì niệm Thần chú này chưa ?
Đừng quên tất cả những lời nhắn nhủ này.
Hãy kể cho mọi người biết những gì mà ngươi đã chứng kiến ở đây
.

Vị Pháp Vương bảo bà Chokyi trở về nhà. Rồi bà hướng về con đường đèo tuyết phủ. Bà Chokyi bước đi với ý nghĩ mình trở về nhà. Tức khắc bà thấy mình đang ở nhà. Giường bà bị ngăn bằng một tấm chăn. Trong giường bà thấy xác một con rắn, như bà đã trông thấy lúc trước đó.

Bực bội với gia đình của mình, Chokyi nghĩ rằng, “Họ biết mình sợ rắn, vậy mà họ lấy xác một con rắn đặt lên giường của mình rồi lấy y phục của mình mặc cho nó”. Rồi bà quyết định, “Bây giờ, dù sợ hay không, mình phải lôi con rắn cùng với mớ quần áo rồi liệng nó ra ngoài cửa". Bà nhắm mắt lại, hai tay nắm vào lớp vải áo rồi kéo. Bà có cảm giác như thể mình đang bị té ngửa, nhưng tức khắc bà thấy mình đang ở trong thể xác này, giống như vừa thức dậy sau một giấc ngủ.

Chokyi thở một hơi dài, và người con trai trưởng gọi bà “Ama! Ama!” bà đáp “Ah.” Con bà la lớn,Ama đã sống lại. Mọi người hãy đến đây!” Tất cả họ hàng chạy đến chỗ bà. Bà Chokyi kể lại mọi sự kiện mà bà đã trải qua, và mọi người đều khóc. Nhớ lại những đau khổ ở địa ngục, bà cũng khóc. Dần dần sức khỏe của bà phục hồi. Những người trong gia tộc của bà cúng dường các vị lạt ma rồi trở về nhà của họ

Đến mùa thu, bà tổ chức một cuộc họp mặt để thọ trì một tỷ biến thần chú OM MANI PADME HUNG. Bà cũng cúng dường cho nhiều tu viện.

Bà Chokyi lo cho chồng và các con những hành trang cần thiết để đi tới một nơi mà ở đó họ có thể  tu tập theo Giáo Pháp. Bà và con gái trở thành nữ tu và đi hành hương nhiều nơi cũng như dành trọn cuộc đời của mình cho việc tu học và từ bỏ mọi sinh hoạt của thế gian.

Bà Lingza Chokyi kết luận chuyện kể delog của mình với những lời sau đây:

"Tôi đã đích thân chứng kiến địa ngục trong con người. Hạnh phúc và đau khổ ở ngay trong tầm tay để chúng ta tự chọn. Khi tự ý chọn trong bàn tay của mình, xin đừng lo nghĩ quá nhiều về những gì mình muốn có trong cuộc sống này, mà phải cố gắng làm những việc gì tốt đẹp nhất cho kiếp sau của mình.

 
Điều tốt nhất để làm là buông bỏ những thú vui của cuộc sống này. Hãy cố gắng chứng ngộ tính chất thật của tâm mình. Nó có oai lực thật kỳ diệu.
Điều tốt thứ hai là không tạo nghiệp xấu qua thân, miệng, ý, và dành tất cả những nỗ lực cho những sinh hoạt trong Chánh Pháp.
Ít nhất cũng nên cúng dường một số tài sản cho những vị Thầy và các tu sĩ và cũng chia sẻ với những người nghèo khó
".

Những phán xét nào đang chờ đợi tôi ?: Kinh nghiệm của Karma Wangdzin

Sau khi có kinh nghiệm thoáng thấy về chơn tánh tối thượng một chút, như chúng ta đã thấy ở chương 3, Karma Wangdzin đã trôi nổi đây đó như một lông chim trong không khí, vì bà không còn thân xác thô kệch để thần thức của mình trụ vào nữa. Bây giờ tâm của bà trong sáng hơn nhiều lần so với lúc còn sống.

Một ý nghĩ lóe lên trong tâm của Karma: “Mình đã thực sự chết rồi sao?” bà nhìn quanh một cách tuyệt vọng để tìm kiếm những người bạn nhưng không thấy ai cả. Rồi tức khắc bà quên câu hỏi là mình đã chết hay chưa. Bà cảm thấy cô đơn và nghĩ rằng đó là vì sống ẩn cư trong tu viện lâu rồi. Vì vậy bà tự nhủ, “Chỉ  từ bỏ thức ăn ngon, quần áo đẹp, và trò chuyện vặt với mọi người thì như vậy chưa phải là tu hành. Mình nên trở về nhà hơn là ở lại tu viện này với cảm giác buồn chán”. Ngay khi có ý định trở về nhà, bà Karma thấy mình đang ở Ogtro, thị trấn quê hương của bà và không còn ở tu viện nơi bà ẩn cư nữa.

Chồng của bà Karma, là Trưởng Làng của thung lũng không có ở nhà, vì ông đã đến Tu viện Traphu cùng với nhiều người khác. Những người còn ở nhà đang than khóc và kêu tên của Karma “Ôi, Lhawang Putri! Ôi Lhawang Putri!”

Karma cố nhấc cánh tay của một số người, và hỏi, “Bạn bị ông Trưởng Làng mắng chửi hả?” nhưng không ai trả lời hay nhìn bà. Rồi bà nghe thấy một tiếng la lớn ở bên ngoài. Ở ngoài đường, người ta nói với nhau, “Lhawang Putri đã chết rồi!” nhiều người đang khóc lóc cũng nói, “Bà ấy thật khiêm nhường và rộng lượng.” Những người khác thì nói nhỏ với nhau “Bà ta to xương mà vai lại hẹp”. Ý họ muốn nói là bà có con tim cứng rắn và có tánh ganh tị.

Rồi bà trở về nhà mình. Những người trong gia đình bà đang kêu khóc “bà của chúng ta đã đi rồi!”thật là tội nghiệp cho bà!” Buồn thay cho Trưởng Làng!” bà thấy những người thân nhỏ những giọt nước mắt đau đớn. Họ vô tình làm cho bà hứng một trận mưa máu và mủ rơi xuống bà trong hình dạng lớn cở quả trứng. Cơn mưa những giọt nước mắt này đi kèm với tiếng động sấm sét cứ đâm vào da, và làm gãy xương của bà. Phần lớn thời gian, bà thấy mình vẫn mặc y phục như thường lệ, nhưng trong cơn mưa bão như vậy, bà cảm thấy thân thể của mình bị đụng chạm và trần trụi.

Từ một nguồn vô hình nào đó, bà Karma nghe thấy một giọng nói, “Hãy đến Tu viện Traphu.” Chỉ bằng ý định thôi, bà đã đến Traphu ngay lập tức. Chồng của bà và những người khác đang bận rộn tổ chức một lễ hội. Hai vị tu sĩ nhanh nhẹn thiết trí một án thờ với những bức tranh tôn giáo thangka và nhiều lễ vật cúng dường. Bà nghĩ, “Ồ, thì ra họ đang làm lễ cúng dường Ngày thứ Bảy,” (Seventh-Day Offering) một nghi lễ hàng năm của Tu viện. Nhiều người lần lượt từ Ogtro đến chia buồn với chồng bà và mời ông ta những món đồ uống truyền thống.

Người quản gia của ông Làng Trưởng cũng đến, mang theo những món trang sức của bà Karma và đặt những món này lên bàn thờ, sau đó chào vị trưởng làng và nói, “xin ông đừng khóc, quả thật đây là bi kịch. Đây là lúc ông đau buồn nhất, nhưng bà ấy không giữ nhiệm vụ như một vị chủ nhân của ngôi nhà vùng Pagro nữa. Bà ấy còn nói đến việc giúp đỡ nhiều cô gái trong vùng bỏ nhà đi xuất gia. Người dân chúng tôi xem bị đau ngón tay trỏ của mình nghiêm trọng hơn là sự ra đi của bà. Bây giờ chúng ta phải tập trung vào việc chuẩn bị làm tang lễ”.

Một dòng nước mắt rơi xuống, vị Trưởng Làng nói, “Mặt trời đã lặn ở giữa ban ngày. Chúng tôi chỉ được sống với nhau một thời gian rất ngắn, mà tôi thì không có Cha Mẹ. Bà ấy là người bạn thật sự độc nhất mà tôi có. Giờ đây tôi cũng đã mất bà ấy rồi.”

Rồi ông Trưởng Làng bảo “Cho đến khi xong lễ chung thất bốn mươi chín ngày, nên bảo quản thi hài của bà ấy còn nguyên vẹn mà không ướp xác. Bà là hạng người có thể sống lại như một delog. Chẳng hạn như bà Lingza Chokyi, đã trở về thế gian với nhiều chuyện kể về kinh nghiệm sau khi chết. Lúc đó bà Karma đang khóc và nghĩ, “Mình chết thật rồi sao?”.

Nhưng ngay sau đó, bà Karma lại vẫn tin là mình còn sống. Nắm lấy tay chồng, bà cố gắng nói với ông ta là bà còn sống và ông ta không có lý do gì để buồn về điều gọi là cái chết của bà. Nhưng ông ta cũng như tất cả những người khác đều không đáp lại lời phân bua của bà. Bà cho rằng mọi người đang giận mình.

Chồng bà yêu cầu một người giúp việc dùng một con trâu yak chở những bánh trà cho một số người. Nhưng bà Karma thấy trên đường đi, người giúp việc đã lặng lẽ ăn cắp một số bánh trà và giấu trong một cái túi để xài riêng. Bà thấy xấu hổ cho anh ta vì hành vi thủ lợi nhỏ mọn như vậy.

Khi những người hầu dọn thức ăn cho ông Trưởng Làng, bà Karma nghĩ là mình sẽ ăn chung với chồng như thường lệ, nhưng không ai tiếp thức ăn cho bà, và cả chồng bà cũng không mời bà gì cả. Bà khóc và nghĩ, “Bây giờ thì một bữa ăn nhỏ mình cũng không được tham dự.” Bà giận dỗi và nghĩ về chồng, “Chính ông đã không cho tôi ở với Cha Mẹ thân yêu của tôi và không cho tôi đi tu, lại còn nói "anh sẽ lo tất cả mọi nhu cầu cho em.” Nhưng bây giờ ông đã cư xử giống như bọn người hầu của ông. Tôi còn không có quyền ăn với ông một bữa ăn nhỏ. Thôi tôi trở về tu viện của tôi đây".

Trước khi đi, bà lại nghĩ về chồng mình “Khi tôi còn là đứa con cưng của Cha Mẹ tôi và được tự do đi tu, ông đã dụ dỗ với tôi với những lời hứa này nọ. Bây giờ thì tôi cũng không được ăn uống dù chỉ một chút. Ông đã lấy những món trang sức mà Cha Mẹ tôi đã cho tôi. Trước đây ông xem tôi như một Thiên nữ. Giờ đây ông bắt tôi lang thang như một con chó hoang, không ai thèm nhìn ngó. Tôi không thể tin cậy nơi ông một việc gì nữa. Tất cả hy vọng của tôi và lời hứa của ông giống như vẽ trên nước. Bây giờ tôi đã hiểu hết ý nghĩa của câu nói thời xưa“Cho đến khi bị thòng lọng xiết cổ, người đàn bà không biết lo nghĩ một chuyện gì hết". Tôi sẽ cảnh báo cho tất cả những cô gái chưa chồng biết và khuyên nhủ họ buông bỏ mọi thứ và đi xuất gia theo Chánh Pháp”.

Sau đó bà hét lớn: “Ông Trưởng Làng và tất cả mọi người, hãy nghe tôi nói. Tôi ở đây làm phiền mấy người. Ông cứ vui hưởng của cải và quyền lợi của ông. Tôi sẽ vui sống với Chánh Pháp. Ông đừng ân hận gì cả nhé!”. Không một ai mời bà đi trong khi họ than khóc. Bà bèn bỏ đi khỏi nơi đó.

Trong thung lũng, bà trông thấy một nhóm vong linh đang hạ xuống từ vùng đất cao của thung lũng. Họ nói với nhau “Có một lễ cúng ở thung lũng Gechu. Chúng ta hãy đến đó.” Bà Karma cũng đi theo họ đến Tu viện Kunga Ling. Mấy con chó vốn quen thuộc với Karma, bây giờ lại sủa vang và nhào tới bà. Bà chạy ra và đợi ở bên ngoài. Sau đó một tu sĩ dâng cúng nước và bánh "torma", rồi liệng những đồ cúng ra ngoài. Đủ loại sinh linh bu tới như ruồi đen để hưởng những món đó. Những vong linh được người ta dâng cúng thì hưởng những món đồ cúng chính yếu, trong khi những vong linh khác thì chia nhau những đồ cúng còn lại. Nhiều vong linh yếu ớt hay bệnh tật không tranh dành được gì cả, họ đau khổ nhào xuống đất kêu khóc ầm ĩ vì đói khát. Có những vong linh vừa khóc vừa ôm nhau. Karma cảm thấy ngượng vì bà có hoàn cảnh tốt hơn họ. Bà rất thương xót nhưng không thể làm gì được cho những vong linh đau khổ đó, giống như người đui giúp kẻ mù. Bà khóc rống lên vì họ và ngay lúc ấy bà nghe một giọng nói rất rõ ràng:

"Thứ nhất, họ không tạo lập công đức nào cả trong quá khứ.
Thứ hai,  sự đau khổ đó là do hậu quả của những nghiệp xấu của họ.
Thứ ba, ở đây những vong linh như vậy chỉ là thiểu số.
Buồn thương cho họ cũng không ích lợi gì. Vậy hãy bình tĩnh
".

Rồi bà Karma muốn đến Zagrum để thăm Cha Mẹ. Tức khắc bà thấy mình đang ở Zagrum. Mẹ Karma đang đi kinh hành quanh một chùa để làm lễ. Karma nói ngay với mẹ, “Amala ơi, cho con xin một chút gì để ăn.” Mẹ của bà không nói gì cả mà cứ tiếp tục đi nhiễu. Karma nghĩ, “Trước đây khi mình đi ngựa đến với mấy người bưng quà biếu, Mẹ mình sẽ khen ngợi, “Ôi, con gái của tôi đã về” và vui vẻ đón tiếp mình với bia "chang". Giờ đây thì bà cũng giống như những người khác, làm lơ với mình. Chắc bà đã nhận được một lá thư của ông Trưởng Làng than phiền về mình chăng. Mẹ  phải quan tâm nhiều cho chồng mình, con trai của người khác, hơn là lo cho con gái ruột của bà”.

Karma nắm áo mẹ và van xin “Vì con lấy vị Trưởng Làng theo sự sắp đặt của Cha Mẹ, con đã nghĩ là dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì con đây cũng phải chấp nhận số phận của mình". Trưởng Làng đã đi lại với một cô gái ở Shar, nhưng con lại là người bị bắt lỗi vì vụ đó và bị đánh đập. Con không muốn cho Cha Mẹ biết sự việc này. Vì con không sinh đẻ gì nên một chút đồ ăn thức uống người ta cũng không chia phần cho con. Xin Mẹ hãy cho con chút gì để ăn, rồi con sẽ đi khỏi nơi đây để tu học”.

Không nhìn Karma mà cũng không nói một lời nào, Mẹ của bà đi vào nhà. Bà Karma vẫn đi theo dù không được mời. Trong nhà Cha Mẹ, cả nhà tụ lại để ăn trưa. Karma đang đói và ngồi phía sau Mẹ mình, chờ đợi để được mời ăn, nhưng không có ai để ý tiếp cho bà cái gì. Sau bữa ăn, mọi người ra ngoài và Karma cũng đi. Tưởng là tất cả mọi người đều giận dỗi mình, bà lăn ra đất khóc lóc thê thảm.

Trong giây lát, bỗng bà nhớ lại rõ ràng những hướng dẫn về việc kiểm nghiệm những dấu hiệu của cái chết, do vị Thầy nổi tiếng là Đại Sư Norbu Trashi đã ban cho bà. Trước tiên bà kiểm tra xem mình có bóng đen hay không, không có bóng gì cả. Rồi bà lắng nghe tiếng bước chân của mình, không có tiếng gì cả. Bà nghĩ, “trời ơi! Chắc mình đã chết rồi! tất nhiên là đúng như vậy! Cuộc đời của mình trải qua nhanh như chớp. Cảnh đời nhỏ bé như nhìn qua một cọng rơm. Mình chưa từng đạt được một sự tự tin nào trong việc tu tập. Mình không nhớ là đã bố thí cho ai bao giờ chưa. Bây giờ mình sẽ bị các sứ giả của Thần Chết bắt đi". Với sự đau buồn và than khóc cho thân phận mình, bà té xuống đất bất tỉnh. 

Sự hướng dẫn của một vị Thần, Tara Trắng

Khi bà Karma tỉnh lại, một người mặc áo trắng, tóc cột ở phía sau lưng đang đứng trước bà, tay cầm một cái trống nhỏ.  Ngài là Tara Trắng, vị Thần bảo hộ của Karma, vị nữ thần nắm tay Karma và nói những lời an ủi:

"Than ôi ! Đừng buồn. Hãy đứng dậy đi con
Khi còn những phiền não và không giác ngộ thật tánh của các pháp
Mà lại nói là mình đã chứng ngộ thì mình nói dối và độc ác.
Đức Phật dạy“Sinh và tử là nghiệp của đời người.
Và chúng diễn ra liên tiếp”.
Cái chết không chỉ xảy ra với con.
Tất cả các sinh linh khác đều phải đi qua con đường này
Ta sẽ phù hộ để cho con ra đi trong bình an
"

Trong hành trình chuyển tiếp của bà Karma, không phải lúc nào cũng trông thấy Đức Tara Trắng, nhưng khi gặp phải tình trạng khó khăn thì nữ thần liền hiện ra hướng dẫn bà. Tara Trắng là một vị Phật trong thân tướng người nữ, và Karma có liên hệ với Ngài vì bà cầu nguyện Ngài và thiền quán về Ngài như  hình ảnh của Đức Phật. Nhưng dù có sự hướng dẫn của Tara Trắng, bà Karma vẫn phải đối diện với những nghiệp quả xấu của mình.

Trước khi đi với Ngài Tara Trắng, bà Karma nói với Mẹ " khi con còn ở đây Mẹ không cho con ăn gì cả, sau khi con đi rồi, Mẹ đừng có ân hận nhé.” Tuy vậy, bà vẫn còn quyến luyến Mẹ mình, nên khi chia ly thật không thể chịu nổi. Bà nghĩ là Mẹ mình sẽ đi theo sau mình, nhưng Mẹ bà không làm vậy.

Trong khi bà Karma đi mỗi lúc mỗi xa hơn, thung lũng quê hương của bà dần dần khuất sau một quả núi khổng lồ. Bà khóc rấm rứt với nỗi buồn, đến một ngả ba đường. Bà chọn đi đường ở giữa. Lúc đó, trên đỉnh một quả núi sắc nhọn ở hướng Tây, bà trông thấy một tu sĩ mà bà nhận ra đó là chú của mình. Ông có mái tóc bạc và tay đang cầm xâu chuỗi hạt màu đen. Tay và chân ông ta chuyển động như thể đang nhảy múa. Ông lớn tiếng cảnh báo Karma rằng bà đã đi lầm đường.

Ông chỉ dẫn đường đi và những ánh sáng mà bà sẽ trải qua trên hành trình chuyển tiếp này. Rồi bà nghĩ đến việc leo lên núi, nhưng bất ngờ một cơn bão mạnh phát ra, cuốn bà lên trời rồi liệng bà xuống mặt đất nhiều lần.

Cuối cùng, bà thấy mình đang ở giữa một đám đông những sinh linh có hình dạng và mặt mũi đáng sợ. Những con mắt trợn trừng của họ nhìn bà và những răng nanh như tảng băng nhe ra đe dọa bà. Họ mặc đồ da cọp và da beo hay da người với đồ trang sức bằng xương, họ đang ăn món canh óc đựng trong những chén sọ người và tay cầm những chùm ruột. Những người khác đang vung cao nhiều loại vũ khí ở trên đầu họ. Tất cả đều hô lớn “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!” Karma hoảng sợ đến mức không thể nghĩ hay nhớ đến gia đình hay bạn bè nữa.

Rồi bà thấy mình ở bên rìa của một cánh đồng bao la. Cơn bão khủng khiếp bây giờ đã ngớt. Từ đâu đó những tiếng la "Giết! Giết!” vẫn còn vọng đến chỗ bà, giống như tiếng sấm ở xa. Từ những đau khổ và sợ hãi tệ hại nhất có phần dịu đi, ít nhất thì cũng trong lúc này.

Nhưng bà Karma lại nhớ đến Cha Mẹ, gia đình, bạn bè và gọi tên của họ. Lăn lộn trên đất, bà khóc lớn và than rằng “Tại sao mấy người lại để cho tôi cô đơn như thế này mà lại không cho tôi biết về những sự nguy hiểm này".

