CHUYỆN KỂ VỀ CÕI TRUNG ẤM BARDO
Kinh nghiệm sau khi chết
của các vị Delog người Tây Tạng
Vì
phần lớn những lời kể của các vị delog là về
cõi trung ấm bardo, nên tôi dành trọn vẹn chương này cho những chuyện
được tuyển chọn của họ. Mục đích của chương này là trình bày những
nghiệp báo không thể tránh được mà mọi người sẽ phải đối diện. Tôi hy
vọng chương này sẽ giúp mọi người cư xử đúng cách và cải thiện tương lai
của mình.
Người ta thường hỏi tại
sao những delog chỉ nói về những lời cầu nguyện, pháp tu thiền quán, các
vị Thần, các vị Thầy tâm linh. Tôi nghĩ rằng điều này là một vấn đề.
Theo ý tôi thì những ý nghĩ, những cảm giác an lạc và sự biểu hiện của
họ trong những lời nói và hành động đều trở thành những nguồn tạo lợi
ích và giải thoát, dù chúng được trình bày qua Phật Giáo hay một tín
ngưỡng nào khác. Bất cứ ai đã đạt được trí tuệ an lạc vô thượng thì đều
có năng lực giải thoát cho người khác, dù vị ấy mang hình dạng thuộc
Phật Giáo hay không. Tuy nhiên, các delog Tây Tạng đã chứng kiến năng
lực của những vị Thần và giáo lý Phật Giáo vì chính họ là những tín đồ
Phật Giáo, thói quen tinh thần và nhân duyên của họ liên quan đến các vị
Thần và giáo lý của Phật Giáo. Như đã nói ở phần trước, người Phật tử
tin rằng mọi sắc tướng chúng ta và mọi kinh nghiệm mà chúng ta trải qua
chỉ là những hình ảnh phản chiếu của những thói quen tinh thần của chúng
ta. Vậy dù chúng ta có tin theo bất cứ tôn giáo nào, nếu có trí tuệ về
an lạc vô thượng, thì nó sẽ là nguồn lợi ích thực trong cuộc sống và
trong lúc chết. Chúng ta sẽ xem và thấy tín ngưỡng của mình là nguồn
giải thoát. Danh hiệu và hình tướng bên ngoài không thực sự là vấn đề,
vì chúng chỉ là những phương tiện để đạt đến cứu cánh. Chỉ có phẩm chất
bên trong mới là đáng kể.
Khi đọc những chuyện kể
này, nên nhớ rằng các nhân chứng khác nhau có kinh nghiệm về âm thanh,
hình ảnh và những hoạt động của cõi trung ấm một cách khác nhau, vì
những hiện tượng này là những ảo giác hay những phản chiếu tinh thần của
riêng họ. Ví dụ, một người có thể thấy vị Pháp Vương trong hình dạng
phẫn nộ, trong khi một người khác thấy các vị này trong hình dạng hiền
hòa. Một số có thể trông thấy vị Thần Mặt Khỉ (Monkey-Face One) đang ghi
chép, trong khi người khác thấy vị này đang xét những hành vi tốt và xấu
của một người được phản chiếu trong tấm gương ở Tòa Phán Xét. Dù có
những khác biệt giữa những cá nhân, nhưng điều đáng chú ý là vẫn có rất
nhiều điểm tương đồng trong những lời kể của các vị delog.
NHỚ LẠI TẤT CẢ NHỮNG GÌ MÌNH TRÔNG THẤY: KINH
NGHIỆM CỦA BÀ LINGZA CHOKYI
Mỗi câu chuyện của
delog đều có một loại trí tuệ hay minh triết khác nhau. Chuyện kể của bà
Lingza Chokyi có thể giống những kinh nghiệm mà phần lớn người bình
thường có thể có vào lúc chết và sau khi chết.
Bà Chokyi thấy chính bà
nhìn vào giường mình và trông thấy xác chết của một con rắn lớn mặc y
phục của bà, bốc mùi hôi thối kinh khiếp. Con rắn chết đang mục rữa là
thể xác của bà, nhưng bà không nhận ra nó. Người chết thường không nhận
biết xác chết của chính mình trong hình dạng thật, ngay cả khi họ nhìn
thấy nó.