 


Nữ Thần Tara Trắng (theo truyền thống PG Tây Tạng)

 

Lúc đó, Nữ Thần Tara Trắng lại xuất hiện và bà Karma nắm lấy áo của Ngài khóc và hỏi, “Cô ơi, cánh đồng này có tên là gì? Thành phố lớn ở đằng xa đó gọi là gì? Tên cô là gì? Con có cha mẹ, chồng và nhiều người thân, nhưng con không nói gì về chuyến đi này với ai cả. Con chỉ bất ngờ tới đây không thể cưỡng lại được. Xin cô nhận các món trang sức này rồi giúp đưa con về nhà.”

ĐứcTara Trắng đáp “Vì sự mê lầm lớn của con, những ý tưởng của chính con đã xuất hiện trong hình dạng những kẻ thù địch. Cánh đồng này rộng lớn như bầu trời và được gọi là Cánh Đồng Hoang Lưỡi Dao, đây là lối đi vào địa ngục của những người đã tạo ác nghiệp. Thành phố đó là thành phố lớn của người chết. Nếu con không nhận ra ta thì ta sẽ nói tên bí mật của Ta là Kim Cương Du Già Nữ (Vajrayogini). Chúng ta là những người bạn bất khả phân ly, giống như hình với bóng. Con có gia đình và bè bạn, nhưng con đã rời bỏ kể cả thân xác của con. Không có sự lựa chọn, con đã phải rời khỏi những người thân và của cải mà mình đã có. Bây giờ con đã đến cõi trung ấm bardo, con đang mang cả gánh nặng nghiệp quả trên vai. Nếu con muốn trở về đời sống con người thì con nên tu học theo Chánh Pháp; Con nên rộng lượng bố thí cho những người túng thiếu; Con nên đi hành hương chiêm bái những nơi thiêng liêng; Con nên buông bỏ mọi tham dục thế gian và tăng trưởng sức mạnh quán chiếu về chơn tánh.”

Bỗng nhiên bà Karma bắt đầu thấy một cơn mưa lưỡi dao từ trời rơi xuống và một rừng gươm từ dưới đất mọc lên. Những phần thân thể và những mảnh thịt phủ đầy cánh đồng. Karma kinh hoàng và té xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh lại, bà nghĩ, “Mình đã thực sự chết chưa?” Một lần nữa, Đức Tara Trắng giải thích “Con đã để lại thân xác ở thế giới người sống. Một số người thân và bạn bè đang thức canh chung quanh thi hài của con. Có vài người đang khóc và gọi tên con. Những người khác đang bận rộn sửa soạn tang lễ. Cũng có những người đang nói “Ồ, bà ấy là một vị Phật ẩn mình.”

Cuối cùng, bà Karma nhận ra sự thật, bà nói, “Than ôi, bây giờ mình đã chết rồi!”. Điều này khiến cho bà chấn động. Tâm tư của bà tràn ngập sự ân hận vì cả đời bà đã không cống hiến cho việc tu tập. Khi bà bắt đầu nghĩ về những nghiệp xấu mà mình đã tạo tác lúc còn sống, tất cả những hành vi xấu này vùn vụt hiện ra một cách sống động trước mắt bà. Bà không thể thấy bất cứ thứ gì ngoại trừ những nghiệp xấu của mình. Bà nghĩ, “Bây giờ mình không thể thoát khỏi đây được nữa” bà than thở:

Hởi những bè bạn của tôi,  hãy cống hiến đời sống của bạn cho Chánh Pháp  linh thiêng khi bạn còn tự do.
Tài sản mà các bạn ra sức tích chứa không có giá trị gì cả
Hãy cúng dường chúng cho Tam Bảo.
Những hoạt động mà các bạn quá chú tâm không có mục đích nào cả
Hãy buông bỏ chúng để siêng năng tham thiền và cầu nguyện.
Những cuộc họp mặt của người thân và bạn bè cũng giống như những lữ khách tụ họp
Hãy cắt đứt liên hệ với họ và về tu viện
Trong khi còn hưởng kiếp sống con người, các người nên cống hiến cuộc đời mình cho Chánh Pháp.
Vì bạn không thể tin cậy một thứ gì khác, 
Hãy loại bỏ sân hận, tham dục và ganh tị.
Hãy tụng kinh và trì Thần chú Lục-Tự,
Để thanh lọc thân, miệng và ý
Nguyện cầu cho tâm bạn an trụ trong thiền định!

Không thể kiểm soát mình bà hối hận, khóc lóc và tự đánh mình, bà Karma nói với ĐứcTara Trắng, “Cô ơi! Con không tu tập theo giáo pháp nhiều, cũng không tạo nhiều ác nghiệp. Vậy mà con vẫn bị cơn bão lớn hành hạ. Con đã bị kẹt ở giữa những tia chớp nhiều màu với tiếng la hét ‘Đánh! Đánh! Giết! Giết!’ giống như hàng ngàn tiếng sấm sét cùng lúc. Con đã đối diện với đủ loại quái đản không thể tưởng tượng được. Tất cả những cái đó là gì?”

Đức Tara Trắng trả lời:

Cơn bão xuất hiện là sự chào mừng dành cho con của các sứ giả Thần Chết. Những sinh linh trong những hình dạng khác nhau là sự hiển lộ của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ ở bên trong chính con. Họ phát ra những âm thanh vô thượng, nhưng vì những cảm nhận xấu của con, nên con nghe thành “Giết! Giết!”. Hình ảnh họ vung lên nhiều vũ khí khác nhau là dấu hiệu cho thấy những phiền não của con đã được giải trừ tận gốc rễ. Nhưng con lại trông thấy chúng  như một cơn mưa vũ khí, vì những nhận thức của con đã biểu hiện như những kẻ thù địch. Từ bây giờ trở đi con phải nghĩ là mình an trú trong những hình ảnh và âm thanh đó, xem chúng như những hình ảnh và âm thanh của Đức Phật.

Sự xuất hiện của ánh sáng nhiều màu là ánh sáng của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ của chính tâm con. Những ánh sáng năm màu là ánh sáng của năm bộ phái Phật. Vậy hãy nghĩ rằng mình an trú trong những ánh sáng của các Ngài.

Tất cả những âm thanh là âm thanh tự nhiên. Chúng không phải là một thực thể riêng rẽ mà là sự biểu lộ của tính nhất như. Tất cả âm thanh, ánh sáng và tia sáng này xuất hiện như sự tự xuất hiện của chính tâm con. Đừng xem những cảm nhận của chính mình là kẻ thù địch.

Con không tạo nhiều nghiệp xấu. Nhưng nhiều người trong thời đại suy thoái này có nguy cơ đọa vào địa ngục vì họ tích lũy nhiều cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si, ganh tị, kiêu ngạo và tạo quá nhiều bất thiện nghiệp trong kiếp sống của họ.

Con sẽ tái nhập thể xác của con trong cõi người sống như một sứ giả trở về từ cõi chết. Vậy con phải dũng mãnh lên để quan sát một cách cẩn thận những gì diễn ra ở đây. Con phải ghi nhớ tất cả những gì mình trông thấy và nghe thấy, không được quên. Bây giờ chúng ta hãy cùng qua bên đó.

Thoáng thấy Địa Ngục và những sứ giả của Thần Chết

Tại một góc hướng Tây của cánh đồng lớn, bà Karma trông thấy một người đầu nai kinh khủng, tay cầm dây thòng lọng màu đen, với hai mắt trợn trừng, người đó đang đuổi theo một bà già đeo đồ trang sức trên đầu. Bà Karma hỏi ĐứcTara Trắng “Trời ơi! Người đầu nai kia là ai? Người phụ nữ bí ẩn đó là ai?”

Đức Tara Trắng đáp “Đừng sợ người đầu nai đó. Vị ấy là một trong những biểu hiện các các vị Thần cung điện ở trong đầu óc của chính mình. Các vị Thần có màu sắc, hình dạng và kích cở khác nhau xuất hiện tùy theo tâm tánh của con người. Bà già đó là người xứ Chenying thuộc tỉnh Kham, bà ta là vợ của viên thị trưởng và đã âm mưu với chồng trong việc cướp của, giết người và săn bắn thú vật. Đây là sự cảm nhận của bà ta về cõi chuyển tiếp này. Sau sự kiện này bà ta sẽ bị xét xử và sẽ bị đày xuống địa ngục.”

Kế tiếp, bà Karma trông thấy một chiếc cầu sắt khổng lồ bắt ngang qua một con sông chảy xiết được gọi là Sông Lớn Luân Hồi (Great River of Samsara).  Ở đầu phía đông của chiếc cầu là một thành phố kỳ lạ, một phần của dân thành phố mà trong đó có các Tăng, Ni, và những người tại gia, tất cả đều hoan hỷ, giàu có và đẹp đẽ. Họ sống trong những lâu đài kỳ diệu được trang hoàng rực rỡ. Một số người dành thời gian của mình để ca hát và nhảy múa một cách hoan lạc. Những người khác thì dành thời gian của họ để cầu nguyện và trì Thần chú OM MANI PADME HUNG. Nhưng lại có một số người lại bố thí không mệt mỏi cho những người khác. Không ai có vẻ lo nghĩ hay đau khổ.

Tuy nhiên, phần còn lại của cư dân trong thành phố này thì ngược lại, họ không có nơi để trú ẩn, và không có thực phẩm để ăn. Họ liên tục khốn khổ vì đói và khát. Nhiều người đặt hai tay lên trán như đang tìm kiếm thứ gì ở tận chân trời. Họ đang tuyệt vọng để tìm dấu hiệu tốt nào đó cho thấy người thân của họ sẽ hồi hướng công đức cho họ trong tang lễ để họ được gặp những tốt lành trong tương lai. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những vị Thần Chết đến đưa nhiều người đi khỏi nơi này.

Đây là địa điểm mà nhiều người chết chờ đợi trước khi bị đưa đến Tòa Án của Đức Pháp Vương để được phán xét.

Nhìn những sinh linh ở nơi này, một Thần Chết giải thích cho Karma “Trong  những người này, nhiều người vui vẻ vì họ đã sống trong sạch và biết tôn trọng người khác. Nhiều người tụng niệm và cảm thấy an lạc vì họ có năng lực kinh nghiệm tâm linh mà họ đã đạt được khi còn sống ở thế gian. Ngay cả các vị Thần Chết cũng không dám nhìn họ. Nhiều người có của cải vô tận và vẫn tiếp tục cho và nhận, vì họ đã bố thí tất cả những gì họ có khi còn ở trên trần gian.

Những người khác phải chịu đói khát vì họ đã không giúp đỡ hay tôn trọng người khác hoặc không bố thí gì cả. Thay vào đó, họ phỉ báng, cướp bóc, và tấn công người khác trong lúc còn sống. Họ đang chờ đợi  hay tìm kiếm, mong người thân của mình sẽ hồi hướng công đức  cho mình. Không bao lâu nữa họ sẽ bị đưa đến tòa án của Pháp Vương, nơi một số người sẽ được giải thoát và một số bị đưa vào những cõi thấp.”

Sau đó, bà Karma đến thăm cõi ngạ quỷ. Tất cả những sinh linh ở đây đều không y phục, bao tử của họ lớn như thung lũng, tay và chân lại nhỏ như cọng rơm, cổ họng của họ hẹp như một sợi lông đuôi ngựa. Vì quá khát nên lửa bốc ra ngoài miệng của họ, cái đói không thể chịu nổi đang hành hạ họ.

Nhìn họ, một vị Thần Chết giải thích với bà Karma “Những người này chưa từng có lòng quảng đại trong cuộc đời của họ. Họ chưa từng cúng dường một cái gì hay bố thí cho những người túng thiếu một cái gì. Họ chưa từng có những ý nghĩ cao thượng mà chỉ có tâm tham dục sôi sục, tâm sân hận nóng cháy, tâm kiêu ngạo tràn ngập, tâm si mê tối tăm, và tâm ganh tị bão táp. Họ cản trở người khác cúng dường, bố thí, và họ không thể ăn uống, tất cả là vì sự keo kiệt của họ.”

Bà Karma thấy Đức Phật Từ Bi đang thăm các ma đói. Từ tay của Ngài, những dòng cam lồ tuôn chảy làm mát dịu những sự khốn khổ của họ. Nhưng nhiều người trong số họ không thể hưởng được dòng Cam lồ mà cũng không thể nhìn thấy vị Phật hay an trụ được trước sự hiện diện của Ngài.

Sau đó, tại cổng của một chiếc cầu, một cô gái trẻ hấp dẫn lúc múa hát lúc lại khóc lóc. Nữ Thần Tara Trắng hỏi cô ta:“cô gái xinh đẹp kia, sinh quán và gia đình cô ở đâu? Tại sao múa hát mà lại khóc? Cô sắp đi đâu, lên hay xuống?”

Cô gái đáp“Than ôi, con là người ở vùng cao nguyên ở phía Nam Tây Tạng, thành phố nơi con ở là Neudong. Cha con là Chogyal Tsering và Mẹ là Sechung. Tên của con là Dorje Gyalmo, thung lũng quê con bị người Mông Cổ cướp phá, họ bắt con về Mông Cổ, con chết vì bệnh nặng. Con đến đây và không còn cơ hội gặp lại Cha Mẹ lần nữa. Đức Pháp Vương nói với con, “Con là người thuộc một gia đình danh giá, có trí thông minh và không vị kỷ. Nhưng con quá quyến luyến Cha Mẹ và tài sản của mình, thêm nữa, con vẫn còn tuổi thọ để được hưởng. Vậy con hãy trở về để tái sanh là một  "manmo" ( một loại vong linh nữ)". 

Đức Tara Trắng lại hỏi cô, “Tại sao tâm con lại quá quyến luyến?” cô gái đáp, “Sau khi con chết, thay vì những tài sản của con đem bố thí để tạo công đức, người ta lại lấy bán cho một người đàn bà. Cho nên khi nhìn thấy sự khủng khiếp của Thần Chết, con vẫn nghĩ về sự đau khổ này. Do luyến ái đó, vị Pháp Vương truyền lệnh cho con tái sanh như một manmo.”

Cô gái khóc và xin Karma gởi những lời sau đây cho Cha Mẹ mình: "Con là Dorje Gyalmo. Con quyến luyến Cha Mẹ và đồ trang sức của mình. Thưa Cha Mẹ, xin Cha Mẹ cúng dường tất cả của cải của con cho một vị Lạt ma để làm lễ cầu siêu và làm hàng trăm lễ bánh "torma". Xin Cha Mẹ đãi mọi người bia "chang" và nhờ họ cầu nguyện. Nếu có thể làm như vậy, con sẽ được tái sinh làm người thay vì làm "manmo".

Trong lời kể của bà, Karma không nhắc về chuyến đi xuống những địa ngục, nhưng thật sự bà có trông thấy vô số sinh linh đang chịu những sự đau đớn không thể tưởng tượng được. Bà đã nhận được một số lời nhắn của vài người gởi cho người thân còn sống của họ ở thế gian.

Bị gọi đến Tòa Phán Xét 

Sau đó Đức Tara Trắng đưa bà Karma đến cung điện của Pháp Vương của những Thần Chết. Năm bức tường bằng đồng tâm bao quanh cung điện này. Có bốn cổng ở mỗi hướng, và tám quân với hình dạng khủng khiếp bảo vệ mỗi cổng. Họ cầm những món vũ khí đáng sợ và hét lớn: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!”

Ở trước cổng phía bắc có một cái đài lớn bằng đá, ở trên đó bà Karma thấy những đống bộ phận thân thể. Các tội đồ bị cắt thành từng mảnh bởi những bánh xe sắt có gắn vũ khí bén nhọn, xoay tròn, từ trên trời rơi xuống người họ. Họ bị dập nát thành đất bằng những thứ khí cụ mà quân đao phủ sử dụng theo lệnh của các Thần Chết. Hoảng sợ và đau đớn, bà Karma gục xuống đất, Đức Tara Trắng đỡ bà dậy và an ủi:

Những sinh linh này đang lãnh thọ những quả báo của mình,
Nếu Đức Phật đích thân đến đây, Ngài cũng không làm gì được,
Vì họ đang chịu hậu quả nghiệp báo của họ, con đừng có buồn lo như vậy.

Con tim bà Karma đau đớn và ân hận, bà thầm nghĩ, “Mình đã không nghiêm chỉnh tu học theo Chánh Pháp khi còn sống ở nhân gian. Bây giờ Pháp Vương sẽ hỏi mình điều gì ? Lời phán xét nào đang đợi mình đây ? Nếu có cơ hội trở lại cõi người, mình sẽ giải thích cho mọi người biết về sự nghiêm khắc của luật nhân quả, bằng cách kể cho họ chính xác những gì mình đã chứng kiến, mà không tô vẽ thêm thắt . Mình sẽ hiến tặng tất cả những gì có cho mọi người, không tích trữ nữa. Mình sẽ buông bỏ tất cả những hoạt động thế gian, mình sẽ thiền quán về chơn tâm. Không luyến ái một người nào nữa. Mình sẽ hành hương chiêm bái từ Tu viện này đến những am thất ẩn cư khác. Lúc nào mình cũng sẽ quán tưởng trong tâm về vị Thầy của mình và sẽ liên tục cầu nguyện đến Tam Bảo. Mình sẽ không bám giữ vào người thân và bạn bè nữa”.

Đúng lúc đó, bà Karma nghe một tiếng nói lớn từ cung điện của Pháp Vương. Một quân canh đến và nói với bà Karma và Đức Tara Trắng: “đó là dấu hiệu gọi bà đến Tòa Phán xét của Pháp Vương.”

Trái tim của bà Karma đau nhói như thể bị trúng một mũi tên. Bà bị sự ân hận hối tiếc của mình hành hạ vì đã không  chịu tu tập nghiêm chỉnh. Bà vừa khóc vừa nghĩ, “nhưng mình đã không ngừng nghỉ nguyện cầu chư Phật, xin chư Phật từ bi để mắt đến con”. 

Đức Tara Trắng lau nước mắt cho Karma rồi nói: “Con chưa từng bố thí tài vật nào cả, cũng chưa đạt được chứng nghiệm thiền quán vững chắc. Nhưng tâm con trong sáng như một tấm gương, không bị hoen ố vì ác nghiệp, con và Ta đã không tách rời nhau trong một thời gian dài, vì cộng nghiệp và ý nguyện của chúng ta.”

Nắm tay bà Karma, Đức Tara Trắng đưa bà đi qua cổng. Họ đi lên một cầu thang bằng đá lớn. Bà Karma run rẩy sợ hãi, rồi họ bước vào một đại sảnh. Ở giữa đại sảnh là vị Pháp Vương, bà Karma trông thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Guru Rinpoche, Padmasambhava (Đại Sư Liên Hoa Sanh ). Ngồi trên một cái ngai được nâng bởi bốn sư tử,  Ngài mặc trang phục, đeo nhiều món trang sức và cầm những khí cụ giống như  Karma đã thấy trong bức tranh. Vừa trông thấy Guru Rinpoche, thân và tâm Karma lập tức tràn ngập niềm tôn kính. Bà thấy mình nổi gai ốc, những giọt nước mắt vui mừng trào ra, bà muốn nhào tới sụp lạy trước Guru Rinpoche, nhưng kịp dừng lại vì sợ các vị Thần phẫn nộ nam nữ đang đứng chung quanh Ngài.

Những vị Thần phẫn nộ này có hình dạng đáng sợ, mặc những y phục gây sợ hãi và vung lên những khí cụ kinh khủng. Ở dưới chân Guru Rinpoche và ở bên phải, là một vị Thần Chết có thân người đầu bò. Vị này cầm tấm gương phản chiếu mọi hành động của những sinh linh được trình bày trước Pháp Vương. Đứng bên cạnh vị đó là Thần Chết Đầu Cọp cầm sổ ghi công và tội của các sinh linh. Ở bên trái của Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Rắn, vị này giám sát hết tất cả những người có mặt tại phiên tòa. Ở phía trước Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Heo, vị này giữ sổ kết toán và thời biểu. Còn có nhiều Thần Chết có đầu của những loài thú khác nhau và cầm đủ loại khí cụ.

 

 

Đức Tara Trắng nói với Karma, “Ở bên ngoài vị ngồi giữa là Pháp Vương nhưng ở bên trong là Guru Rinpoche. Ở bên ngoài, vị đứng bên phải Guru Rinpoche đang nhìn chúng ta với đôi mắt lồi và la hét như sấm, “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!” là một Thần Chết, bên trong Ngài là hình dạng phẫn nộ của Ngài Văn Thù (Manjushri) vị Phật của Trí tuệ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ thoát khỏi nguy hiểm và lo sợ. Tất cả các vị Thần Chết nam và nữ là các vị Phật hiền hòa và phẫn nộ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ được tái sanh vào những cõi cao. Con phải ghi nhớ những điều trọng yếu này. Con đã không tạo nghiệp xấu nghiêm trọng nào, nên đừng lo sợ. Hãy đứng dậy và làm lễ các Ngài, và phát nguyện cho mình và tất cả chúng sanh”.

Bà Karma đảnh lễ  một lạy với lòng tôn kính, nhưng trước khi đảnh lễ lạy thứ hai hay phát nguyện, vị Thần Chết Đầu-Rắn cản bà lại. Vị này ra hiệu cho bà ngồi xuống ở một góc. Ngay sau đó vị Pháp Vương lớn tiếng bảo các vị Thần Chết đang đứng trong sân của cung điện, “Một người mới chết từ cõi người đang đến. Hãy đưa người ấy lại đây ngay.” Trong sân vô số Thần cầm mọi loại khí cụ đứng dậy hô lớn "HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!".