Khi những người con của
bà Chokyi bắt đầu khóc, ôm và hôn con rắn, thì tất cả những nhận thức
của bà đột ngột biến đổi. Bà bắt đầu nghe thấy những âm thanh rền vang
như sấm sét cùng lúc. Bà trông thấy một cơn mưa máu và những cục mủ lớn
cở quả trứng rơi xuống mình. Bà không thể chịu đựng nổi! Nhưng ngay khi
các con của bà ngừng khóc, tiếng sấm sét và âm thanh của cơn mưa ngừng
lại tức khắc. Không gian trở nên yên tĩnh, và tất cả mọi sự đau đớn và
sợ hãi chấm dứt. Những nhận thức của bà đã trở lại bình thường trong một
lúc.
Người Phật tử Tây Tạng thường tin rằng sự khóc lóc
kể lể sẽ làm tổn hại cho người chết. Đó là lý do mà đại hành giả
Milarepa đã nói lên những ý nguyện sau đây:
"Không có ai hỏi về bệnh tật của tôi
Không có ai khóc cho tôi khi tôi chết
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy.
Thì ý nguyện của hành giả này sẽ trở thành sự thật.
Không có dấu chân của người thân ở cửa hang
Không có vết máu ở bên trong do tranh chấp quyền thừa kế
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy
Thì ý nguyện của hành giả này đã được thực hiện".
Chokyi nghe thấy em
trai của mình nói với những người thân trong gia đình: “than khóc
không ích lợi gì cả. Tốt hơn nên tổ chức tang lễ. Chúng ta phải cung
thỉnh một vị lạt ma để làm pháp chuyển di thần thức phowa, Chúng ta phải
thỉnh Đại Sư Thugje Rinpoche và hai mươi hoặc ba mươi vị Tăng sĩ để làm
lễ cầu siêu.” (Một tang lễ có thể kéo dài nhiều tuần hoặc suốt bốn
mươi chín ngày tùy theo khả năng của gia đình người quá cố). Chúng ta
cũng phải thỉnh Đại Sư Gomchen, một Lạt Ma Đại Hành Giả chủ trì cho lễ
tang, vì bà ấy tin tưởng nơi vị Tăng này ” .
Bà Chokyi có thể trông
thấy và nghe thấy gia đình đang sửa soạn tang lễ cho mình, nhưng bà lại
nghĩ rằng họ đang làm một buổi lễ gì đó khác.
Khi một vị Lạt ma bắt
đầu tụng kinh Kim Cương (Vajracchedika Sutra/ Diamond Sutra), bà Chokyi
chỉ nghe thôi cũng cảm thấy hoan hỷ. Buổi chiều hôm đó, Đại Sư Gomchen
và khoảng hai mươi vị Tăng đến nhà. Bà đảnh lễ đến Ngài Gomchen cùng
những vị khác và đến gần để nhận sự gia hộ từ các Ngài. Nhưng các vị này
không đáp ứng gì cả, bà nghĩ có lẽ họ giận mình chăng. Bà hỏi: “Nếu quý
Thầy giận con thì quý Ngài đến đây làm gì ?” Không ai trả lời gì cả. Bà
Chokyi không thể hiểu tại sao họ cũng không nhìn thấy mình.
Bà Chokyi thấy Đại Sư
Gomchen đặt tay lên đầu của “con rắn” và nói, “Chokyi, cái chết đã
đến với con. Đừng luyến ái đến con cái, tài sản, hay đồ ăn. Hãy hòa nhập
thần thức của con vào tâm thức của ta. Rồi chúng ta sẽ cùng lên đường về
cõi Cực Lạc của Phật Vô Lượng Quang. Chúng ta sẽ đi đến đó!”
Bà Chokyi nghĩ,
“Mình đâu có chết. Mình vẫn còn thể xác đây mà.” Cùng lúc đó, bà
muốn hòa nhập như lời khai thị của vị lama. Nhưng vì sợ con rắn nên bà
lui lại.
Lúc đó, bà nghe Đại Sư
Gomchen hô lớn PHAT, bà cảm thấy vui mừng và an lạc. Rồi Ngài Gomchen
nói với gia đình của bà. “Việc làm pháp chuyển di thần thức bây giờ
là đã quá trễ, vì Chokyi đã rời khỏi thể xác rồi.”