Ngay lúc đó có một người đàn bà xuất hiện trong sân. Khi mới nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ này, bà ta cố bỏ chạy, nhưng không có đường nào để thoát. Rồi bà tay vung gậy và trì niệm Thần chú Lục tự: OM MAINI PADME HUNG. Ngay khi nghe tiếng niệm lục tự đại minh chơn ngôn này, tất cả Thần Chết đều an tĩnh đứng tại chỗ. Đi cùng với người đàn bà đó là một phụ nữ mặc áo choàng màu trắng. Tóc vị ấy cột búi bằng một dây lụa đỏ và cầm một chuỗi hạt pha lê. Nắm tay người đàn bà, vị ấy đưa bà vào cung điện. Bà được trả tự do, có vẻ các vị thần chết không có quyền hạn gì để bắt giữ hay đe dọa bà. Nhưng khi kiểm lại, các vị này thấy bà ta đã có nhiều công đức, như cầu nguyện Phật Từ Bi, nhưng bà ta cũng đã  tức giận lối cai trị bất công của chính quyền. Vì lý do đó, bà ta sẽ tái sanh làm một con chim và sau đó mới được tái sanh trong cõi làm người.

Rồi bà Karma nghe thấy một tiếng nói lớn, Bà nhìn về hướng có tiếng nói và thấy một vị tu sĩ đội mũ. Vị ấy nói với bà, “Giờ đây bà đã hiểu luật nhân quả; Bà đã trông thấy mặt mũi của Pháp Vương; Bà đã chứng kiến những sự đe dọa của Thần Chết. Ngươi phải nhớ chắc chắn những nghiệp quả và những lời dạy của Pháp Vương. Bây giờ bà phải trở về cõi người. Những người của bà sắp bỏ cái xác chết của bà rồi".  Nói xong, ông biến mất trong làn gió nhẹ.

Sau đó Đức Tara Trắng thỉnh cầu với Pháp Vương:

"Thưa Đức Pháp Vương, xin nghe tôi nói
Karma đã thức tỉnh đến với Chánh Pháp
Do vì nhân duyên kết nối, bà ta đã thấy Ngài là Đức Guru Rinpoche.
Thể xác và thần thức của bà đã phân ly trước khi tuổi thọ chấm dứt
Vì những sự chấp thủ bà ta đã phải trải qua cõi chuyển tiếp này.
Bà ta đã thấy Pháp Vương vì ý nguyện trong quá khứ.
Bà đã chứng kiến sự sợ hãi về những Thần Chết, sự thật của luật nhân quả.
Bà đã sống bảy của loài người ở đây
Thể xác giống như căn nhà trống của bà đã chết ở thế gian
Nên bà được trả về như sứ giả của Ngài đối với những người dân của lục địa Jamphu (Nam Thiện Bộ Châu)
Hoặc tái sanh trong cõi người
Hoặc được xếp vào hàng trí giả
Thưa Pháp Vương, bà ta sẽ đi đâu, xin Ngài hãy ban lệnh".

Đức Pháp Vương nhìn Karma và suy nghĩ một hồi rồi nhìn vào tấm gương, Ngài kiểm lại những hành vi quá khứ của bà và nói " Trước đây, Lingza Chokyi đã chết và sống lại vì các Thần Chết bắt bà đến đây do lầm tên và lầm bộ tộc. Hai cô gái khác là Samten, người thị trấn Dartsedo và Yungtrung, người tỉnh Kham, cũng được trở về thế gian. Samten được trả về với lời dạy nghiêm khắc là cô phải tu tập theo Chánh Pháp và không tạo ác nghiệp. Yungtrung được cho sống lại vì cô ấy có thể tu tập chứng ngộ chơn tâm. Bây giờ ngươi sẽ được trở về Jambu để làm cho người dân ở đó biết đến Chánh Pháp và cũng để chuyển những lời nhắn của của các sinh linh trong Cõi Người Chết (World of Death) cho những thân nhân của họ trong Cõi Người Sống (World of Living). Vì công đức và ý nguyện của ngươi trong quá khứ, ngươi sẽ thành tựu những lợi ích lớn sau khi tái nhập vào thể xác". Đức Pháp Vương ban cho Karma những lời dạy chi tiết và tiên tri với thông điệp sau đây cho người dân lục địa Jambu:

Nói với họ rằng, Ta là Pháp Vương đang ngự ở đây.
Nói với họ rằng ở đây chúng ta có những cách thức kỳ diệu
Để biết người nào đã tạo nghiệp xấu hay nghiệp tốt.
Nói với họ rằng những người tôn kính Chánh Pháp sẽ thác sinh về cõi cao hơn.
Nói với họ rằng những người tạo ác nghiệp sẽ đọa xuống địa ngục.
Các người ở lục địa Jambu,
Nói chung, phải tu tập theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Và đặc biệt làm theo những lời dạy này của Ta,
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương
Bên trong, Ta là Quán Thế Âm ( Avalokiteshvara), Đức Phật Từ Bi
Hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG, tâm chú của Bồ Tát Quán Thế Âm
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương,
Bên trong, Ta là Guru Rinpoche.
Trì niệm OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG.
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương;
Bên trong, Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hãy tu tập theo giáo lý của Đức Phật.
Hãy luôn làm mạnh tâm trí bằng những thiện nghiệp. 
Bỏ ngay những nghiệp xấu dù là nhỏ nhất.
Quán tưởng vị Thầy của mình trên đỉnh đầu.
Phụng sự cho hết thảy chúng sanh
Bây giờ đã là giữa trưa (ở nhà của ngươi)
Với ý nguyện thanh tịnh, hãy nghĩ về nhà của ngươi.

Đến lúc này, nhiều người chết đã được quân đao phủ đưa đến Tòa Phán Xét cầu xin bà Karma: “Bà là người may mắn. Nếu bà trở về thế giới loài người, xin chuyển lời nhắn gửi của tôi đến với người thân của tôi.  Bảo họ hãy vì tôi mà tạo lập công đức và phụng sự Tam Bảo, để giúp tôi giải trừ những đau khổ ở địa ngục, không có Thần chú nào linh nghiệm như là Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn: OM MANI PADME HUNG. Vì vậy, xin hãy trì niệm hay thỉnh cầu người khác cùng trì niệm thần chú này mười ngàn biến. Xin khắc thần chú này trên đá và chồng lên nhau thành một đống. In thần chú này lên trên vải và treo chúng như cờ phướng. In thần chú này lên giấy và quay chúng như những bánh xe cầu nguyện.”

    
Thần chú Lục Tự được khắc trên bánh xe cầu nguyện và trên đá ở Tây Tạng

Bà Karma tái nhập thể xác

Tiếp đó, bà Karma nghĩ: “Bây giờ mình nên trở về thung lũng của mình.” Tức khắc bà thấy mình tại Traphu, quê hương của bà.

Tại cửa nhà của mình, bà trông thấy xác chết một con chó già. Mắt của nó lõm sâu xuống, và nước dãi đóng quanh mõm nó. Bà Karma vừa sợ vừa kinh tởm. Thoạt tiên bà muốn bỏ chạy, nhưng rồi bà nghĩ, “Mình có thể vào nhà bằng cách bước qua xác con chó. Khi bà bước qua nó, thần thức của bà tức khắc nhập vào thể xác của mình và bà trụ lại trong đó. Bà đã trông thấy thi hài của mình như xác chết của một con chó.

Lúc đầu bà bất tỉnh và có cảm giác như bóng tối lúc hoàng hôn. Sau một lúc bà từ từ tỉnh lại, nhưng không thể cử động được, vì thể xác của bà không còn sức mạnh. Dần dần trí nhớ của bà trở nên sắc bén hơn một chút. Khi cử động được một ít, người ngồi canh xác bên cạnh bà thấy được cử động đó và ông la lớn "PHAT!" ba lần một cách kích động.  Tâm thức của bà vẫn còn bị ám ảnh bởi những hình ảnh và những cảm xúc về nổi đau khổ ở địa ngục, nhưng tiếng la " PHAT" làm cho chúng biến mất. Miếng vải che mặt bà rung động một chút. Người đó tự hỏi, “Có khi nào ma nhập vào xác của Karma và khiến bà trở thành quỷ nhập tràng không?” Ông mở tấm mạng và nhấn vào đầu bà nhiều lần. Rồi ông bóp hai bàn tay bà nhiều lần, nhưng bà không đủ sức để nhấn lại hay nói rằng mình vẫn còn sống. Sau đó kiểm tra vùng ngực và thấy rằng hơi ấm vẫn còn ở đó. Ông gọi những người thân của gia đình Karma: “lại đây! bà chủ đã sống lại rồi!”

Mẹ của bà Karma chạy đến, khóc và nói, “Con gái của tôi, con đã trở về rồi phải không?” mọi người nhanh chóng mở tấm vải liệm trên người của bà Karma. Vào lúc đó, ông Trưởng Làng cũng đến, Ông ra lệnh đưa vợ mình sang chỗ khác và cho bà uống sửa và mật ong, nhưng bà Karma không thể ăn hay uống một chút gì trong một tuần. Người nhà nhỏ từng giọt nước vào miệng bà trong những ngày kế tiếp, dần dần bà phục hồi sức khỏe và sắc diện.

Sau đó bà Karma và gia đình thuê hai người thư ký để viết lại và chia làm làm hai phần tất cả những lời nhắn mà những người chết đã nhờ Karma chuyển đến những người thân của họ. Phần một, bao gồm những lời nhắn cho người thân ở tỉnh U (trung ương), Tsang (miền Tây), và Lotrag (miềnNam) là những tỉnh của Tây Tạng. Phần hai là những lời nhắn cho người thân ở Mông Cổ và ở tỉnh Mon. Bà Karma cũng định đi khắp xứ để phổ biến bức thông điệp của vị Pháp Vương cho quần chúng.

Nhưng không may, một phụ nữ quý tộc có quyền lực và là Mẹ của Choje’i Trung, nói “Karma là người thuộc gia đình hạ tiện. Bà ta trở về từ cõi chết là để bắt sinh mạng của người khác". Một người tin vào lời của bà  Choje’i Trung và cùng nhau nói, “Karma là quỷ!” Thay vì nghe những gì Karma kể, họ lại tấn công bà.

Lúc đó, ông Trưởng Làng quyết định, “ trong thời điểm này, tốt hơn nên giữ bí mật việc chết đi sống lại này" và mọi người đồng ý như vậy.

Sau đó một, bà Karma học giáo lý từ một đại sư cao đức là lạt ma Ponlob Jetrung Rinpoche. Khi thấy bà Karna tu tập có kết quả, Ngài ngạc nhiên nói: " Ngay cả một người đã tu học lâu năm cũng không dễ đạt được những chứng nghiệm như vậy.” Nghe Ngài nói thế, người hầu Karma vô tình tiết lộ “Lẽ tất nhiên là bà ấy dễ chứng nghiệm chơn tánh tối thượng, vì bà ấy trở về từ Cõi Chết mà".

Vị lạt ma đáp, “Tôi cũng đã ba lần trở về từ Cõi Chết. Chúng ta hãy so sánh xem những kinh nghiệm của chúng ta có giống hay không. Xin bà hãy kể cho chúng tôi biết những gì bà đã trải qua.”

Bà Karma liền kể lại những kinh nghiệm của mình. Những người đang học giáo lý từ lạt ma, cũng đến nghe bà kể chuyện. Vị lạt ma cũng như mọi người đều rớt nước mắt khi nghe câu chuyện của bà. Trọn một ngày thay vì nghe lạt ma giảng giáo lý như thường lệ, mọi người lại lắng nghe bà Karma kể lại chuyến viếng thăm Cõi Người Chết của mình.

Hoàn toàn tin lời kể của bà Karma, vị Thầy nói, “Tất cả những điều bà kể đều đáng tin cậy. Trong thung lũng này, người ta không biết giá trị của bà. Con phải đi khắp nơi để làm lợi ích cho mọi người. Tôi sẽ cung cấp cho bà phương tiện di chuyển, người hầu và vật dụng. Con nên đi khắp nước.”

Tuy nhiên, bà Karma vẫn dành phần lớn thời gian ở với Mẹ của mình. Khi đến trước vị Pháp Vương, bà sợ hãi những Thần Chết đến mức trong lúc bối rối, đã chỉ cầu mong cho mình sớm đắc Phật mà không nhớ đến việc cầu nguyện cho lợi ích của hết thảy mọi người, thêm nữa, bà quá quyến luyến người Mẹ của mình. Vì hai lý do này mà bà Karma không tạo được công đức lớn trong việc phụng sự chúng sanh.

Không sợ hãi kẻ thù: kinh nghiệm của Denma Sangye Seng-Ge

Chuyện delog của Denma Sangye seng-ge đáng chú ý về những ý kiến cho rằng chúng ta có thể làm nhẹ bớt những sự sợ hãi, ảo giác và nhớ đến việc an trụ trong trạng thái thiền định.

Denma kể rằng sau khi rời khỏi thể xác, ông du hành khắp vũ trụ chỉ trong một khoảnh khắc. Ông cảm thấy mình chứng kiến tất cả những sự kiện của quá khứ, hiện tại, và vị lai cùng một lúc. Dường như ông có một thân ánh sáng và có thể đi lại bằng ánh sáng của thân thể.  Ông cảm thấy mình được bao bọc trong những tia sáng năm màu. Ông di chuyển thật dễ dàng với tốc độ của ánh sáng và có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn.

Nắm chặt một luồng ánh sáng năm màu xuất hiện ở đằng trước mình, Denma hô lớn "HIK" bảy lần. Ông bay lên trên không. Ông thấy mình có mặt ở Cõi Cực Lạc của Đức Phật. Ở đó ông thấy một cảnh đẹp nhất với những tòa lâu đài kỳ diệu mà trong đó có vô số các bậc trí giả giác ngộ. Ông được một lạt ma đón tiếp và hướng dẫn.Vị tu sĩ này nói: “Con đã không tạo tác các ác nghiệp trong bảy kiếp.
Người may mắn, đừng xao lãng mà hãy nhìn vào bản chất của tánh giác tuyệt đối.

Trong một lúc, Denma nhìn thấy năm bộ phái Phật và những cõi tịnh độ của các Ngài. Kế đó năm vị Phật nguyên thủy xuất hiện thành vị Pháp Vương và các Thần Chết. Ông rơi vào những ảo giác nhiều lần. Có lúc  ông thấy những người dân làng của mình và không biết là mình đã chết hay còn sống. Ông thấy có một tháp bằng pha lê, mà thật ra là thể xác của mình, ở trên đó bám đầy những con ếch. Mọi người vừa khóc vừa nhiễu quanh tháp pha lê. Do sự khóc than của họ, ông cảm thấy những trận mưa máu và mủ đang rơi xuống mình.

Denma trông thấy hai bộ những vòng hình quả cầu, mỗi bộ có năm vòng, mỗi vòng có màu ánh sáng khác nhau. Một bộ chứa năm vòng tròn lớn, và bộ kia chứa năm vòng nhỏ. Chúng là biểu trưng cho năm trí tuệ nguyên thủy, vốn là sự nhận ra chơn tánh từ năm loại phiền não tham, sân, si, ganh tị và kiêu mạn.

Sau đó, Denma cố gắng tìm hiểu mình đã chết thật hay chưa. Cuối cùng ông đi đến kết luận rằng mình đã chết vì trông thấy những dấu hiệu sau đây: Ông có thể đi qua một lỗ kim và qua những lỗ rất nhỏ trong một căn lều; Những bước chân của ông không để lại dấu vết trên cát ở bờ sông; Thân thể của ông không có bóng  phản chiếu trong nước, cũng không có bóng đen trong ánh sáng mặt trời, mặt trăng; Ông muốn được ăn nhưng không ai quan tâm tiếp thức ăn cho ông; Ông đến gần những người thân và gọi tên họ nhưng không ai trả lời; Khi nhìn vào mặt người khác, dường như mặt họ bị một mạng mỏng và tối che lại; Ông thấy Mẹ của mình trào nước mắt và đây là điều bất thường đối với cá tính của bà, và bà nói “Bây giờ tôi chỉ muốn chết.”

Biết là mình đã chết rồi, buồn bã và sợ hãi, Denma cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi (Quán Thế Âm). Tức khắc vị Phật xuất hiện trước mắt ông, dạy giáo lý chi tiết và gia hộ cho ông.

Tuy nhiên tâm thức của Denma trở nên xao lãng với những ảo tưởng phàm tục, và ông đã gặp thêm những chướng ngại trên chuyến hành trình của mình. Ông cảm thấy mình bị một cơn bão nghiệp quả xô đẩy dồn dập. Ông nghe tiếng rống của những dã thú nổi giận. Nhưng cuối cùng ông nhớ ra rằng những ảo giác này chỉ là năng lực biểu lộ của tánh Không.

Kế đó, ông thấy ánh sáng trắng và đỏ cản đường mình, từ phía sau, một cơn mưa vũ khí ập đến. Khi ông nhớ ra rằng chúng là ảo ảnh, chúng liền trở thành năng lực tự có của tánh giác nội tại của mình.

Kế tiếp, ông thấy mình đi theo một con đường núi cao, dốc và hẹp với những tảng đá đỏ và dài vô tận. Ông thấy bên dưới là một dòng sông cuốn những tảng đá trôi đi. Ông đi dọc theo đường núi bằng cách bám lấy những bụi cỏ. Nhiều người đã rơi xuống sông và ông nghe tiếng kêu khóc của họ. Một lần nữa, ông nghĩ về tánh Không của mọi sự vật, những hình ảnh đáng sợ này lại biến đi.

Sau đó,  ông cảm thấy mình ở một nơi tối  tăm và có đầy những con cầm thú. Ông nghe một giọng nói, “Đừng xao lãng! Đây là cõi súc sinh.” Ông niệm “OM MANI PADME HUNG”. Bỗng nhiên các vị Phật và các vị lama hiện ra đầy trong không gian chào đón ông. Dường như khắp nơi vang tiếng tụng niệm.

Kế tiếp, ông thấy mình quyến luyến người thân và tài sản trong cõi sống. Ngay lúc đó, ông nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là cõi chết. Không có người thân hay tài sản nào có thể giúp được con nữa. Đó là sự biểu lộ của tánh Không. Hãy quán niệm tánh Không và không để cho tâm con bị xao lãng.” Khi ông nghe được điều này, tất cả mọi chấp thủ nơi ông liền tan biến.

Một lần nữa, ông lại thấy mình đi qua một con đường đá hẹp, đầy nước lũ, lửa và bão tố. Ông đi tới đỉnh của con đường, nhưng vì mưa bão nên ông không thể đi lên hay lui lại được. Ông đi vào một ngôi đền và trông thấy nhiều người ở đó, gồm nhiều người ông đã quen biết khi ông còn sống. Có một số người hạnh phúc và đang thụ hưởng cuộc sống họ, một số khác thì đói khát và đau khổ. Nhiều người đang ca hát và người khác thì than khóc. Vì một số người từ thế gian bị đưa đến đây do các vị sứ giả Thần Chết bởi sự nhầm lẫn nên phải đợi chờ cho đến khi tuổi thọ của họ chấm dứt trước khi họ có thể được tái sanh. Những người khác đến đây sớm vị họ chết trong  những tai nạn bất ngờ. Cũng có những người cố bám vào đời sống hay bị kẹt ở đây thay vì đi đến nơi kế tiếp của họ, vì họ còn quyến luyến đời sống thế gian của mình. Người giàu có bám vào đời sống ở đây vì họ quyến luyến tài sản của họ. Những người yêu nhau còn bám ở đây vì quyến luyến vào những người yêu của họ. Các nhà cai trị còn bám ở đây vì họ còn chấp thủ vào quyền lực của mình. Người nghèo bám ở đây vì họ bám luyến vào túp lều và bát ăn xin của họ. Người sân hận bám ở đây vì họ muốn trả thù những kẻ địch của họ. Những người khác đợi chờ ở đây để người thân và bạn bè trong cõi người tạo công đức và hồi hướng cho họ trong những lễ cúng và do đó giúp cho hành trình của họ trong cõi chuyển tiếp này được dễ dàng. Tất cả những người này đã không tạo những nghiệp tốt lắm hoặc xấu lắm để có thể đưa họ nhanh chóng đến nơi cuối cùng của họ.

Sau đó Denma cảm thấy mình lên đến đỉnh Đèo Phủ Cát của cái chết, nơi được trang trí với những đống sọ người và sọ súc vật. Ông nghe những tiếng nói báo thù phát ra từ những chiếc sọ này. Từ đó ông thấy phía trước là Cánh Đồng Chết (Field of the Death) bao la và kinh khủng. Rồi ông cảm thấy mình đang rời khỏi Cõi Người Sống ở phía sau. Ông bỗng bị chấn động và đau đớn, sợ hãi và buồn khổ, cứ như thể tim và phổi ông rớt xuống đất. Một lần nữa, ông nghe thấy một tiếng nói từ rất xa vọng lại, “hãy quán niệm vào chơn tánh chớ nên xao lãng.”