Sau đó mọi người ăn
tối, nhưng không có dọn thức ăn cho Chokyi. Đại Sư Gomchen nói với con
gái của Chokyi, “Hãy dọn thức ăn cho Mẹ của con”. Con gái của bà
liền làm một đĩa thức ăn với một miếng thịt và một tách trà. Đặt những
món này gần con rắn, cô bé nói, “Mẹ ơi, con mời Mẹ ăn.” Dù đang
đói và khát, bà Chokyi không thể ăn được, vì con rắn làm cho bà cảm thấy
gớm ghiếc. Chokyi giận con gái của mình vì cô bé đặt đĩa thức ăn ở gần
con rắn.
Sau bữa ăn chiều, Đại
Sư Gomchen vừa cầu nguyện vừa đốt các món ăn của bà trong lửa để làm lễ
cúng hiến phạn cho người chết. Chỉ đến lúc đó bà Chokyi mới cảm thấy
thỏa mãn cứ như thể bà mới ăn uống xong. Sur là một nghi thức truyền
thống của Phật giáo Tây Tạng, cúng dường thức ăn, nước uống, và của cải
cho người chết hay những vong linh khác. Những lễ vật "sur" được gia hộ
bằng những lời cầu nguyện và thiền quán, rồi sau đó hiến cúng cho những
vong linh đó. Đồ cúng được thiêu đốt để tỏa ra mùi, vì sinh linh trong
cõi trung ấm chỉ có thể hưởng những mùi hương. Sau nghi lễ này, bà
Chokyi không còn cảm thấy đói khát nữa.
Ngay sau khi vị lama
thiết trí xong bàn thờ, các vị bắt đầu cử hành tang lễ. Đại Sư Gomchen
tham thiền một mình. Bà Chokyi tiếp tục cảm thấy buồn vì bà nghĩ mọi
người bất mãn với mình; Vì họ không tiếp món ăn cho bà; Và vì bà không
còn thân xác vật chất nên bà không thể ở yên một chỗ và duy trì một cảm
xúc.
Rồi bà nảy ra một ý tưởng “Mình sẽ lấy những
món nữ trang của mình và bỏ đi.” Đúng lúc đó, các con của bà lại òa
lên khóc và một cơn mưa máu và mủ bắt đầu dội lên người của bà Chokyi.
Bà không thể nhìn thấy gì cả, và thần thức của bà bắt đầu nhảy quanh
quẩn nhiều hơn nữa.
Bà Chokyi muốn chạy đến
chỗ Đại Sư Bangar Rinpoche đang làm chủ lễ, nhưng bà nghĩ, “Ngài là
một vị Tăng, có lẽ không thích hợp cho một phụ nữ đến gần.” Vì vậy
bà đứng nấp ở phía sau lưng Ngài. Buổi lễ mang lại sự an ủi êm dịu cho
bà nhưng bà vẫn cảm thấy sợ.
Sau đó bà chạy đến chỗ
Đại Sư Gomchen. Bà thấy Ngài có hình dạng trong suốt như Bồ Tát Quán Thế
Âm (Avalokiteshvara). Ngài đang nói, “tội nghiệp! tội nghiệp! (Nyingje!
Nyingje!). Bà Chokyi hiểu rằng Đại Sư Gomchen đang hợp nhất thần
thức của bà với tâm Ngài, vốn an trụ trong trạng thái thiền quán định
tĩnh. Bấy giờ bà cảm thấy bớt sợ và tâm trí xao động của bà nhập vào một
an lạc kỳ lạ.
Một lúc sau, bà trở lại với những suy nghĩ trôi
nổi thông thường. Bà thấy người ta có bữa ăn. Ngài Gomchen lại làm lễ
sur, bà hưởng thức ăn đã được hồi hướng cho bà trong dạng mùi.
Sau một lúc, bà nghe
một giọng nói từ bên ngoài, “Chokyi, lại đây!” bà đi ra. Một
người nào đó đang ở bên ngoài mà bà nghĩ là Cha mình. Ông nói, “Hãy
ra ngoài, ta có cái này muốn cho con thấy. Ta sẽ để cho con trở về sớm
thôi.” Nghe thấy vậy, bà lại nghĩ, “Nhà mình có đầy những vị
lama. Nhưng tất cả các vị này đều giận mình. chồng và con không dọn đồ
ăn cho mình. Vậy mình sẽ đi theo Cha.”
Ngay sau khi nghĩ như vậy, bà thấy mình ở trên một
con đường khô cằn xám xịt, không có một cọng cỏ hay một cái cây nào. Từ
chỗ đó bà có thể thấy những vật ở rất xa, và bà thấy một cánh đồng cát
bằng phẳng, rộng lớn. Ở giữa cánh đồng có một con sông lớn đang chảy,
nhưng khó có thể nói là nó chảy theo hướng nào. Bà thấy một chiếc cầu
rộng. Bên này của chiếc cầu, ở chân núi là một thành phố lớn.
Người đã gọi Chokyi ra, bây giờ đưa bà đến thành
phố đó và nói với bà, “Hãy nhìn quanh đây xem có người nào mà con
quen biết hay không. Ta sẽ đi qua bên kia sông. Con cũng nên qua bên đó.”
Thành phố này có nhiều
người đến mức bà thấy giống như một tổ kiến. Một số người mặc y phục
nhiều màu và có diện mạo đẹp đẽ. Số khác mặc quần áo xấu xí và dơ bẩn.
Nhưng tất cả đều buồn bã, khóc lóc và có nét mặt u ám. Chokya nghĩ “Có
lẽ mình cũng ở trong tình trạng giống như những người này,” Chokyi
bắt đầu run sợ.
Trong đám người đó,
Chokyi nhận ra Chogon, là người trước kia thường trông coi đàn gia súc
cho bà. Anh ta nhìn Chokyi và nói với vẻ quan tâm, “Ủa, chị đã đến
đây rồi sao?” bà đáp “phải, tôi vừa đến.” Sau đó Chokyi hỏi
dồn dập, “Anh sống ở đây à? Những người này là ai? Tại sao họ có vẻ
không vui? Có người bảo tôi qua bên kia cầu, tôi nghĩ phải đi đến đó.
Vậy có ai ở bên đó không ?".
Chogon nói, “Đây là
thành phố chuyển tiếp, vùng biên cương giữa người sống và người chết.
Mọi người đang đợi ở đây vì tuổi thọ trên trần gian này chưa hết. Những
người mặc quần áo đẹp và có khuôn mặt đẹp là những người đã tích lũy
công đức trong quá khứ. Họ đang đợi để có thêm công đức mà gia đình của
họ ở cõi người tạo lập và hồi hướng cho họ. Những người mặc quần áo dơ
bẩn và nước da xấu là những người không có công đức nào cả, cũng không
có ai tạo công đức cho họ. Ngay sau khi tuổi thọ chấm dứt, mỗi người
trong chúng ta sẽ đi qua bờ sông bên kia. Ở bên đó có vị Pháp Vương của
Tử Thần và các đao phủ của Ngài. các vị này sẽ xét bản công và tội của
mọi người. Những người có công đức sẽ được các Ngài cho đi lên các cõi
cao hơn hoặc được giải thoát. Những người đã tạo ác nghiệp sẽ bị đọa
xuống địa ngục. Ở trong địa ngục họ sẽ bị thiêu đốt và bị luộc trong
nước sôi không thể tưởng tượng được. Ngày đêm tôi lo nghĩ về số phận
đang đợi chờ mình. Tôi đã đến bên kia mấy lần rồi, nhưng họ bảo tôi cứ
đợi ở đây, vì tuổi thọ của tôi chưa hết. Chị có thể đi qua bên kia để
xem mấy vị Thần Chết nói gì. Nếu phải đợi ở đây, thì chị cứ trở lại.”
Sự Phán Xét của các Thần Chết
Không bao lâu sau đó,
bà Chokyi được gọi đến bên kia sông. Ở đó bà thấy một bức tường lớn.
Phía bên kia của bức tường là một ngai lớn bằng vàng. Ngồi trên ngai là
vị Pháp Vương của những Thần Chết. Diện mạo của Ngài màu vàng, và mặc áo
tu sĩ thêu chỉ vàng. Hai tay Ngài đặt trong tư thế thiền quán. Trên đỉnh
đầu Ngài có một chỗ lồi lên. Có những tấm màn lụa bao quanh và những
lọng thêu kim tuyến che trên đầu Ngài. Đủ loại trang trí và lễ vật dâng
cúng được thiết bày chung quanh Ngài. Vì vậy bà Chokyi thấy vị Pháp
Vương trong hình dạng của Đức Phật.