Kế đó, Denma cảm thấy mình đang đi qua Cánh Đồng Chết Nhiều Màu (Colorful Field of the Death), một cánh đồng cát với những cơn bão cát. Cánh đồng có đầy những hình ảnh đáng sợ và những âm thanh đau đớn. Ở phía trước ông trông thấy con đường ánh sáng nhiều màu khác nhau. Từ phía sau, ông cảm thấy mình bị cơn bão nghiệp đẩy đi tới trước, ở bên phải ông thấy bóng tối, ở bên trái ông thấy ánh sáng hơi trắng. Một lần nữa ông lại nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là Cánh Đồng Chết nhiều Màu. Những sinh linh ở  đây chịu đau khổ vì đã tạo nghiệp xấu trộm cướp.”

Rồi ông cảm thấy mình băng qua Dòng Sông Đỏ Đáng Sợ của Cái Chết, cuồn cuộn những đợt sóng tia chớp. Trên dòng sông có sáu chiếc cầu đáng sợ. Ở hai bên bờ sông các sinh linh đứng chen chúc nhau, họ ở dưới quyền chỉ huy của các Thần Chết đang cầm đủ loại vũ khí. Ông lại nghe thấy tiếng nói của Phật Từ Bi “Con đừng xao lãng, hãy quán niệm về chơn tâm”. Tức khắc ông bay qua bên kia sông như một chim đại bàng.

Ở bờ sông bên kia ông thấy Awa Đầu-Bò, một trong những vị phụ tá chính của Đức Pháp Vương của những Thần Chết. Vị Thần này đang ngồi trên một ngai bằng những sọ người và sọ thú vật ở giữa những quân đao phủ. Họ có thân người với đầu của những loại thú khác nhau, xung quanh là những đám đông sinh linh, nhiều người đang hoảng sợ và kêu khóc hoặc bị tra tấn, những người khác thì lại vui vẻ và di chuyển đây đó bằng phương tiện kỳ diệu.

Cuối cùng, Denma đi tới một cung điện được làm bằng vật liệu quý báu đặt giữa một vầng hào quang, trong đó các vị Thần xuất hiện. Ông nghe thấy tiếng nhạc của chư thiên biểu diễn. Vị Pháp Vương của những Thần Chết đang ngồi trên ngai được nâng bởi một con voi, một con ngựa, một con công, và một con chim hai đầu được gọi là shang-shang. Pháp Vương có bốn đầu và bốn tay, Ngài mặc y phục Báo Thân, hai tay ở trên của Ngài cầm một tấm gương và một cuốn số, hai tay ở dưới bắt ấn thiền định và cầm Bánh Xe Luân Hồi. Đứng xung quanh Ngài là các vị Thần Chết với thân người và đầu thú.

Sau đó Pháp Vương hỏi Denma về cuộc đời và việc làm của ông. Để trình bày sơ lược về mình, ông hát bài ca vô úy như sau

" OM MANI PADME HUNG!
Tôi là một hành giả đã nhận ra trạng thái bất nhị.
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù chấp thủ nhị nguyên.
Tôi là một hành giả đã nhận ra chơn tánh tối thượng
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù vũ khí phát sinh từ chơn không
Tôi là một hành giả đã nhận ra trí tuệ được thành tựu tự nhiên.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của các Thần Chết được tạo ra từ năm cảm xúc độc hại của tôi.
Tôi là một hành giả đã thoát khỏi mọi mong cầu và nghi ngờ.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của Thần Chết
Tôi là một hành giả đã nhận ra thật tánh.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của sắc tướng huyễn ảo của cõi trung ấm".

Đến đây, vị Thần Awa Đầu-Bò liền chém Denma bằng thanh gươm của mình. Nhưng lưỡi gươm đi xuyên qua người của Denma mà không gây thương tích nào cả, giống như thể chém vào không khí vậy. Ngạc nhiên, tất cả các vị Thần Chết lên tiếng ngợi khen ông : “Ha! Ha!”

Đức Pháp Vương cũng khen Denma rằng: “Vị hành giả tuyệt hảo này nói đúng chân lý”. Sau đó Demma đi qua nhiều địa ngục khác để giúp giảm bớt những đau khổ cho những sinh linh ở đó rồi tái nhập về thể xác để chuyển những lời nhắn cho những người ở trần gian.

Vào thăm 18 Cõi Địa Ngục: Kinh nghiệm của Tagla Konchog Gyaltsen

Khi Tagla Konchog Gyaltsen rời khỏi thể xác mình, ông thấy bầu trời hướng Tây có đầy những đám mây màu đỏ nhạt. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đó không phải là mây, đó là cơn bão của Đèo Núi Sa Mạc Đỏ phân chia Thế giới của người Sống và Thế giới của người Chết. Con có thể vượt qua nó dễ dàng bằng năng lực tâm linh của chính con.” Tagla cầu lực gia hộ của chư Phật và các vị đạo sư để vượt qua đường đèo dễ dàng. Tức khắc, một thảm ánh sáng trắng từ hướng Nam trải dài đến chỗ ông. Trên đó, ông thấy Đức Phật Từ Bi và hình dạng phẫn nộ của Đức Guru Rinpoche cùng với nhiều vị Thần. Vị Thần Phẫn Nộ đập đèo núi ba lần bằng một lá cờ cầu nguyện khổng lồ và đường đèo sụp xuống.

Tagla lại trông thấy lửa che phủ bầu trời. Đất đầy máu tuôn trào và sắt nóng chảy. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đây là Dòng Sông Nâu Không Thể Vượt Qua của Người Chết. hãy cầu nguyện vị Thần Bảo Hộ của mình". Tagla cầu khẩn các vị Thần Bảo Hộ và các vị Lạt Ma của mình. Bỗng ông nghe một tiếng sấm lớn ở hướng Nam. Ở đó ông thấy Đức Phật Từ Bi, sáng rực như núi tuyết được rọi sáng từ hàng ngàn tia sáng của mặt trời và ở giữa một vầng hào quang ánh sáng cầu vồng cùng một trận mưa hoa nhiều màu khác nhau. Tagla thấy mình ở trên một chiếc thuyền cùng với nhiều người trẻ đang cầm những lá cờ cầu nguyện và niệm chú OM MANI PADME HUNG. Tức khắc ông hoan hỷ vượt qua bên kia sông cùng với họ. Tagla cảm thấy Đức Phật Từ Bi, Guru Rinpoche, những lá cờ cầu nguyện, và những vị Lạt Ma  đều hợp nhất bất khả phân. Nhờ chứng kiến những oai lực kỳ diệu như vậy mà thân và tâm của Tagla tràn ngập niềm tôn kính vô biên.

Một lần nữa, Tagla bị đẩy về phía trước bằng nghiệp lực của mình, và ông bị đưa đến một cánh đồng lớn chìm trong bóng tối. Bóng tối này được điểm xuyết bằng những tia chớp và những tia lửa đỏ. Đây là Cánh Đồng Xám Bao La của Người Chết. Như vị Thần Bảo Hộ Trắng đã dạy, Tagla cầu nguyện để có thể vượt qua cánh đồng một cách dễ dàng. Ông thấy một hành giả ẩn tu cao cấp đi tới cùng với một đoàn hành giả và tu sĩ, tay họ cầm những lá cờ cầu nguyện khổng lồ và miệng niệm “OM MANI PADME HUNG”. Đi theo họ, Tagla vượt qua cánh đồng trong một khoảnh khắc.

Sau đó Tagla cảm thấy mình đang ở bên ngoài bức tường khổng lồ, kỳ lạ của cõi địa ngục. Vị Thầy chính của Tagla là Đại Sư Pema Dechen cùng với nhiều vị Lạt Ma trong hình dạng tu sĩ và hành giả ẩn tu xuất hiện trước ông. Các vị này đang quay bánh xe cầu nguyện với bàn tay phải và cầm những là cờ cầu nguyện to lớn bên tay trái. Thần Bảo Hộ Trắng và Hắc Quỷ đều đã biến mất.

Đại Sư Pema Dechen nói với Tagla, “Con phải vào thăm địa ngục để có thể kể lại cho mọi người biết về địa ngục khi con trở về Cõi Người Sống. Người ta sẽ tìm hiểu và tin tưởng rằng địa ngục có thật, và sẽ có cảm hứng để tu tập theo Chánh Pháp. Nhưng con không thể tự mình đến địa ngục mà không dựa vào oai lực của Ta. Hãy cầu nguyện Đức Phật Từ Bi và đi theo Ta.”

Với sự hướng dẫn của vị Thầy, Tagla vào thăm mười tám địa ngục khác nhau, trong mỗi địa ngục, vô số sinh linh bị hành hạ đủ loại đau khổ. Những sự đau khổ này là hậu quả của những cảm xúc tiêu cực và những ác nghiệp mà họ đã tạo tác trong lúc còn sống.

Trong mười tám địa ngục này, tám địa ngục đầu tiên là những địa ngục nóng (hỏa ngục):

1. Trong địa ngục sống lại: trên nền sắt nóng cháy, các sinh linh không ngừng giết lẫn nhau với lòng sân hận,  sau đó sống lại và chịu đau khổ như vậy bất tận.
2. Trong địa ngục đường vạch đen: trên nền nóng bỏng, những đao phủ vẽ những đường lằn trên thân thể của những tội đồ rồi cưa thân thể của họ theo đường vạch đó thành từng mảnh bằng những lưỡi cưa nóng cháy, và các tội đồ bị cưa như thế vô số lần.
3. Trong địa ngục giã nát: các sinh linh bị liệng vào những cối sắt nóng khổng lồ và bị giã bằng chày nóng cháy không ngừng.
4. Trong địa ngục gào thét: các tội đồ bị nướng trong những bức tường sắt nóng cháy và gào thét không ngừng nghỉ.
5. Trong địa ngục gào thét lớn: các sinh linh bị giam trong bức tường kép nóng bốc lửa, liên tục gào thét vì quá đau khổ.
6. Trong địa ngục nung nấu: các sinh linh bị nấu trong nước đồng sôi.
7. Trong địa ngục nung nấu nhiều: các sinh linh bị thiêu đốt trong những nhà bằng sắt và bị đâm bằng chĩa ba nóng bốc lửa và bị gói lại bằng những miếng sắt nóng.
8. Trong địa ngục đau khổ cùng cực: các tội đồ bị thiêu đốt trong một quả núi sắt nóng cháy, và miệng của họ bị rót nước đồng sôi. Người ta chỉ nghe thấy những tiếng kêu la đau đớn của họ mà không thể  nhìn thấy họ ở giữa những ngọn lửa nóng.

Kế tiếp là tám địa ngục lạnh, nơi những tội đồ phải trần truồng để chịu cái lạnh khủng khiếp: (1) địa ngục lạnh phồng da, (2) địa ngục phồng nổ, (3) địa ngục răng đập vào nhau, (4) địa ngục than khóc, (5) địa ngục la khóc, (6)  địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa súng, (7)  địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen, (8) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen lớn. Cuối cùng là hai loại địa ngục phụ: (1) trong những địa ngục bên cạnh này, các tội đồ rơi vào những hố than nóng hay những vũng lầy dơ bẩn, đi qua những cánh đồng lưỡi dao hay rừng lưỡi gươm, và bị đâm bằng những vũ khí sắc nhọn của Đồi Cây Sắt, và bị những con kên kên, hay những người nam nữ ăn thịt. (2) Trong địa ngục ảo ảnh, các sinh linh tái sanh vào những nơi và những vật khác nhau, như đá, cột nhà, bức tường, và cả những món đồ đạc và bị kẹt ở đó trong một thời gian dài.

Trong mỗi cõi địa ngục, Đại Sư Pema Dechen nhìn thấy nguyên nhân của sự chịu khổ của mỗi chúng sanh và  giải thích cho Tagla biết. Ngài cũng nói về thời gian mỗi chúng sanh phải chịu khổ và cách giảm bớt nỗi khổ của mình. Trước khi nghiệp quả xấu của họ chấm dứt họ phải sống trong địa ngục, những tội đồ chịu khổ ở đây sẽ không chết vì sự hành hạ, vì sự chịu đau đớn là số phận mà họ phải chịu.

Do oai lực của Đức Phật Từ Bi và Đại Sư Pema Dechen, nhiều sinh linh có thể nhớ lại kiếp trước của mình ở trên thế gian. Tagla khuyến khích nhiều người gởi lời nhắn về hoàn cảnh đau khổ của mình cho những người thân ở thế gian và cầu xin thân nhân tạo lập công đức để giải trừ nghiệp quả xấu cho cả kẻ còn người mất.

Trong lời kể của ông, Tagla đã nói ra tên của nhiều người ở miền Đông Tây Tạng, đang chịu khổ trong những địa ngục khác nhau. Ông mô tả sự đau khổ của họ và những lời nhắn gởi người thân của họ. Có những trường hợp Tagla không trông thấy người gởi lời nhắn mà chỉ nghe tiếng của họ nói với mình.

Ví dụ, một nhóm tội đồ nói, “Làm ơn chuyển những lời nhắn sau đây cho những người thân của chúng tôi. Xin hãy thân cận với người thật sự có đạo tâm tu hành. Xin bố thí thực phẩm và vật dụng cho những người và thú vật đói khổ và nghèo túng. Xin khắc chạm câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên những tảng đá và in trên những tấm vải, rồi trương lên làm những lá cờ cầu nguyện. Xin hãy mua chuộc sinh mạng của những con vật ở lò sát sinh để phóng sanh chúng. Xin làm lễ cúng và thiêu các món ăn và nước cho các sinh linh đang chịu khổ trong cõi âm. Xin hãy cúng dường nhang đèn cho các vị Phật và làm bánh xe cầu nguyện. Xin hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG bất cứ khi nào nói đến tên hay nhớ đến chúng tôi.

Rồi một vị Thầy khác của Tagla là Ngài Tendzin Dargye xuất hiện và nói, “Bây giờ con nên đi đến Toà Phán Xét của vị Pháp Vương của các Thần Chết.” Ngay lúc đó Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen xuất hiện trở lại hai bên ông và mỗi vị cầm một tay ông. Họ đưa ông qua một cổng sắt lớn được những con thú đáng sợ canh phòng. Ở bên trong, Tagla thấy Vị Pháp Vương ở trong một khối cầu lửa khổng lồ. Ngài có bốn mặt đen với hai tay, tay phải cầm một tấm bảng, tay trái cầm một thòng lọng đen, đứng trên một con trâu có vẻ dữ tợn, Ngài trông thật khủng khiếp. Tháp tùng với Ngài có mấy trăm ngàn Thần Chết, kể cả Awa Đầu-Bò, vị Thần giữ tấm bảng. Thần Ác Đầu Rắn giữ cái cân; và Thần Đầu-Khỉ giữ sổ sách. Tất cả các vị đều la to: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!”

Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen đưa Tagla đến trình diện vị Pháp Vương và hướng dẫn ông kể lại những việc làm của mình ở thể gian cho Pháp Vương nghe. Tagla kể ra những công đức mà mình đã tạo lập. Pháp Vương nói, “Loài người các ngươi chỉ giỏi nói dối. Làm sao biết được ngươi đang nói sự thật ?”

Rồi vị Pháp Vương ra lệnh cho Awa Đầu-Bò kiểm lại những hành vi của Tagla qua tấm gương, trong đó những hành động của mỗi sinh linh đều xuất hiện một cách rõ ràng. Thần Ác Đầu-Rắn cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của Tagla trên một cái cân. Thần Trẻ Mặt Khỉ kiểm tra lại những hành động của ông bằng cách đọc bản liệt kê trong cuốn sổ. Tất cả họ đều hỗ trợ lời khai của Tagla.

Vào lúc đó, bỗng Quỷ Đen đứng dậy và la lớn, “Ha! Ha! Ta phản đối kết quả tìm được của mấy ông”, rồi vị này dốc ngược cái túi đeo trên vai của mình đựng những viên sỏi tượng trưng cho ác nghiệp của Tagla. Nhưng chỉ có tám viên sỏi đen rơi ra ngoài. Đến lượt Thần Bảo Hộ Trắng hô lớn Ha! Ha! và xuất trình một núi sỏi trắng làm bằng chứng cho những thiện nghiệp của Tagla.

Lúc đó, Tagla thấy Pháp Vương xuất hiện trong hình dạng Đức Phật Từ Bi. Tám vị Thần Chết chính yếu của Tòa Phán Xét cũng xuất hiện như tám vị Bồ tát.

Từ bên phải của Pháp Vương, một thảm ánh sáng trắng trải dài về hướng Tây. Pháp Vương nói, “Theo con đường ánh sáng này, con có thể đi đến cõi Cực Lạc. Nhưng con phải trở về thế gian như một sứ giả của Ta để làm lợi ích cho mọi người.” Vị Pháp Vương bảo Tagla kể cho người thế gian biết những gì ông đã thấy trong cõi trung ấm và chuyển những lời nhắn của các sinh linh ở địa ngục cho mọi người thân của họ ở cõi thế gian. Tagla không muốn trở về vì ông đã già rồi, nhưng cuối cùng ông cũng tuân lệnh Pháp Vương.

Bỗng nhiên ông thấy một tháp màu trắng phủ tuyết và ông nhập vào trong đó. Cái tháp này thật ra chính là thể xác của ông. Tức khắc sự cảm nhận thế gian trở nên sống động đối với ông. Dần dần sức khỏe của ông phục hồi và ông trở lại với đời sống bình thường.

Tagla đã mang lợi ích đến cho nhiều người bằng việc dạy đạo và hướng dẫn cầu nguyện cũng như hành thiền trong nhiều năm. Rồi trong một lễ cưới của một người thân, khi nghe tin một ngàn năm trăm con thú bị làm thịt để thếch đãi, Tagla quá đau buồn và đột ngột qua đời. Lần này ông không trở về thế gian nữa.

Xao lãng với những ảo ảnh: Kinh nghiệm của Dagpo Trashi Namgyal

Câu chuyện delog của Dagpo Trashi Namgyal minh họa một cách sống động về sự kiện trong cõi trung ấm, sự chú tâm có thể biển đổi  đột ngột và nhanh chóng.

Dagpo tự làm phép chuyển di thần thức phowa cho mình và thần thức của ông đã thoát qua đỉnh đầu. Rồi ông trông thấy một ánh sáng giống như một tấm mền đang trải rộng ra. Ông đã thác sanh đến một cõi tịnh độ. Trong cõi tịnh độ này ông thấy chư Phật, các Thiên nữ dakini, và  các vị lạt ma. Ông được hưởng những món ăn và đồ uống thanh tịnh, âm nhạc du dương và những vũ điệu hỷ lạc.

Trong cõi tịnh độ này, ông gặp một lạt ma, vốn là một vị Thần bảo hộ của mình. Vị lạt ma hỏi những câu hỏi và ông trả lời. Nhưng tâm của Dagpo bất ngờ xao lãng và ông trông thấy một đường đèo núi cao không thể tưởng tượng với những lá cờ cầu nguyện ở trên đỉnh. Ông trông thấy một cánh đồng khổng lồ, và ở phía dưới cánh đồng là một dòng sông nâu đen to lớn đang chảy xiết. Trên con sông có sáu cây cầu, và bờ bên kia là một thành phố lớn.

Rồi ông cảm thấy mình đang nói chuyện với vị lạt ma. Nhưng tâm ông trở nên xao lãng, và ông bắt đầu thấy những ảo ảnh về sự đau khổ trong địa ngục.


 Ông trở lại với cảm giác mình đang nói chuyện với vị lạt ma bảo hộ của mình, nhưng một lần nữa tâm ông lại/ bị xao lãng. Ông thấy những Thần Chết đưa nhiều sinh linh vào địa ngục.

Có những lúc đang thảo luận về giáo lý, ý thức của ông bỗng đột ngột biến đổi thành ảo ảnh. Kinh nghiệm này của ông cho thấy chúng ta phải thiết lập thói quen giữ tâm trí mình ổn định trong lúc còn sống ở thế gian này.

Sau cùng, Dagpo ở trong tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Chỉ vào các vị Thần Chết chính yếu, vị lạt ma bảo hộ ông nói, “Con không thể giấu giếm những ác nghiệp mà chính mình đã phạm. Những Luật lệ của Pháp Vương rất nghiêm khắc. Trong các vị Thần Chết thì Thần Awa Đầu Bò, có tài năng tính toán; Vị Đầu Sư Tử có tài ghi nhận nghiệp tốt và nghiệp xấu; Vị Thần Trẻ Mặt Khỉ có tài xem tấm gương; Vị Đầu Cọp có tài cân nghiệp tốt nghiệp xấu trên bàn cân; Vị Đầu Beo có tài xem sổ sách ghi công và tội; Vị Đầu Gấu có tài quyết định nghiệp nào thiện và nghiệp nào xấu; Vị Đầu Gấu Nâu có tài sử dụng vũ khí. Nói chung các vị Thần Chết tài năng này giỏi phân biệt giữa thiện nghiệp và ác nghiệp".

Vị lama bảo hộ tiếp tục, “Con phải thiền quán về chơn tánh trí tuệ không xao lãng. Tất cả chúng sanh đều bị trôi lăn trong vòng luân hồi là vì quên mất chơn tánh của mình. Những chúng sanh vô minh trong vòng luân hồi thì không thể chấm dứt đau khổ. Chư Phật có tâm thanh tịnh nên thấy mọi sự như là một cõi cực lạc. Chúng sanh có tâm bất tịnh nên nhìn thấy mọi vật là nền sắt nóng cháy của địa ngục. Các hiện tượng phàm tục là thói quen nhận thức huyễn ảo của chính chúng ta. Những ai có nhận thức này làm họ thấy mọi sự như cõi tịnh độ sẽ không phải đối mặt với các Thần Chết, mà ngược lại sẽ thấy chư Phật, vì trong chơn tánh của các vị Thần Chết là các vị Phật.”

Rồi Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Đầu Gấu, “Hãy cho vị hành giả này thấy chi tiết của những gì diễn ra ở địa ngục. Người này nên được đưa về Cõi Người Sống.”

Thần Chết Đầu Gấu bảo Dagpo, “Đừng để tâm tán loạn, hãy an trụ trong trạng thái chơn không, vốn là chơn tánh trí tuệ của tâm, xin hãy theo Ta.” Thần Chết đưa Dagpo đi qua các địa ngục đau khổ không thể tưởng tượng được và những cõi thấp khác. Rồi vị này đưa Dagpo trở lại Tòa Phán Xét.

Đức Pháp Vương nói với Dagpo, “Ngươi phải hiểu rằng tất cả những giáo lý trong Kinh, Luật, Luận là dạy về cách luyện tâm. Nhận ra chơn tánh của tâm là trí tuệ vô sanh. Trụ thăng bằng trong chơn không vô lượng An trụ vững vàng  trong trạng thái chơn như.”

Vị Pháp Vương ra lệnh cho ba Thần Chết đưa Dagpo trở về Cõi Người Sống. Vị lama bảo hộ giải thích, “Ta là một hóa thân của Phật Quán Âm (Avalokiteshvara Buddha).” Vị Awa Đầu Bò nói, “Ta là một hiện thân của Phật Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva).” Vị Thần Trẻ Đầu Khỉ nói, “Ta là một hiện thân của Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava).” Vị La Sát Đầu Heo nói, “Ta là một hiện thân của Phật Vô Lượng Quang.” Rồi các vị cùng nói:Bây giờ ngươi trở về tái nhập thể xác của ngươi, vốn là cảnh giới ( mandala) của chư Phật.”

Sau sáu ngày đi qua các địa ngục, Dagpo cảm thấy  như vừa mới thức dậy sau một giấc ngủ. Vị lama bảo hộ của ông và các vị Thần Chết đã biến mất. Ông thấy mình đang ở trước động tu của mình, nơi đó có một Tăng, một Sư cô và một cư sĩ đang canh chừng xác chết của ông. Ông cố nhìn quanh nhưng không thể thấy bất cứ một vật gì. Phải mất một thời gian sau thể xác của ông mới phục hồi sức khỏe trở lại.

Vượt qua cánh đồng người chết: kinh nghiệm của Gyalwa Yungtrung

Yungtrung là một tín đồ đạo Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Chuyện kể delog này cho chúng ta thấy những lời cầu nguyện thành tâm của bất cứ tín ngưỡng nào cũng sẽ có ích vào lúc chết. Yungtrung từng biết về Phật Giáo, vì vậy ông chứng kiến các vị Thần và các vị Thầy của Phật Giáo cũng như đạo Bon cứu độ các sinh linh trong cõi trung ấm. Điều đáng chú ý ở đây là giống như những Phật tử tu theo Mật tông, Yungtrung cũng xem Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là một phần của sự nhận thức con đường đạo và mục tiêu sâu xa của tôn giáo. Đối với ông, tòa phán xét không chỉ là một nơi xét xử để quyết định nơi tái sanh của các sinh linh. Nếu người ta hiểu như vậy thì đây là là một tỉnh thức tâm linh của tánh giác nội tại, chơn tánh của tâm trí.

Sau khi ra khỏi thể xác, Yungtrung bỗng cảm thấy mình bay như một con chim, ông bay qua nhiều núi non và thung lũng. Ông trông thấy một con đường đèo trên núi cao được thiết trí bằng những đống xương người và thú vật. Những đống xương này gây tiếng động ồn ào. Bỗng một vị Thiên Nữ vốn là vị Thần Bảo Hộ của ông xuất hiện trong một trang phục áo vải với ba lông chim công trên đầu. Bà nói, “Ha! Ha! Ta không biết chắc con sẽ gặp Mẹ của con.” Nhưng bà cũng ban cho ông một lời hướng dẫn, và Yungtrung làm theo, vượt qua đường đèo và thấy một ngả ba đường. Một ngả đường màu đỏ đi về hướng Tây, một ngả đường màu xanh dẫn về  hướng Đông, và ngả đường nhiều màu ở giữa đi đến Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là nơi sẽ đạt giải thoát hoặc đi lạc vào luân hồi. Yungtrung chọn con đường giữa, có nhiều màu sắc giống như một con rắn, ông đi nhanh trên con đường này.

Con đường trở nên hẹp đến mức dường như núi và đá ở hai bên con đường này chạm vào nhau. Một lần nữa, Yungtrung lại thấy hai con đường nhỏ như một sợi tóc. Con đường màu trắng ở bên tay phải và con đường màu đen ở bên trái. Nhiều người cố gắng chạy theo hai con đường này và nhiều người đang té.

Yungtrung chọn con đường màu trắng, nhưng không bao lâu con đường hoàn toàn bị bít lấp. Sau đó một tu sĩ đạo Bon trong y phục như người thường với mái tóc dài đi tới từ phía bên kia, dẫn khoảng một trăm người đến giải thoát. Vị này nói với Yungtrung, “Con đường màu trắng là con đường dành cho những người làm lợi ích cho chúng sanh. Con đường màu đen là dành cho mọi người nói chung, và nó dẫn đến nơi ở của vị Pháp Vương.”

Rồi Yungtrung thấy mình đang ở trước cửa một cái hang. Cửa hang có một lỗ nhỏ, chỉ vừa với nắm tay ông lọt qua. Tất cả những con đường đều dẫn đến cái hang này, và không có lối ra nào khác. Ông nghĩ, “Bây giờ mình không có thân vật chất nữa. Thần thức của mình có thể đi xuyên qua bất cứ cái gì.” Ông lớn tiếng lập lại câu này ba lần cho đám đông biết. Đột nhiên ông thấy mình ở phía bên kia cửa hang đá.

Ông đang đứng trên một cánh đồng lớn màu xám, từ đó ông không trông thấy núi hay thung lũng nào nữa. Ông nghĩ, “Cánh đồng này lớn vô cùng, nhưng vượt qua nó không phải là việc bất khả, vì mình là rỗng không.” Tức khắc ông thấy mình ở rìa bên kia của cánh đồng.

Ở đó có ba dòng sông chảy cuồn cuộn dữ dội hợp lại thành một. Dòng sông màu đỏ chảy đến từ hướng Đông. Dòng sông màu đen chảy tới từ hướng Nam. Dòng sông màu nâu chảy đến từ hướng Bắc. Chỉ có một chiếc cầu dài và hẹp bắt ngang trên con sông lớn này. Ở gần chiếc cầu, nhiều người nam và nữ đang kêu khóc vì họ phải vượt qua sông nhưng không thể được. Với tâm từ bi, ông nói với họ rằng, “Tất cả mọi người hãy cầu nguyện với tôi. Tôi sẽ cầu nguyện cho các vị” Tất cả họ đều lắng nghe ông với sự kính trọng. Phát tín tâm mạnh mẽ, Yungtrung cầu nguyện các vị Thầy tổ của đạo Bon và của Đạo Phật:

HRI! Con cầu nguyện Đạo Sư Tranpa Namkha
Con cầu nguyện Đạo Sư Tshewang Rigdzin.
Con cầu nguyện Đạo Sư Padmasambhava.
Con cầu nguyện Montul Tenpa Wangyal.
Con cầu nguyện vị Thầy chính của con
Xin dẫn thần thức của những người chết đến giải thoát.
Xin gia hộ cho chúng con và làm cho nỗi sợ hãi cõi trung ấm biến mất
Xin gia hộ cho chúng con thành tựu pháp chuyển di thần thức phowa.
Xin gia hộ cho chúng con đắc quả an lạc của con đường giải thoát.

Rồi ông nhập vào trạng thái thiền định, và kết quả là tất cả những người hiện diện ở đó đều được tái sanh vào những cõi phúc lạc.

Đến đây vị Thần Bảo Hộ của Yungtrung lại xuất hiện một lần nữa. Ông trông thấy một tòa lâu đài lớn trong suốt, cao như thể đụng đến bầu trời. Ông hỏi vị Nữ thần, “Tòa lâu đài này có tên là gì? Ai sống ở trong đó?” Nữ thần nói, “Đây là sự đại hợp nhất của sắc tướng và chơn không, lâu đài của các Thần Chết. Vị Pháp Vương của Thần Chết ở trong đó. Lúc này, vi Pháp Vương đang có thái độ hiền hòa, tốt nhất chúng ta nên đến gặp Ngài ngay"

Yungtrung nghe thấy những tiếng động kinh khủng vang khắp đất trời. Mới đầu ông hoảng sợ, nhưng rồi ông tự nhủ, “Tất cả âm thanh đều là âm thanh tự nhiên của trí tuệ. Tất cả ánh sáng là ánh sáng của trí tuệ. Tất cả những tia sáng đều là tia sáng tự nhiên của trí tuệ. Không có gì phải sợ hãi cả.” Với sự tự tin mới, ông tiếp tục đi.

Trong tòa lâu đài khổng lồ này có một ngai lớn làm bằng vật liệu quý. Cái ngai được tám con thú hùng mạnh khác nhau nâng lên. Ngồi trên ngai là một người khổng lồ trông đáng sợ có mặt màu hơi đỏ, to lớn như Núi Tu Di (Sumeru). Nét mặt của Ngài mang dáng dấp nửa hiền hòa nửa phẫn nộ, với ba mắt và bốn răng nanh, mái tóc hơi đỏ bồng bềnh xung quanh đầu Ngài như ngọn lửa đang cháy. Ngài mặt áo lông thú, đội mão và đeo chuỗi hạt bằng xương. Tay phải của Ngài cầm một quyền trượng với dấu ấn của chữ Vạn (Svastika) và tay trái cầm một tấm gương giống như trăng tròn, trong đó Ngài có thể trông thấy tất cả những sự vật hiện tượng của thế gian. Ngài gầm lên một tiếng lớn “HUNG” làm rung chuyển cả ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Yungtrung tin chắc vị thần khổng lồ này là Pháp Vương của những Thần Chết.

Yungtrung đảnh lễ ba lần và nói, " Kính thưa Pháp Vương, con là Latri Lama Gyalwa Yungtrung, người xứ Kham. Mẹ con tên là Adron, hiện giờ đang ở đâu?”

Thay vì trả lời thẳng câu hỏi này, vị Pháp Vương nói, “Ha! Ha! Ngươi đến đây để giúp giải thoát cho những sinh linh của ba cõi đã bị đày xuống đây vì ác nghiệp của họ. Vậy, với sức mạnh của mình, ngươi phải giải thoát tất cả những ai từng có nhân duyên với ngươi. Nhưng nếu ngươi không thể làm được như vậy, Ta sẽ thật hổ thẹn cho ngươi.”

Ngay lúc đó, Yungtrung trông thấy một trưởng lão đạo Bon đến Tòa Phán Xét. Ông đi với một người có sắc diện trắng mặc áo trắng, và một người sắc diện đen mặc áo đen. Người mặt trắng biện hộ cho ông già, đưa ra một túi đựng những viên sỏi trắng tượng trưng cho những thiện nghiệp của ông già. Người mặc áo đen trình ra một túi đựng những viên sỏi đen và biện luận chống lại ông già đó. Theo lệnh của Pháp Vương, Thần Chết Đầu Khỉ và Thần Chết Đầu Sư Tử cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của ông già. Nghiệp tốt của ông già nặng hơn nghiệp xấu một chút. Thần Chết Đầu Khỉ kiểm tra lại trong tấm gương và chỉ thấy ánh sáng. Pháp Vương nói với người tu sĩ già, “Ngươi đã tạo được nhiều thiện nghiệp to lớn. Nhưng điều quan trọng hơn là ngươi đã duy trì tâm thanh tịnh và tôn kính vị Thầy của ngươi. Vì vậy, ngươi có thể đi đến Shambala, vương quốc của bậc thánh nhân ở rặng Tuyết Sơn".

Nhiều người bắt đầu trải qua sự phán xét của Pháp Vương. Các vị đạo sư cũng đến đó và giúp giải thoát cho nhiều người trong số họ.

Yungtrung đi thăm nhiều nơi và cầu nguyện cho các sinh linh ở đó. Nhiều sự đau khổ của địa ngục biến mất ngay khi ông hô lớn "PHAT" trong khi nhập định.

Sau khi thăm viếng các địa ngục, ông trở lại tòa lâu đài. Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Mặt Khỉ đưa ông đi khỏi nơi đó. Ông đã không tìm thấy Mẹ của mình.

Trên đường trở về, ông gặp hai vị lạt ma bị kẹt ở dưới một chiếc cầu. Khi còn sống trong loài người, một vị đã làm phép trừ tà với mục đích xấu, và vị kia đã lạm dụng ngân quỹ của cộng đồng. Nhưng vì hai vị lạt ma này có niềm tin nơi Chánh Pháp, nên Yungtrung cầu nguyện chư Phật và chư Tổ với lòng thành kính và làm phép chuyển di phowa. Kết quả hai vị lạt ma đã được giải thoát khỏi nơi đó.

Sau đó Yungtrung qua cầu trở lại, đi qua Cánh Đồng Chết, đi dọc theo con đường hẹp, và đường đèo của người chết. Ông về đến nhà khi mặt trời đang lên đỉnh núi.

Sau đó Yungtrung có một kinh nghiệm cận tử lần thứ hai, trong đó ông đi qua con đường dẫn vào cõi trung ấm, bằng năng lực thiền quán về sự hợp nhất của trí tuệ và tánh Không, giống như ông đã từng làm trong kinh nghiệm delog lần thứ nhất. Lần này ông đến nhiều nơi khác nhau trong cõi người và cõi A tu la.

Bỗng có một Thiên nữ dakini xinh đẹp xuất hiện phía trước ông. Yungtrung thỉnh cầu vị này đưa ông đến chỗ của Mẹ mình. Vị dakini không trả lời mà biến thành một chim đại bàng bay lên bầu trời. Nhận ra mình không có thân xác thô kệch. Yungtrung cũng biến thành chim đại bàng chỉ bằng ý muốn và bay theo sau vị dakini. Sau đó, ở phía bắc của Núi Tu Di, hai người đáp xuống một cánh đồng đầy hoa. Ở đó trong một cái lều làm bằng những bông hoa, Yungtrung trông thấy một vị thánh.

Vị dakini bảo, “Hãy lại đây.” Ở đó có một bông hoa thấp hơn bông khác, và vừa mới nở. Ở bên trong là ba đứa bé sơ sanh. Chỉ vào một em bé, vị dakini nói, “Bé trai này là Mẹ của ngươi. Ngươi có nhận ra không?” Bé trai đó nhận ra Yungtrung và nói, “Apho, tại sao con đến đây?”. Mẹ của ông trong kiếp tái sanh mới là một bé trai, không nhớ gì về gia đình trước đây của mình, nhưng bà đã nhận biết con trai Yungtrung này. Sau đó, theo lời khuyên của dakini, họ đi đến chỗ vị thánh. Vị dakini yêu cầu vị thánh giảng giáo lý cho Mẹ Yungtrung trong thân tái sanh mới. Vị thánh ưng thuận lời thỉnh cầu.

Sau đó vị dakini dẫn Yungtrung đến cõi Thiên giới. Sau khi ban những lời tiên tri, bà bay về Oddiyana. Còn Yungtrung thấy mình tái nhập về thể xác ở trong nhà của mình.

Được tịnh hóa bằng dòng cam lộ: kinh nghiệm của Samten Chotso

Samten Chotso trước khi đi thăm địa ngục với sự giúp đỡ của Yeshe Tsogyal, vị phối ngẫu của Guru Rinpoche. Thông thường, thì trước hết các vị delog đến Tòa Phán Xét của Pháp Vương, nhưng Samten và một số người khác lại đi thăm địa ngục trước. Sau cùng Samten mới đến Tòa Phán Xét của Pháp Vương. Thần Bảo Hộ Trắng biện hộ để bảo vệ bà và Quỷ Đen cải lại để chống lại bà. Các Thần Chết đã kiểm lại những nghiệp tốt và xấu ở trong tấm gương. Họ thấy bà đã giết nhiều chim, sâu bọ và đã thề thốt nhiều. Tức khắc bà bị đánh bằng roi trên một cánh đồng nóng cháy và bị nước đồng sôi đổ lên người. Bà nhớ đến Guru Rinpoche và cầu nguyện Ngài. Và kết quả là Thần Bảo Hộ Trắng đến đưa bà về Toà Pháp Vương. Bà nghĩ là bà đã trải qua một năm, nhưng Pháp Vương nói với bà rằng đó chỉ bằng thời gian uống một chén trà.

Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết cân công và tội, và các vị này thấy thiện nghiệp của Samten nặng hơn bất thiện nghiệp. Cuối cùng Pháp Vương ra lệnh hai Thần Chết đưa bà trở về cõi người. Pháp Vương khuyên Samten hãy tu tập theo Chánh Pháp và giúp đỡ mọi người. Ngài nói thêm, “Từ nay trở đi, con không cần phải đến đây nữa. Con có thể thác sanh về Thế Giới Cực Lạc.”

Trên đường trở về, Samten trông thấy Mẹ Yeshe Tsogyal, và bà đã hỏi về hành trình của Samten. Trên đường về, bà đã cho Samten thấy cõi tịnh độ của năm vị Phật nguyên thủy được làm bằng ánh sáng năm màu ở bốn hướng và ở bên trên.

Samten khẩn cầu Yeshe Tsogyal đưa mình về Cõi Cực Lạc. Cưỡi trên một con sư tử, Yeshe Tsogyal dẫn Samten cưỡi trên một con lừa trắng. Họ lên đến đỉnh một ngọn núi ở hướng Tây, từ đó họ có thể trông thấy Cõi Cực Lạc. Với lòng vui mừng, Samten đảnh lễ ba lạy. Con lừa và con sư tử biến mất. Bỗng mặt đất nơi họ đang đứng trở nên đất mềm và êm dịu, mỗi bước chân bà đi là một bông hoa nở ra. Bà được tắm trong một cơn mưa cam lộ và được uống nước cam lộ này, mọi sự bất tịnh và ác nghiệp của bà đều được thanh lọc tịnh hóa, thân thể của bà trở nên trắng như vỏ ốc tù và, mỗi bước chân của bà là băng qua một thung lũng. Cuối cùng bà đến một cõi tịnh kỳ lạ với những cây, trái, hoa, những bảo vật và những món đồ trang hoàng lộng lẫy đẹp đẽ. Chư Bồ Tát trong hình dạng chim muông đang hót khắp nơi. Bất cứ cái gì Samten muốn có đều tự  hiện ra tức khắc.

Với ba bước chân, Samten vượt qua ba bức tường, bà đến trước Đức Phật Vô Lượng Quang, lúc đó Ngài đang ngồi dưới một gốc một cây thật lớn và xanh tốt. Ở bên phải Đức Phật Vô Lượng Quang là Bồ Tát Quán Thế Âm và ở bên trái Ngài là Bồ Tát Kim Cương Thủ. Mỗi vị đều ở giữa một trăm triệu Bồ tát và tu sĩ. Các vị Phật và Bồ Tát ở khắp mọi nơi và ở giữa vô số đệ tử của các Ngài. Cũng có các vị Thần đủ loại, kể cả Guru Rinpoche trong hình dạng phẫn nộ. Bà cũng trông thấy vô số các vị Thầy thuộc nhiều dòng truyền khác nhau. Samten Chotso đã không kể lại về việc bà tái nhập lại thể xác như thế nào.

Đừng mất can đảm: kinh nghiệm của Changchub Seng-ge

Changchub muốn đi về nhà, bỗng nhiên ông thấy mình ở trong nhà của Cha Mẹ mình. Ông đi qua nhà hàng xóm xin thức ăn và hỏi thăm những điều mình muốn biết, nhưng không ai trả lời hoặc thậm chí nhìn vào ông. Ông nghĩ có lẽ  mọi người đang giận mình.

Một cô gái đang xách nước. Ông đến xin nước, nhưng cô ta không nói gì cả. Khi ông cố gắng lấy nước trong bình của cô thì cái bình tuột khỏi tay cô rớt xuống và bể thành nhiều mảnh. Ông nắm đuôi một con ngựa thì con ngựa ngã gục xuống đất. Một phụ nữ đang quay sợi không trả lời ông, khi ông chạm vào mớ lông cừu thì nó bị thổi bay đi như một cơn bão, làm cho bà ta phải đuổi chạy theo nó. Tất cả những điều này làm cho Changchub lo nghĩ, vì ông nhớ lại trong dân gian có nói, “Hồn vía dù vô hình nhưng vẫn có thể làm cho đồ vật chuyển động.”

Rồi ông suy nghĩ: “Bây giờ mình nên đến tu viện.” Trên đường có một con chó theo sủa ông. Một người đàn bà mắng con chó, “Con chó mắc dịch, bộ mày sủa ma hả!” . Người ta tin rằng chó và mèo có thể trông thấy những hồn ma. Tưởng người đàn bà gọi mình là ma. Changchub bắt bẻ, “ chỉ cho thấy không có vị thần nào của bà mà không là ma quỷ!” Nhưng bà ta không nghe thấy ông. Khi ông đến tu viện. Ông thấy một xác chết nằm ở phòng của mình. Cái xác đang được hai con chó săn to lớn và hung dữ canh chừng. Changchub rất sợ. Một ý nghĩ xuất hiện với ông, “Có lẽ mình đã chết rồi!”

Ngay lúc đó, ông thấy mình ở bên kia của một quả núi lớn. Ông ở trong vùng tối tăm và đang bị những cơn bão nghiệp đẩy từ phía sau. Các vị Thần Chết đang la hét như hàng ngàn tiếng sấm, nền sắt nóng bỏng đốt dưới chân ông. Vô số sinh linh tạo nghiệp xấu đang đứng chen chúc ở xung quanh.

Quá sợ hãi, Changchub cầu nguyện Đức Quán Thế Âm, tức khắc ông thấy một đứa bé tám tuổi với sắc diện trắng, mặc áo lụa với những món trang sức bằng ngọc đang ngồi trên một cái ngai có trang trí hoa sen, mặt trời và mặt trăng. Cậu bé gia hộ cho Changchub và nói rằng hai người đã có nhân duyên từ nhiều kiếp. Đây là vị Thần Bảo Hộ của Changchub nên ông cầu nguyện với cậu bé.

Changchub đi thăm nhiều địa ngục, sau đó ông đến nơi ở của Pháp Vương. Trong một cung điện lớn, vị Pháp Vương ngồi trên một cái ngai trang trí với những tấm nệm hoa sen, mặt trời, mặt trăng, vàng ngọc, được nâng bởi tám con thú và chim. Phần thân trên của Ngài trang phục bằng lụa trắng và những món trang sức ngọc báu, phần thân dưới của Ngài mặc đồ da cọp với dây thắt lưng là một con rắn màu đen. Những tia sáng tỏa ra từ thân của Ngài đến nổi làm lóa mắt khiến người khác không thể nhìn vào Ngài được. Mắt Pháp Vương đỏ như máu, Ngài cầm một ngọn lửa và nước, ở phía bên phải Ngài là một gương, và ở bên trái là một tấm bảng. Vây quanh Ngài là một ngàn vị Thần Chết, các vị đều có hình  dạng giống như Pháp Vương. Ở phía trước Ngài có vô số sinh linh đang tụ tập và vô số Thần Chết đang quyết định số phận của họ.

Pháp Vương cho Changchub đi thăm nhiều cõi ngạ quỷ, súc sanh, cõi người, và A tu la. Sau đó, Pháp Vương bảo Changchub chuyển bức thông điệp của Ngài cho chúng sanh của Cõi Người Sống, “Hãy nương tựa Tam Bảo, phát Bồ đề tâm, cúng dường, học giáo lý và tiếp nhận sự  truyền thừa của Thầy tổ, đặc biệt là trì tụng Thần chú OM MANI PADME HUNG, đây là tinh túy của Giáo Pháp.

Changchub hỏi Pháp Vương, “ Có phải tất cả mọi người đều phải gặp Ngài sau khi họ chết ?” Pháp Vương trả lời, “Không ai trong cõi người khi chết mà không gặp Ta, ngoại trừ hai hạng người. Những người đã tin theo Chánh Pháp từ lúc mới sinh ra, họ sẽ thác sanh thẳng đến Cõi Cực Lạc ngay khi thần thức họ lìa khỏi thể xác. Họ sẽ không cần phải gặp ta. Thứ hai là những hạng người đã tạo những ác nghiệp từ lúc sinh ra, sẽ đi thẳng vào địa ngục, họ không có cơ hội để gặp ta.”

Changchub lại hỏi, “Có nghiệp tốt nào sẽ không mang lại quả tốt hay có nghiệp xấu nào không mang lại quả xấu hay không". Pháp Vương đáp, “Có, dù dùng tài sản của mình để làm những việc tốt, nếu tài sản đó phát xuất từ sự lừa bịp Thầy của mình hay của Cha Mẹ, từ các tu sĩ bằng vũ lực, hay từ những người khác dưới dạng thu thuế, thì những việc làm tốt không được xem là công đức. Nếu với ý định bảo vệ kẻ yếu và cứu người khác mà chống lại những thú dữ, rắn độc, trộm cắp, kẻ giết người, và những kẻ làm hại người khác, tất cả những việc này đều không bị xem là bất thiện". Rồi Pháp Vương nói, “Ngươi không cần phải đến gặp lại ta. Ngươi sẽ tạo lập nhiều công đức để phụng sự cho chúng sanh, và ngươi sẽ đắc Phật quả.”

Thế rồi Changchub trở về cõi người. Ông về căn lều nơi ông đã nhập thất tu tập trước khi có kinh nghiệm delog. Nơi đây ông thấy xác chết một con chó. Một con ruồi đậu trên mõm con chó và đang niệm “OM MANI PADME HUNG”. Rồi một con chim bồ câu đậu trên mái nhà và hỏi ông, “Tội nghiệp, Ngài đã trải qua một thời gian dài khó khăn phải không?” và một con chim én hỏi, “Con trai, con đã về đến hả?”

Changchub thấy một cái áo của mình ở gần xác con chó. Khi ông nghĩ đến việc lấy cái áo đi, bỗng nhiên thần thức của ông nhập vào xác con chó, kỳ thực đó chính là thân xác của ông. Ông muốn ngồi dậy nhưng không thể được. Thân xác của ông lạnh như một cục đá trong nước. Ông cảm thấy đau ở vùng ngực. Rồi ông thấy linh ảnh của Đức Quán Thế Âm an ủi mình, “Con đừng mất can đảm. Con đã được thân người quý báu. Con đã trở về am thất tu tập của mình rồi” Sau đó Changchub dần dần tỉnh lại.

Địa Ngục là Cõi Tịnh Độ Vô Thượng: Kinh nghiệm của Tsophu Dorlo

Lời kể delog này có một ý nghĩa sâu xa, lời văn rất hay theo nguyên gốc tiếng Tây Tạng.

Tsophu Dorlo cảm thấy mình trần truồng, nhưng ông vẫn có đủ mọi giác quan giống như còn sống. Ông bắt đầu cuộc hành trình của mình dọc theo con đường dài màu xám và hẹp trong cõi trung ấm. Ông đi nhanh với lực đẩy của gió nghiệp, và không thể tự ý dừng lại được. Bầu không khí âm u, không có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng, đầy dẫy những bão tố, lũ lụt, và bão tuyết, và những tiếng la hét như sấm, “Giết! Giết! Đánh! Đánh!”

Nhiều sinh linh từ cõi người đến đây đã bị sự sợ hãi, rối loạn và đói khát hành hạ. Trong số họ có một tu sĩ tên là Chotrag Zangpo mà Dorlo từng biết. Ông hỏi, “Thầy làm gì ở đây?” vị lạt ma đáp, “ Tôi đến đây để giải cứu một số người có nhân duyên với tôi.” Rồi Ngài đã giải thoát nhiều sinh linh với oai lực của Đức Phật Từ Bi Quán Thế Âm.

Dorlo cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi cho những bạn đồng hành đang đau khổ của mình. Lập tức, Đức Quán Thế Âm hiện ra trước ông với nét mặt hoan hỷ và nói, “Con phải quay lộn ngược bánh xe luân hồi. Con phải dẫn dắt các sinh linh của cõi trung ấm về  đến cõi tịnh độ.” Dorlo liền niệm “OM MANI PADME HUNG” rồi thuyết pháp cho các sinh linh và tụng kinh. Tức khắc ông thấy cõi trung ấm đã trống rỗng. Nhưng rồi trong một khoảnh khắc cõi trung ấm đã đầy trở lại với những sinh linh mới đến.

Sau đó Dorlo đi đến Cánh Đồng Xám của Người Chết, vốn là một cánh đồng cát nóng. Đây là cánh đồng của sáu điều bất định: các sinh linh ở đây không biết chắc mình đi đâu hay ở lại, trú ngụ ở đâu, làm gì, ăn gì, đi cùng với ai và họ không biết chắc cảm giác của mình, bởi vì mọi thứ luôn biến đổi.

Vì Dorlo không có kinh mạch ở thể xác vật chất, nên những tinh lực của Ngài lộ ra bên ngoài và Ngài không thể điều khiển được thần thức của mình. Vì vậy tâm của Ngài tán loạn như một con ngựa hoang. Vì không có mặt trời hay mặt trăng bên trong của tinh chất đỏ và trắng của cơ thể nên Ngài không cảm thấy có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng bên ngoài, và mọi thứ đều chìm trong bóng tối. Ánh sáng của năm gió từ thể xác Ngài phát ra giống như ánh bình minh. Những tia sáng không thể chịu nổi vẫn chớp lóe như thể những hành tinh và ngôi tinh tú đang rơi xuống đất. Trong bầu trời của bóng tối và ánh sáng như vậy, thói quen tinh thần của Ngài phóng ra những hình dạng ma quỷ đáng sợ và nguy hiểm.

Trong số những sinh linh ở đây, Dorlo trông thấy một vị lạt ma đang chịu đau khổ. Dorlo cầu nguyện và quay bánh xe cầu nguyện của Ngài, nhưng vì vị tu sĩ này không tin tưởng Ngài nên Ngài không thể giúp gì được. cho ông ta.

Rồi Dorlo đi đến Đèo Núi Cát ở giữa Cõi Người Chết và Cõi Người Sống, Ngài trông thấy hai con đường. Con đường màu đen dành cho những người đã tạo ác nghiệp lớn, những người ở trên đường này chỉ trượt xuống như những hòn đá rơi thẳng xuống nền sắt nóng cháy của địa ngục. Con đường màu trắng dành cho những người đã tích lũy công đức, họ đi trên con đường này đến Tòa của Pháp Vương để được phán xét. Từ đó họ có thể đến cõi tịnh độ qua con đường ánh sáng năm màu này.

Dorlo thấy người quen cũ của mình là  Zhagsar Trashi đang chịu khổ rất nhiều. Trashi xin Dorlo cầu nguyện cho mình, vì thế Dorlo tụng chú và quay bánh xe cầu nguyện. Trashi đã tạo nhiều ác nghiệp nhưng vì có niềm tin nơi Dorlo và có nhân duyên với nhau, nên ông ta được giải cứu khỏi nơi đó.

 
Rồi Dorlo đến Dòng Sông Nâu Lớn Không Thể Vượt Qua của Người Chết. Đây là một dòng sông lớn với nước đồng sôi chảy, nóng cháy với đủ loại sinh linh hạ liệt, và đây là hình ảnh phản chiếu của thói quen tạo nghiệp của mỗi người.

Trên con sông có Cầu Sắt Của Người Chết. Với những người tạo thiện nghiệp thì thấy chiếc cầu này rộng, dễ đi qua và không thấy có bất cứ thứ gì đe dọa ở dưới dòng sông. Nhưng với số lớn người đã tạo ác nghiệp lại thấy chiếc cầu quá hẹp có vẻ như nó chỉ được làm bằng vài cọng rơm. Họ bị những vị Thần Chết xua đuổi qua bên kia cầu, nhiều người rơi xuống sông và bị đốt cháy hoặc bị những thú dữ ở đó cắn. Dorlo tụng niệm và quay bánh xe cầu nguyện, nhờ thế mà ông đã giải thoát được nhiều sinh linh.

Sau đó Dorlo vào đến địa ngục. Đây là nơi có đất bằng nền sắt nóng cháy, với những tiếng kêu la vang dội giữa ngọn lửa bốc cao. Đây là một cảnh tượng không thể chịu nổi. Dorlo cũng quay bánh xe cầu nguyện và tụng niệm, rồi ông giảng giáo lý:

"Hãy biết rằng những sự cảm nhận của mình là huyễn ảo.
Địa ngục chính là Cõi  Tịnh Độ Vô Thượng.
Pháp Vương chính là pháp thân
Những Thần chết là các vị thần hiền hòa cũng như phẫn nộ
Nguyện cầu các vị đạt được chơn tánh".

Ông niệm ba lần “OM MANI PADME HUNG”, địa ngục bỗng tràn ngập ánh sáng cầu vồng. Tất cả các sinh linh cảm thấy an lạc và hoan hỷ.

 

Sau đó một trăm ngàn quân đao phủ đi theo các vị Thần Chết và Thần Bảo Hộ Trắng đến chào đón Dorlo với âm nhạc và lễ vật. Dorlo đi vào Tòa Phán Xét của Pháp Vương cùng với một trăm ngàn sinh linh. Pháp Vương nói “Các ngươi đến đây thật là kỳ diệu! Nếu nhận ra thì sẽ thấy Ta là Pháp thân, nếu không nhận ra được thì Ta là Pháp Vương của các Thần Chết, người phán xét ai đã tạo nghiệp tốt và ai đã tạo nghiệp xấu. Người nào có tính sân hận thì bị đày xuống địa ngục, người nào tham muốn nhiều thì sẽ đến cõi ngạ quỷ, người nào si mê nhiều sẽ xuống loài thú, người ganh tị nhiều sẽ đến cõi a tu la, người nào kiêu ngạo nhiều sẽ đến Thiên giới. Người nào tạo thiện nghiệp mà pha lẫn với năm cảm xúc phiền não này thì sẽ tái sanh trở lại cõi người. Người nào tạo nhiều công đức sẽ không phải chịu đau khổ trong cõi trung ấm hay trong địa ngục. Họ sẽ đi thẳng đến một cõi tịnh độ như Cõi Cực Lạc ngay sau khi qua đời, giống như một con đại bàng bay qua bầu trời.”

Rồi vị Pháp Vương ban lệnh cho các Thần Chết, “Ta thấy trên tấm bảng giờ chết đã đến với mấy trăm ngàn người. Vậy hãy xét xem họ đã tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp. Kiểm tra lại những hành vi của họ trong tấm gương phản chiếu tất cả. Tham khảo cuốn sổ ghi chép những chi tiết. Cân những nghiệp tốt và xấu trên cái cân công bằng. Hãy nghe tiếng trống chiến thắng và đừng phạm phải bất cứ sai lầm nào cả".

Quân đao phủ thỉnh cầu vị Pháp Vương xét xử vì những chi tiết về nghiệp báo của những sinh linh này khó quyết định. Lúc đó, Pháp Vương liền ra lệnh cho vị Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen trình bày cẩn thận trường hợp của mỗi sinh linh.

Thần Bảo Hộ Trắng biện hộ cho những người đi theo Dorlo. Vị này gom lại một núi sỏi tượng trưng cho nghiệp tốt mà mỗi người đã tạo. Quỷ Đen tranh luận chống lại những người đó và trình ra một núi sỏi đen tượng trưng cho những ác nghiệp của họ. Dựa theo những bằng chứng này, Pháp Vương cho những người tạo thiện nghiệp thác sinh về tịnh độ hoặc trở lại cõi người, và những người tạo bất thiện nghiệp bị đày xuống những cõi thấp.

Sau đó Pháp Vương bảo Thần Awa Đầu-Bò đưa Dorlo đi thăm những địa ngục nóng và lạnh. Dorlo đi qua tất cả tám địa ngục nóng. Ở nhiều chỗ, Ngài cầu nguyện Đức Phật Từ Bi, niệm OM MANI PADME HUNG, và nhập định trao đổi niềm an lạc của mình để nhận lấy sự khổ đau của người khác, và như vậy Ngài đã giải thoát cho nhiều người. Dorlo đã gặp nhiều sinh linh mà Ngài đã quen biết cũng như chưa quen biết, nhờ Ngài chuyển lời nhắn của họ cho gia đình để xin những người thân này làm lễ cúng và hồi hướng công đức cho họ.

Nhiều vị Phật và nhiều vị Thầy cũng đến thăm địa ngục để giải thoát các tội đồ bằng cách thuyết pháp và gia hộ.

Sau đó Dorlo trở lại chỗ vị Pháp Vương và được lệnh trở về cõi người. Pháp Vương nói, “Xin kể lại những nổi khổ của địa ngục cho mọi người biết. Xin hãy tạo nhiều thiện nghiệp và từ bỏ ác nghiệp. Hãy thuyết pháp, ngươi sẽ làm nhiều lợi ích lớn cho mọi người. Trong kiếp kế tiếp, ngươi sẽ thác sinh về Tịnh độ và sẽ làm lợi ích cho nhiều người nữa”.

Bây giờ Dorlo cảm thấy mình đang trở về cõi người trên một con đường ánh sáng với âm nhạc và hương thơm tỏa khắp nơi vốn là quà tiễn biệt của Thần Bảo Hộ Trắng.

Trong một lúc Dorlo bị bất tỉnh. Rồi ông nhìn thấy Đức Liên Hoa Sanh làm phép gia trì lực trường thọ cho mình và trao truyền những tiên tri khuyến giáo. Sau cùng Dorlo tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong thể xác của mình giữa những người ở xung quanh.

Sắc tướng bất khả phân với trí tuệ: kinh nghiệm của Dawa Drolma

 

Dawa Drolma đã đến một số cõi tịnh độ và địa ngục. Ở đây tôi chú trọng nhiều hơn về những kinh nghiệm của bà trong cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh, vì địa ngục đã được mô tả nhiều trong truyện của các delog khác rồi.

Cõi Tịnh Độ biểu lộ của Đức Liên Hoa Sanh 

Dawa Drolma thấy mình di chuyển qua bầu trời giống như một con kên kên. Bà thấy mình đang ở cõi tịnh độ biểu lộ của Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche), vị Phật trong sắc tướng một vị Thầy thành tựu. Có một cánh đồng rộng bát ngát. Bà thấy ở giữa cánh đồng là một quả núi lớn bằng đá đỏ có hình dạng trái tim. Quả núi đó được bao quanh bởi những rặng núi sắc nhọn như lưỡi kiếm, tất cả đều tỏa ra màu đỏ nhạt. Bầu trời được trang trí bằng một mái vòm ánh sáng năm màu. Đủ loại chim đẹp đẽ đang hót và bay lượn vui đùa. Khắp nơi mặt đất bao phủ đủ loại bông hoa nhiều màu sắc. Bầu không khí tràn đầy hương thơm kỳ diệu làm cho mọi giác quan của bà ngây ngất. Cũng có một quả núi màu xanh lam ngọc. Những cảnh đẹp này không phải là những sắc tướng mơ hồ, mà là những hình ảnh sinh động với sự hiện diện thực sự.

Nữ Thần Tara Trắng là vị Thần Bảo Hộ của Dawa Drolma. Dawa Drolma cầu nguyện đến Đức Liên Hoa Sanh bằng cách tụng Bài Nguyện Bảy Dòng Kim Cương và nhập định Đạo Sư Quán (Vajra Seven Line Prayer and Meditated on Guru Yoga).

Bà cúi đầu đảnh lễ và cúng dường mandala cho cõi tịnh này. Bà thấy ở giữa quả núi là cung điện bất khả tư nghì của Đức Liên Hoa Sanh được gọi là Liên Hoa Quang (Lotus of Light). Cung điện này là trí tuệ giác ngộ của Đức Liên Hoa Sanh, xuất hiện tự nhiên trong hình dạng một lâu đài tỏa hào quang. Lâu đài thật lớn và được làm bằng năm loại bảo vật với đủ loại kiến trúc và vật trang trí. Mỗi chi tiết cấu trúc đều nói lên trí tuệ và phẩm tính đặc biệt của Phật quả. Cõi tịnh độ này là nơi lưu trú của nhiều vị Thầy giác ngộ, các vị Thần nam nữ daka và dakini.

Ở hướng Đông của cung điện, bốn dakini giúp Dawa Drolma mặc một bộ áo có nhiều màu sắc và tỏa ánh sáng giống như cầu vồng. Sau khi đi vào cổng cung điện pha lê tuyệt đẹp, bà đi lên một cầu thang dài, rồi ở trong một đại sảnh, bà cùng với các vị lạt ma và dakini làm một lễ cúng dường lớn, bà tụng bài kinh tịnh hóa cùng với các vị này. Kế đó một dakini mặt xanh đưa bà đến một tòa lâu đài rộng lớn, vốn là cung điện chính trong số nhiều cung điện ở đây, nơi bà tham dự một lễ tịnh hóa bằng việc cùng tắm với nhiều người khác.

Dawa Drolma được hướng dẫn đi thăm nhiều chỗ trong cung điện kỳ diệu này và cũng đi thăm những cung điện khác trong khu vực. Ở những nơi khác nhau này bà được tiếp đón và gia hộ bởi các vị Thầy trong hình dạng Chư thiên tỏa hào quang và năng lực tâm linh lớn. Một số các vị này từng là Thầy của bà đã viên tịch. còn các vị khác là những vị Thầy trong quá khứ, như Đức Yeshe Tsogyal, công chúa Mandarava, Legyi Wangmp-che, Khyentse Wangpo, và nhiều Thiên nữ dakini. Bà đảnh lễ tôn kính đến các Ngài và cầu nguyện một cách thành tâm.

Dưới Chân Đức Liên Hoa Sanh 

Cùng với Nữ Thần Tara Trắng, Dawa Drolma vào thăm cung điện khác đẹp lộng lẫy, được tôn tạo bằng pha lê đỏ. Đây là một cung điện khổng lồ không thể đo lường được với những đồ vật trang trí phong phú và chứa đầy của cải bất tận và những món đồ cúng kỳ diệu.


Đức Liên Hoa Sanh 

Cuối cùng, ở giữa một đại sảnh, Dawa Drolma thấy một cái ngai lớn mà bà cho là cao hơn một tòa nhà ba tầng, tỏa hào quang ra khắp nơi. Trên cái ngai bà thấy sự hiện diện kỳ diệu của Đức Liên Hoa Sanh, (Padmasambhava), hiện thân của trí tuệ, từ bi và oai lực của tất cả các đấng giác ngộ. Xung quanh cái ngai là vô số các dakini và các vị Thầy trong những hình dạng khác nhau, với  sắc diện, trang phục, tư thế và cử chỉ khác nhau, và được vây quanh bởi những điệu nhạc khác nhau. Khi nhìn thấy Đức Liên Hoa Sanh, tất cả mọi ý nghĩ của bà tự nhiên chấm dứt. Bà đạt được sự hợp nhất vững chắc với một trạng thái không thể xóa nhòa, không thể nghĩ tưởng, và không thể mô tả được. Bà an trụ trong trạng thái này được một lúc, vừa hỷ lạc vừa cô đơn.

Sau đó Dawa Drolma đến gần ngai hơn và đặt trán của mình lên chân Đức Liên Hoa Sanh. Đại Sư gia hộ cho bà bằng cách đặt tay lên đầu bà và tụng Bài Nguyện Bảy Câu Kim Cương.

Trong cuộc viếng thăm cõi tịnh độ này, nhiều vị Thầy gia hộ và giảng giáo lý cho Dawa Drolma. Bà cũng gặp Ngài Dechen Dorje, một vị lạt ma cao cấp cũng là bác ruột của bà đã viên tịch. Ngài đã thác sanh về cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh. Ngài truyền dạy giáo lý, gia hộ, ban lời tiên tri cho bà và khuyến giáo bà trở về cõi người.

Sau đó bà Dawa Drolma được đưa đến một căn phòng đẹp đẽ có một cái giường, mấy cái gối và một người hầu. Bà nằm ngủ một lát, và sau khi thức dậy, bà lại đi gặp Đức Liên Hoa Sanh và tụng Bài Nguyện Bảy Câu Kim Cương, Đức Liên Hoa Sanh gia hộ và gia trì lực cho bà. Với lòng đại từ bi, Ngài nói, “nay đã biết về những đau khổ của sáu cõi luân hồi, con phải trở về cõi người. Kể cho mọi người biết về những gì con đã trông thấy và khuyến khích họ đi theo con đường đạo đức.”

Dawa Drolma rời khỏi cung điện của Đức Liên Hoa Sanh với tấm lòng thành kính tri ân với hai dòng lệ rơi. Trên đường đi ra, ở ngoài cung điện và cổng khác nhau, bà bái biệt các vị Thầy và các vị dakini và nhận sự gia hộ của các Ngài.

Những lời minh triết dành cho loài người

Nữ Thần Tara Trắng đưa Dawa Drolma đến những địa ngục. Dawa Drolma đã trải qua những kinh nghiệm trong cõi trung ấm. Bà trông thấy Pháp Vương trong sắc tướng phẫn nộ và khủng khiếp tại Tòa Phán Xét. Trong cuộc viếng thăm địa ngục, bà giúp đỡ nhiều tội đồ bằng cách giảng giáo lý, cầu nguyện, và trì Thần chú của Liên Hoa Sanh: OM AH HUNG BENZA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Bà cũng trông thấy những nghiệp quả và những đau khổ của địa ngục bằng chính  mắt của mình, vì vậy bà có thể giảng dạy giáo lý hiệu quả hơn khi trở về cõi người. Bà cũng đem về nhiều lời nhắn của người chết cho thân nhân đang sống ở thế gian

Sau đó, Nữ Thần Tara Trắng đưa Dawa Drolma đến thăm cung điện Potala, cõi tịnh độ của Bồ Tát Quán Thế Âm và Ngài Yulo Kopa, cõi tịnh độ của Ngài Tara, trước khi trở về thế gian.

Trong lúc Dawa Drolma thăm cõi tịnh độ của Tara, bà bỗng cảm thấy Dharmapala Tseringma đang gọi mình ba lần, “Dawa Drolma! Hãy trở về cõi người!”. Bà nghĩ, “Bác Rinpoche, Cha Mẹ, và tất cả những người thân của mình đang ở thung lũng Throm. Mình phải trở về!”. Rồi cùng với Đức Tara Trắng, bà trở về trong khoảnh khắc.

Ở nhà, Thầy của Dawa Dorlma là Ngài Tromge Trung mở cửa phòng, nơi an trí thi hài của bà và làm lễ cầu an trường thọ cho bà. Không bao lâu, thần thức của Dawa Drolma đã tái nhập thể xác. Bà mô tả sự kiện này như sau:

Bà cảm thấy thân thể tê liệt và không có sự trong sáng trong những giác quan của mình. Bà thể nhập vào niềm tôn kính những đấng giác ngộ, hoan hỷ nhớ lại các cõi tịnh độ, và cảm thấy buồn về những nổi khổ của địa ngục. Từ tâm trạng pha trộn như vậy, bà lấy lại ý thức trọn vẹn của mình, giống như dần dần thức dậy sau một giấc ngủ say. Bác Trungpa của bà đang đứng ở trước mặt, đang cầm một mũi tên của lễ cầu an trường thọ và nhìn bà với vẻ quan tâm trong đôi mắt đỏ ngầu. Bà cảm thấy hơi bối rối, không dám nói một lời nào. Các vị lạt ma làm lễ tịnh hóa. Các bạn của bà khóc và hỏi, “Bà có mệt lắm không?”Bà có đói bụng không?”Bà có khát nước không?” Bà không thấy đói hay khát gì cả, nhưng họ không tin như vậy. Sau cùng, tất cả mọi người đều được mời ăn cỗ cúng.

Dawa Drolma có những lời hướng dẫn về việc tránh bị đày đọa vào địa ngục, và bảo đảm tái sanh về tịnh độ. Sau đây là tóm lược những lời khuyên của bà cho mọi người ở thế gian:

- Thanh lọc những ác nghiệp của mình đã tạo bằng thiền quán. Không tiếp tục tạo bất thiện nghiệp nữa.
- Tạo công đức, chép hoặc ấn tống kinh điển, tụng kinh, thờ Phật và lễ Phật
- Lễ các vị Thần khác nhau và thọ trì Thần chú của các vị
- Làm cỗ cúng để cúng dường
- Cứu giúp người khác khỏi tai họa, và phóng sanh (chuộc mạng sống những con thú sẽ bị làm thịt)
- Treo cờ cầu nguyện lên, khắc Thần chú trên đá, quay bánh xe cầu nguyện, và làm phép tuyệt thực. Phát tâm tôn kính Phật và Giáo Pháp của Ngài.
- Phát tâm từ bi đối với hết thảy chúng sanh.
- Đặc biệt là thực hành và hoàn thiện ba nhận thức thanh tịnh: thấy mọi vật đều là cõi tịnh độ, nghe mọi âm thanh đều là âm thanh thiêng liêng, và kinh nghiệm mọi cảm giác (những kinh nghiệm thể xác, tâm thức và cảm xúc) như trí tuệ Phật, an lạc và toàn giác.
- Sau cùng, hãy hồi hướng công đức của mình cho những người đặc biệt nào đó hay cho tất cả chúng sanh.

Dawa Drolma sống phần đời còn lại của mình với công việc giảng dạy giáo lý dựa trên kinh nghiệm delog và cống hiến trọn vẹn đời sống của mình cho việc phụng sự tha nhân. Bà thường khuyên những ai hay than thở đời sống này quá nhọc nhằn rằng: “Dù đời sống ở thế gian khó khăn đến đâu cũng không thể nào so sánh với những khổ đau ở địa ngục.”

Trong chuyến hành hương đến miền Trung Tây Tạng, bà Dawa Drolma thọ thai và sinh hạ người con trai đầu lòng của mình, đó là Đại Sư Chagdud Rinpoche, người sau này sống lưu vong ở Ấn Độ và sau đó sang định cư ở phương Tây. Ngài truyền bá và xây dựng một số trung tâm Phật Giáo tại Hoa Kỳ và Brazil. Sau đó bà Dawa Drolma có một con gái là Thrinle Wang. Năm 1941,  ở tuổi ba mươi hai, bà đã qua đời không lâu sau khi sinh một người con trai khác, và người con này cũng chết. Người ta đã chứng kiến nhiều điều kỳ diệu vào lúc bà qua đời và lúc hỏa thiêu. Dawa Drolma và truyện delog của bà đã gây cảm hứng cho nhiều người ở khắp miền Đông Tây Tạng tin vào luật nhân quả, nghiệp báo và luân hồi tái sanh. Do đó mọi người có lối sống đạo đức hơn và có lòng từ bi hơn đối với hết thảy chúng sanh.


Đại Sư Chagdud Rinpoche, con trai của bà Dawa Drolma

Để cho mọi người được giải thoát: Kinh nghiệm của Shugseb Jetsun Lochen
Shugseb Jetsun Lochen mô tả rất hay về chuyến viếng thăm của bà đến cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh và bà được dạy rằng địa ngục chỉ là sự cảm nhận giả tập của tâm thức

 Du hành với Thiên nữ Dakini một mắt

Thần thức của Jetsun đã rời khỏi thể xác. Bỗng vị Thiên nữ dakini rất hấp dẫn, có nước da màu lục ngọc, lông mày đẹp, mái tóc buông lơi, xuất hiện trong linh thị của bà. Vị Thiên nữ dakini này chỉ có một mắt ở giữa trán. Vị Thiên nữ hỏi Jetsun, “Con có muốn đến Núi Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ Đức Liên Hoa Sanh hay không?” Jetsun đáp, “con rất muốn” .

Nắm lấy tay Thiên nữ dakini, Jetsun bay lướt trên không qua nhiều vùng đất khác nhau. Họ vượt qua một cánh đồng lớn và qua một con sông rộng lớn. Rồi họ đến một nơi có nhiều cây cao như thể đụng đến cõi trời. Sau cùng, họ lên đến đỉnh một đèo cao. Tất cả những nơi họ đi qua là những giới hạn của cõi trung ấm. Thiên nữ dakini nói, “xem kìa!”

Ở đằng xa, Jetsun trông thấy một lục địa to lớn, có màu hơi đỏ và đẹp lạ thường. Khắp người bà tràn ngập một cảm giác kỳ diệu về sức mạnh và hơi nóng. Thiên nữ dakini nói:

Hỡi người con gái may mắn, hãy xem ở đằng kia.
Vùng đất đó là lục địa Ngayab vô thượng
Đó là xứ được Chư Phật trong ba đời gia hộ
Ngày xưa, đó là nơi trái tim của một con người xấu (ngã chấp) đã được nhiếp phục.
Bởi oai lực gia hộ của Nữ Thần Vajravarahi,
Giáo lý bí mật kỳ diệu đang thịnh hành ở nơi đó.
Dù chỉ trông thấy, nghe thấy hay suy nghĩ đến nơi đó
Người ta cũng đạt được giác ngộ.
Vì vậy, nếu con thật sự đến đó, thì không cần phải nói gì cả.
Dù con chỉ nhìn nơi đó với đôi mắt tôn kính
Con sẽ đạt được chứng nghiệm về cõi tịnh
Vậy hãy đảnh lễ nơi đó với lòng chí thành".

Jetsun phát tâm tôn kính và đảnh lễ Núi Quang Vinh nhiều lần. Ở đó bà trông thấy một cung điện khổng lồ có hình dạng một đồ hình mandala được làm bằng ngọc quý sáng chói. Cung điện này lớn và cao đến mức dường như đụng đến cõi trời. Bà thấy xung quanh cung điện có vô số các vị daka, và dakini đang hoan hỷ cúng dường những lễ vật. Cung điện này cũng được vây quanh với những khu vườn lớn có đủ loài cây như ý và bông hoa nhiều màu sắc và những hồ nước tuyệt đẹp.

Phần trên đỉnh của cung điện là cõi tịnh độ của pháp thân, tức là trạng thái chơn không. Phần giữa là tịnh độ của báo thân, tức là xứ thịnh vượng vĩnh cửu. Phần dưới của cung điện là cõi tịnh độ của hóa thân, tức là cõi tịnh độ hiển lộ mà những người thành tâm có thể thưởng thức được. Chỉ do nhìn thấy cung điện này mà Jetsun đã chứng nghiệm được trạng thái tâm giác ngộ tự nhiên của bà.

 Vào Núi Quang Vinh

Lúc đó, thiên nữ vị dakini nói, “Bây giờ chúng ta đi đến đó.” Trên đường đi đến Núi Quang Vinh, Jetsun cảm thấy sự hiện diện của một đám đông người đang quan sát họ. Trong khoảnh khắc, họ đi đến một cánh cổng hùng vĩ được làm bằng những vật liệu quý, Thiên nữ dakini gõ vào cánh cổng, một người đàn bà với sắc diện đỏ và cử chỉ mạnh mẽ đi ra và hỏi, “các vị là ai?” Vị dakini trả lời:
Người nữ này đến từ Tây Tạng, xứ sở của Giáo Pháp.
Bà là một biểu hiện tâm thức của Dakini Hào Quang Xanh
Bà đến đây để gặp Đại Sư, hiện thân của tất cả các bậc trí giả
Nhưng bà bị tối tăm vì những bất thiện nghiệp ở quá khứ
Xin hướng dẫn để bà không gặp những chướng ngại nào trên đường đi".

Người đàn bà mặt đỏ nói với Jetsun:

"Ta chỉ là một dakini làm cỗ cúng
Nếu không xin phép các vị ở trong kia
Mà lại đưa con vào ngay là không được
Vậy con hãy chờ ở đây một lát".

Người đàn bà kia lại quay vào bên trong, và Thiên nữ dakini đi theo sau. Không bao lâu sau, năm thiếu nữ rất xinh đẹp tay cầm bình nước đi ra. Các vị tắm cho Jetsun với cam lồ tịnh thủy, rồi họ đưa bà vào cổng bên trong. Tức khắc thân thể của bà tràn ngập cảm giác hỷ lạc.

Ở cái cổng được trang trí công phu của cung điện, một Thiên nữ dakini cao quý và xinh đẹp với một chút nét phẫn nộ đến đón bà Jetsun. Tức khắc tâm của Jetsun nhập vào trạng thái thiền định. Bà đã chứng nghiệm trạng thái thiền ở cấp độ Bồ tát thứ mười. Jetsun cầu nguyện bảy lần với vị dakini. Vị dakini này dẫn bà Jetsun đi lên mười sáu bậc thang bằng pha lê. Nơi đó, Jetsun thấy mình đang ở bên trong cung điện. Đây là một nơi rộng lớn vô cùng, và từ đây người ta có thể thấy tất cả mọi hiện tượng, không có sự mê lầm hay chướng ngại nào.

Ở trước mặt của Jetsun có một bức màn lụa trắng thêu chỉ vàng. Khi bức màn mở ra, bà thấy Đức Liên Hoa Sanh ngồi trong tư thế vương giả trên một tấm nệm hoa sen đặt trên một ngai quý báu. Ngài có sắc diện trắng hơi đỏ, và  toát ra năng lượng bình an rộng lớn, chơn không và năng lực phẫn nộ. Ngài đội mão hoa sen có hình mặt trời, mặt trăng, và lông đại bàng. Ngài mặc ba áo Giáo Pháp với một áo gấm ở bên ngoài. Tay phải Ngài cầm một chày kim cương và tay trái cầm một chén sọ người, bên trong là bình cam lồ trường sanh. Hào quang của Ngài tỏa chiếu rực rỡ hơn trăm ngàn mặt trời. Bà cảm thấy mình không thể có đủ sức để ngắm nhìn Ngài cho thỏa lòng tôn kính.
Jetsun thấy xung quanh Đức Liên Hoa Sanh là tất cả các vị Thầy vĩ đại của quá khứ ở Tây Tạng và Ấn Độ.

Với ánh mắt từ bi, Đức Liên Hoa Sanh nhìn Jetsun. Mỗi sợi lông trên thân thể bà đều dựng đứng. Bà vui sướng xúc động đến nỗi khuôn mặt bà đẫm lệ với lòng tôn kính không thể đè nén được. Bà đảnh lễ trước Đức Liên Hoa Sanh nhiều lần và cầu nguyện cho hết thảy chúng sanh. Đức Liên Hoa Sanh ban nhiều lời tiên tri và giảng giáo lý sau đây cho bà:

Hỡi  Dakini Hào Quang Xanh, hãy nghe Ta nói
Đây là xứ vô thượng, Núi Màu Đồng Quang Vinh.
Trừ những người nam, nữ có thiện nghiệp
Người thường không thể thọ hưởng được
Đây là cõi tịnh độ vô thượng .Ta, Đại Sư Liên Hoa Sanh
Giữa những vị thành tựu và các vị Thầy ở đây,
Không có ai mà không đạt những cấp thành tựu cao
Ai trông thấy cõi tịnh độ này
Sẽ không bao giờ lạc khỏi con đường giác ngộ.
Vậy hãy phát tâm thành kính và cảm thấy an lạc.
Giờ đây, không chậm trễ, con phải trở về Tây Tạng.
Hãy là người hướng dẫn giảng dạy về luật nghiệp báo
Hãy là bậc Thầy trình bày về giáo lý Đại Thừa.
Hãy là viên ngọc trên vương miện của tất cả dakini.
Hãy là tinh túy của trái tim, người duy trì giáo lý của Ta.
Phục hồi những truyền thống của Thầy tổ.
Người nào trông thấy mặt con hay nghe lời nói của con
Sẽ đạt đến giác ngộ. Đây là những lời của Liên Hoa Sanh.
Hỡi  những trí giả đang tụ tập ở đây,
Xin hãy gia hộ với tâm của các vị cho đệ tử này".

Sự gia hộ của Đại Sư

Ngay lúc đó, những luồng ánh sáng nhiều màu, trắng, đỏ, vàng, và xanh phóng ra từ ngực tất cả những vị thánh tề tựu nơi đó và hòa nhập vào ngực của Đức Liên Hoa Sanh. Với sự dẫn đầu của Đức Liên Hoa Sanh, tất cả các thánh giả đều trì niệm Thần Chú Kim Cương Sư ( Mantra Guru Vajra): OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Âm thanh đó tràn ngập và vang vọng trong không gian. Sau đó, đặt tay lên đầu của Jetsun, Đức Liên Hoa Sanh nói:

"Nguyện cho thân, miệng và ý của con.
Được gia hộ với thân, ngữ, và ý của Ta!".

Tức khắc, Jetsun cảm thấy một cảm giác kỳ diệu khắp toàn thân, và bắt đầu rung chuyển. Bà cất lời tán thán đến Đức Liên Hoa Sanh với giai điệu ngọt ngào và phát nguyện mang an lạc và hạnh phúc đến cho tất cả chúng sanh. Rồi với tấm lòng nặng trĩu lúc giả biệt, bà nói:

“Bạch Đức Đại Sư sanh ra từ biển
Hiện thân của tất cả chư Phật;
Các bậc trí giả của Ấn Độ và Tây Tạng,
Đang giảng giáo lý của chín thừa (ba thừa kinh điển, ba thừa mật điển ngoại, ba thừa mật điển nội)


Biển lớn các dakini, các bà Mẹ,
Đang thọ hưởng vinh quang và hỷ lạc
Trong Cung Điện Núi Màu Đồng Vinh Quang
Nơi các vị thành tựu đang tụ hội!

Con là một kẻ hành khất tên là Lochen
Cô độc lang thang đến đây từ xứ Tây Tạng đau khổ.
Than ôi, đây chắc là nghiệp quả xấu của con từ quá khứ 
Để con phải trở về Tây Tạng.
Hỡi các bậc thánh đang tụ hội ở đây!
Các Ngài có thấy nổi đau của con chăng ?
Mọi đau khổ của chúng sanh trong sáu cõi luân hồi và tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới)
Xin hãy đổ lên con, để chịu thay thế cho họ
"

Đến đây, Thiên nữ dakini đã gặp Jetsun ở cửa cổng, Thiên nữ ban phước cho Jetsun với mũi tên trường thọ và nói:

"Hỡi người con gái may mắn, hãy nghe ta nói:
Ta là Dakini Hào Quang Xanh.
Con và ta là bất khả phân,
Giống như mặt trăng và bóng trăng trong nước.
Xin đừng buồn vì trở về,
Nhờ ơn gia hộ của Đức Liên Hoa Sanh,
Con sẽ làm lợi ích cho vô số sinh linh".

Jetsun đặt đầu mình vào chân Đức Liên Hoa Sanh, Jetsun đã được Ngài ban cho bốn gia trì lực. Bà cũng được các bậc trí giả thành tựu khác gia hộ. Vị Dakini Hào Quang Xanh đưa bà ra cổng, gia hộ và ban những lời tiên tri. Ở đó, một lần nữa, vị Thiên nữ dakini một mắt xuất hiện và đưa Jetsun trở về.

Lòng từ bi trong những cõi đau khổ

Trong khoảnh khắc Jetsun đã đến Thiên giới. Ở đây những người nam và nữ  đang giải trí bằng âm nhạc, nhảy múa, và thọ hưởng những thú vui nhục dục khác. Các chúng sanh trong cõi bán thiên A Tu La thì bị đau khổ vì hành hạ lẫn nhau. Sinh linh trong cõi bàng sanh đau khổ vì bị bắt làm nô lệ và ăn thịt lẫn nhau. Những sinh linh trong cõi ngạ quỷ bị hành hạ trong trạng thái đói và khát trầm trọng.

Sau đó Jetsun lại vượt qua một cánh đồng rộng lớn và đi lên một đèo núi cao. Trên đỉnh đèo bà thấy địa ngục đau đớn hãi hùng và lòng bà trĩu nặng với đầy nổi xót thương. Bà nghĩ, “Mình nên đi đến thỉnh cầu Đức Pháp Vương thả những tội đồ đang đau khổ này ra.” Những sinh linh ở địa ngục bị hành hạ bằng những đòn tra tấn bất tận. Họ bị thiêu đốt trên những cánh đồng sắt nóng đỏ bốc lửa. Họ bị cắt ra thành từng miếng, bị nghiền nát thành bụi, bị nướng trong phòng giam nóng cháy, bị đâm bằng những khí cụ nóng cháy và bị rót nước đồng sôi vào cổ họng. Vì đây là quả báo mà họ phải chịu, nên họ không bao giờ chết ở địa ngục mà sẽ ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần cho đến khi sự chịu tội ở địa ngục của họ chấm dứt.

Với khuôn mặt đẫm nước mắt, tâm trạng u buồn, và lòng bi mẫn, Jetsun cầu nguyện. Tức khắc, một dakini với Đức Phật Từ Bi xuất hiện và giảng giáo lý cho bà. Jetsun cũng thành tâm cầu nguyện, và bà cảm thấy mức độ đau khổ của các sinh linh đó đã giảm bớt. Tất cả các tội đồ của địa ngục nhìn thấy Jetsun, và một số họ còn có thể quy y Tam Bảo. Jetsun cất lời ca ngợi giáo lý sau đây cho họ nghe:

"Nếu muốn giải thoát khỏi những đau khổ này,
Hãy xem vị Thầy mà mình tin tưởng,
Là hiện thân của tất cả ba đối tượng quy y tối thượng: Phật, Pháp, và Tăng.
Cầu nguyện vị Thầy với lòng tôn kính vô biên.
Sám hối những nghiệp chướng mà mình đã tạo trong quá khứ.
Hãy hứa không tạo ác nghiệp như vậy nữa.
Phát nguyện nhận vào mình những đau khổ của người khác.
Hãy xem quân đao phủ địa ngục như Đức Phật Từ Bi.
Quán tưởng địa ngục là cõi tịnh độ của Phật Từ Bi
Hãy nghe những âm thanh đánh và giết như tiếng niệm OM MANI PADME HUNG.
Bản chất thật của đau thương là rỗng không
Năng lực tự nhiên của tâm thức là sự hiện diện một cách tự nhiên và bất tận.
Mọi sắc tướng phát sanh từ oai lực của chơn không và được giải thoát vào chơn không.
Sự phát sinh và sự giải thoát của chúng không liên tiếp nhau mà là cùng lúc.

OM: quán tưởng thân thể của mình là thân quang minh chơn không của Phật Từ Bi.
MA: Trong thân đó quán tưởng kinh mạch trung ương với bốn phẩm tính,
NI: Trong thân đó tâm thức có hình dạng quả cầu ánh sáng năm màu.
PAD: Với năng lực của " hơi thở cái bình".
ME: Vào trong tim của Đức Phật Vô Lượng Quang,
HUNG: Hãy phóng quả cầu ánh sáng và hợp nhất
HRI: Bằng cách niệm PHAT năm lần.

Pháp này có oai lực giải thoát thần thức cho các sinh linh, kể cả những người đã tạo ác nghiệp.

Hôm nay ta làm pháp phowa cho những sinh linh ở địa ngục.
Do lòng từ bi của các vị lạt ma và các vị dakini,
Nguyện cầu cho tất cả các vị sớm giải thoát khỏi những cõi thấp và đắc Phật quả.”


Vào lúc này, nhiều sinh linh thoát ra khỏi địa ngục.

Năng lực giác tánh nội tại của riêng bà

Khi Jetsun cảm thấy muốn gặp vị Pháp Vương, tức khắc bà thấy một luồng ánh sáng phát ra từ đầu của mình. Ở đầu kia của luồng ánh sáng, bà trông thấy một pháo đài sắt to lớn, đáng sợ. Trong pháo đài, trên một ngai tạo bằng xác chết, mặt trời, mặt trăng, và hoa sen là vị Đại Pháp Vương. Ngài có hình dạng phẫn nộ, mặc trang phục phẫn nộ với sắc diện màu tím đen. Ngài ở giữa một cơn bão lửa và những dòng máu. Ngài cầm một tấm bảng và một tấm gương, và đang gầm với âm thanh phẫn nộ: A-RA-LI. Đứng xung quanh Ngài là các vị Thần Chết.

Ngay lúc đó, Jetsun cảm thấy rằng vị Thiên nữ dakini đi cùng với mình nhập vào tim của bà và Phật Từ Bi đã hòa nhập vào đầu bà.

Bà kính chào vị Pháp Vương và đoàn tùy tùng của Ngài. Sau đó bà cầu nguyện, và hình như tất cả các vị đều lập lại lời nguyện theo sau bà. Khi bà nhắm mắt trong sự tôn kính, dường như tất cả họ đều bắt chước làm theo bà. Đến lúc này bà chợt hiểu ra rằng mọi sắc tướng này chỉ là năng lực biểu lộ tánh giác nội tại của  riêng bà.
Vị Pháp Vương hỏi Jetsun, và các vị phụ tá của Ngài kiểm lại những hành vi quá khứ của bà trong tấm gương, trong sổ ghi chép và với cái cân. Khi thấy chỉ có những nghiệp tốt, các vị đã hướng dẫn bà đi vào con đường giải thoát.

Jetsun nói với họ, “Làm sao tôi có thể rời khỏi nơi này một mình, bỏ lại mọi sinh linh trong địa ngục này ? Xin hãy cho mọi người được giải thoát.”

Vị Pháp Vương đáp:

“Người không biết địa ngục chỉ là phản ánh của tâm tánh của con người hay sao ?
Ta không tạo ra nền sắt nóng cháy và những ngọn lửa địa ngục.
Chúng là những sản phẩm của tâm sân hận và tham dục
Mỗi đau khổ trong địa ngục
Được tạo ra bởi cảm xúc trói buộc của chính nó, thí dụ như cảm xúc sân hận.
Đối với tâm giác ngộ thì địa ngục là cõi Cực Lạc.
Chính chúng ta là những vị Phật hiền hòa và phẫn nộ.
Đau khổ chấm dứt là  "lúc giải thoát phát sanh”.
Khi trở về thế gian của người
Hãy chuyển thông điệp này cho mọi người: “Luật nhân quả không bao giờ sai lạc".
Ngươi, Jetsun, đã tận mắt chứng kiến.”

Jetsun quán tưởng chính mình là Đức Phật Từ Bi với một trăm vị Thần hiền hòa và phẫn nộ ở trong mình. Rồi bà niệm “OM MANI PADME HUNG “và an trụ trong trạng thái thiền chơn không. Kết quả là nhiều sinh linh đã được giải thoát khỏi địa ngục.

Không bao lâu sau đó Jetsun đã tái nhập về thể xác và hồi phục sức khỏe. Trước đó Mẹ và bạn bè của bà canh giữ cái xác của bà suốt ngày đêm. Đôi lúc họ cảm nhận mùi hương thơm, có khi là mùi của xác chết, có lúc mùi rất thơm, và đôi lúc mùi rất hôi. Những mùi này là tương ứng với thời gian và địa điểm mà Jetsun viếng thăm.

Không có gì để lấy hay bỏ: kinh nghiệm của Đại Sư Do Khyentse Yeshe Dorje

Do Khyentse (1800-1866), ra đời tại tỉnh Golok thuộc miền Đông Tây Tạng và là một trong những vị đại sư thành tựu, kỳ diệu và vĩ đại nhất của tông phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Những cuộc viếng thăm cõi tịnh độ của các vị Thầy thành tựu như Đại Sư Do Khyentse thường được các sách Phật giáo Tây Tạng xếp vào loại linh thị thanh tịnh hay các hành trạng giải thoát của quý Ngài, chứ không được xem là kinh nghiệm cận tử của một delog. Thêm nữa, Đại Sư Do Khyentse chỉ đề cập một cách không chi tiết về những chuyến du hành của Ngài đến các cõi thấp như địa ngục, vốn rất quan trọng cho những chuyện kể của delog để răn đe và gây cảm hứng cho mọi người. Vì vậy lời kể của Ngài về chuyến viếng thăm cõi tịnh độ không thực sự được xếp loại truyện delog.


Đại Sư Do Khyentse (1800-1866)

Tuy nhiên tôi vẫn cho vào cuốn sách này cuộc du hành đến cõi tịnh độ của Đại Sư Do Khyentse, vì chuyện kể của Ngài minh họa đề tài đi thăm những cõi khác sau khi rời khỏi thể xác, và chuyện này cũng kể chi tiết về cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh. 

Thời tuổi trẻ và như một ẩn sĩ, Đại Sư Do Khyentse đã vân du nhiều nơi ở xứ Amdo thuộc miền Đông Bắc Tây Tạng. Theo lời kể của vị Thầy chính của Ngài, Dodrupchen Rinpoche Đệ Nhất. Đại Sư Do Khyentse  bỗng ngã bệnh đậu mùa, mà vào thời đó là một căn bệnh chết người. Sau đó vài ngày Ngài ngừng thở và ở trong trạng thái chết lâm sàng trong mười lăm ngày. Vì Ngài đã biểu lộ quyền năng huyền bí dị thường từ thời thơ ấu nên các đệ tử không đụng chạm vào nhục thân của Ngài, với niềm hy vọng Ngài sẽ sống lại.

Thân huyễn ảo bị phá hủy

Đại Sư Do Khyentse thấy mình có một người đồng hành là em gái của mình, Dakini Losal Drolma (1802-1861), cũng là một hành giả thành tựu và hai người đàn bà khác và một hành giả. Họ cùng nhau đi đến nhiều nơi, từ cõi địa ngục cho đến các cõi trời. Riêng Đại Sư Do Khyentse thì cảm thấy mình có bạn đồng hành, nhưng các vị kia thì không có cùng cảm nhận như vậy. Thí dụ, lúc đó em gái Ngài đang theo học với đạo sư Dodrupchen.

Vượt qua nhiều lục địa, họ đến Núi Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh. Trên đường đi họ gặp nhiều người ở những nơi khác nhau. Ngài không hiểu ngôn ngữ của họ, Ngài vẫn có thể giao tiếp với họ qua năng lực tánh giác nội tại của mình.

Ở đầu một chiếc cầu khổng lồ, nhóm của Ngài được mười vị Thần phẫn nộ đón tiếp. Các vị này làm lễ giải trừ những dấu của bất thiện nghiệp. Những người du hành vẫn mang theo những dấu vết của nghiệp xấu từ thói quen trần tục của họ, dù họ là những vị Thầy thành tựu đã rời khỏi thể xác.

Sau khi đi qua cổng bên ngoài và cổng bên trong, họ được một đại thành tựu hành giả cầm một chiếc bình đầy cam lồ đón tiếp. Vị này tịnh hóa cho họ bằng cách tẩy rửa những ô nhiểm của họ với giòng cam lồ trong chiếc bình.

Sau đó họ đi vào một cung điện trưng bày của cải nhiều vô lượng. Ở đó họ trông thấy Đức Liên Hoa Sanh trong hình dạng phẫn nộ với oai lực lớn đến mức làm cho Đại Sư Do Khyentse bất tỉnh một lúc vì quá sợ hãi. Khi tỉnh lại Ngài thấy các vị thần thọ hưởng cỗ thịt của một xác chết. Ngài thấy xác chết đó là thể xác của chính mình.

Lúc đó, hai vị dakini phẫn nộ đi đến chỗ người em gái đang ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị này lột da cô ta và xếp thịt, xương, và nội tạng thành một đống để làm lễ vật. Một vị Thần  phẫn nộ xuất hiện từ trên không và gia hộ cho xác thân của cô. Sau đó các vị dakini dâng trái tim cô cho vị Thần đứng đầu. Các vị Thần khác ăn tất cả những phần thân thể đó của cô không để lại một thứ gì cả. Đại Sư Do Khyentse cảm thấy thương  xót và buồn khổ không thể chịu dựng nổi khi người em gái không còn nữa. Thông thường thì do thói quen chấp thủ, hay bám giữ, chúng ta mạnh mẽ chống lại sự ra đi hay mất đi thể xác vật chất của mình. Giải trừ được thói quen chấp thủ này là một kỳ công trong tu tập.

Tiếp nhận gia trì lực

Sau đó nhóm người đi lên một cầu thang lớn bằng pha lê. Đại Sư Do Khyentse thấy mọi người nổi bồng bềnh giống như những mảnh giấy trong làn gió, không còn thể xác nữa, vì những thể xác đó đã bị các vị Thần ăn hết trên đường. Họ đi vào một cung điện đẹp đẽ và vui mừng một cách đáng ngạc nhiên. Vẻ đẹp của kiểu kiến trúc, sự phong phú của những chi tiết, và những âm thanh hỷ lạc của Giáo Pháp giống hệt như đã được mô tả trong những lời cầu nguyện Màu Đồng Vinh Quang.

Ở giữa cung điện, Đức Liên Hoa Sanh ngồi trên một ngai quý báu, tỏa hào quang ra khắp nơi. Đất và trời tràn đầy những đấng giác ngộ trong hình dạng nam và nữ. Đại Sư Do Khyentse muốn tiếp nhận được sự gia hộ của Đức Liên Hoa Sanh bằng cách chạm vào Ngài, nhưng chợt nhận ra là mình không thể làm được, vì mình không còn thân vật chất nữa.

Rồi một dakini mặt trắng, tay cầm một sọ người đến gần chỗ của Đại Sư Do Khyentse và nói “Đức Liên Hoa Sanh là hiện thân của chư Phật trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ngài hiển lộ trong tất cả các cõi của vũ trụ, giống như một mặt trăng phản chiếu trong vô số chậu nước. Giống như bóng trong gương phản chiếu, ngươi cũng là biểu hiện của Đức Liên Hoa Sanh và được giao phó đến Tây Tạng để phụng sự loài người cũng như các loài phi nhân, và để khám phá và bảo tồn những giáo lý huyền bí ở đó. Vì ngươi trở nên vô minh do sự ô nhiễm từ trong bào thai của huyễn ảo nên thân xác của ngươi đã bị các vị thần ăn hết trong bữa tiệc đó. Bây giờ ngươi có thân ánh sáng với tinh túy của trí tuệ. Ngươi phải tiếp nhận bốn gia trì lực từ Đức Liên Hoa Sanh và gieo trồng hạt giống của bốn cấp của những bậc trí giả.”

Tất cả những người có mặt ở cung điện làm lễ trong bảy ngày. Đức Liên Hoa Sanh chủ tọa cuộc lễ như một vị Kim Cương Chủ. Vua Trisong Detsen làm phụ tá kim cương chủ, Guru Chowang làm trưởng ban tụng niệm, Nyinma Trakpa làm trưởng ban nghi lễ, Duddul Dorje và Karma Lingpa làm trưởng ban về giới luật, và Rigdzin Goddem làm trưởng ban gia hộ ban phước. Có vô số các bậc trí giả, daka, và dakini tham dự. Vào cuối cuộc lễ, Đại Sư Do Khyentse nhận được bốn gia trì lực, thanh lọc được những nhiễm ô thai bào của mình. Đại Sư Do Khyentse cũng được giao giữ một cái hộp nhỏ chứa đựng những văn bản giáo lý huyền bí cất giấu (terma). Sau cùng, Đức Liên Hoa Sanh ban những lời dạy sau đây:

“Khi con chứng ngộ sắc tướng là không,
Không cần lắm việc sống xa lánh mọi người.

Khi sự huyễn ảo của sắc tướng đã sụp đổ
Và chơn tánh đã được chứng ngộ 
Không phân biệt, dù chỉ một chút nhị nguyên
Hay chấp thủ dù những đức hạnh nhiễm ô 
An trụ trong trạng thái thanh tịnh nguyên thủy vững chắc.

Khi biết sắc tướng là mộng ảo
Hãy xem những đối tượng của giác quan chỉ là hư huyễn.
Trong luân hồi giả ảo, không có gì để lấy hay là bỏ.
Hãy làm những hoạt động cao cả của các bậc Bồ tát.

Hiểu rằng những nhận thức ban ngày là tánh quang minh của pháp thân.
Và những  nhận thức ban đêm là  năng lực của báo thân.
Hãy hợp nhất Mẹ và con, tức trí tuệ và chơn không.
Hãy tu tiến qua mười địa của Bồ tát và năm đạo (từ công đức đến Phật quả) với tốc độ của mặt trời và mặt trăng.

Khi con thành tựu đại lạc bất biến,
Con sẽ trong trạng thái nhất như với Ta.
Không di chuyển, không mô tả, và không biến đổi
Là những mô thức cuối cùng để đạt giải thoát – hãy nhận biết tất cả những điều này.”

Đức Liên Hoa Sanh cất tiếng cười ba lần, lớn đến nổi Đại Sư Do Khyentse cảm thấy toàn cả lục địa rung chuyển với tràng cười của Ngài. Sau khi được Đức Liên Hoa Sanh gia hộ và dạy giáo lý, Đại Sư Khyentse và các vị  đồng hành rời khỏi cung điện. Vị dakini mặt trắng đến một lần nữa và nói:

“Giống như mặt trời và những tia sáng,
Ông là sự biểu lộ và Đức Liên Hoa Sanh là nguồn của sự biểu lộ, là bất khả phân với nhau
Nhưng vì nhân duyên
Bây giờ xuất hiện như người trên kẻ dưới.
Trong tương lai, ông sẽ lại hợp nhất, như nước với nước.”

Rồi một vị Thần với đôi mắt mở rộng nói với Đại Sư Do Khyentse:

"Không bám giữ một nơi nào hay một đối tượng,
Hãy hoàn tất mọi việc đã giao phó cho ngươi
Sự bảo hộ của ta đối với  ngươi không thay đổi
Nguyện cho  ngươi sớm đắc Phật quả để nhiếp phục ba cõi".

Trở lại Thế Gian

Đại Sư Do Khyentse và những vị đồng hành đi ra khỏi cổng rồi họ du hành đến những cõi tịnh độ của Đức Phật Vô Lượng Quang, Bồ Tát Quán Thế Âm và Nữ Thần Tara. Cuối cùng, họ trở lại thế gian. Trước hết, khi thần thức vẫn ở bên ngoài thể xác, Đại Sư Do Khyentse đến chỗ vị Thầy của Ngài, Dodrupchen Rinpoche Đệ Nhất, ở Yarlung Pemako, một hẻm núi ở Thung lũng Ser. Ngài được Thầy dạy nhiều giáo lý và gia trì lực.

Rồi sau đó Ngài trở lại xác thân của mình. Ngài trông thấy một người đàn bà màu đỏ, vốn là người đang bảo vệ nhục thân của Ngài, xuất ra khỏi xác thân của Ngài và biến mất. Ngài cảm thấy mình chạm vào cái xác, và tức khắc Ngài ở trong thân vật chất của mình. Trong một lúc lâu, Ngài phải hết sức mới nhìn thấy, nói và cử động. Sau đó với một nỗ lực lớn, Ngài có thể vận động hai chân một chút, và các đệ tử đang chờ đợi đều chạy đến để giúp Ngài. Một y sĩ người Trung Hoa đưa thuốc cho Ngài và dần dần Ngài khỏi bệnh đậu mùa và phục hồi sức khỏe trong khoảng một tháng.

Theo những lời truyền khẩu thì Đại Sư Do Khyentse đã du hành đến nhiều cõi giới khác nhau. Có khi Ngài đi thăm các cõi tịnh độ để gặp các vị Phật và các vị Thầy. Có khi Ngài đến những xứ bí ẩn hay những cõi của những giống người khác nhau trên thế gian để giúp đỡ họ. Có khi Ngài du hành trong thể xác, bằng cách biến mất rồi lại xuất hiện, và vào những lúc khác Ngài rời khỏi thể xác, như đã mô tả ở phần trên.


Âm lịch

Ảnh đẹp