Ở bên phải của Pháp
Vương là một vị Thần Chết có thân người và đầu bò, tay đang cầm một tấm
gương. Ở bên trái là một Thần Chết đầu khỉ trong tay cầm một cái cân. Ở
phía trước Pháp Vương là Thần Chết đầu hươu, đang viết và đọc một cuốn
sổ. Ngoài họ ra còn có nhiều vị Thần Chết với những đầu thú khác nhau.
Mặc những loại trang phục đáng sợ, họ nhe nanh, trợn mắt, vung đủ loại
khí cụ và la lớn “Giết! Giết! Đánh! Đánh! Ha! Ha! Hung! Hung!”.
Họ chạy, nhảy khắp nơi. Thật là một cảnh tượng đáng sợ. Tòa Phán Xét
đang định đoạt số phận của khoảng ba trăm người.
Trong số những người
này có một vị tu sĩ tay cầm chuỗi hạt. Pháp Vương đang hỏi vị Tăng này
chi tiết về những gì đã làm trong lúc còn sống trên thế gian. Vị này kể
ra nhiều việc tốt. Về việc xấu thì vị này chỉ nói đến một điều là ăn
thịt.
Pháp Vương ra lệnh cho Thần Đầu Bò
Awa và Thần Đầu Khỉ kiểm tra lại trong sổ. Họ tường trình với Pháp Vương
rằng, ngoài những điểm khác biệt không quan trọng, vị tu sĩ đã nói đúng
sự thật.
Lúc đó, Vị Thần Bảo Hộ Trắng xuất
hiện và biện hộ cho vị tu sĩ, “Người này đã tạo lập công đức lớn và
đã không làm điều gì xấu. Vị này không đáng bị đưa vào cõi người hay cõi
trời, mà xứng đáng đưa về một cõi tịnh độ của đức Phật.” Rồi Ngài
trình ra một túi đựng những hòn sỏi trắng, tượng trưng cho những công
đức của vị tu sĩ.
Sau đó, Quỷ Đen hiện ra và chống
lại " người này đã tạo nhiều nghiệp xấu trong nhiều kiếp trước, vì
vậy phải đầy y xuống địa ngục ". Quỷ Đen trình lên một cái chén đầy
những viên sỏi đen biểu trưng cho những bất thiện nghiệp của vị tu sĩ.
Sau khi so sánh hai bên, các vị
này thấy thiện nghiệp nặng hơn nhiều so với bất thiện nghiệp. Vị Pháp
Vương tuyên bố “tất cả những nghiệp xấu của người này đã được những
nghiệp tốt giải trừ rồi"
Sau đó Pháp Vương phán quyết: “Ngươi
đã thành tựu bổn phận làm người. Được sanh ra làm người tốt hơn sanh vào
cõi trời. Vậy Ta gởi ngươi đến làm con của một gia đình giàu có. Ở đó
ngươi sẽ tiếp tục theo đuổi con đường đạo và tu tập tinh tấn.”. Ngay
sau đó, vị tu sĩ biến mất theo một con đường màu vàng lốm đốm.
Tiếp đó, Thần Chết tra hỏi một
người khác. Người này nói, “Tôi không có chi tiết gì để kể về những việc
làm tốt cho các Ngài. Tôi là một người nghèo khổ, thiếu ăn. Vợ tôi cũng
không có đạo tâm. Vậy, ngoài việc đóng thuế, tôi đã không bố thí nhiều,
tôi cũng không tu tập gì về thân và tâm. Tôi đã sát sanh một số cá, gà,
dê, và cừu. Do ảnh hưởng những người xấu, tôi đã ăn trộm đồ vật của
những vị ẩn tu, tôi rất hối hận!”. Người này run rẩy và tự đánh mình.
Những Thần Chết cầm khí cụ lên và cười vui vẻ. Còn bà Chokyi thì sợ hãi.
Sau khi kiểm tra lại, những Thần
Chết trình tâu với Pháp Vương, “Làm sao có thể đếm số cá mà người này
đã bắt giết? y cũng đã giết hai mươi chín con gà, bốn mươi bảy con heo,
bốn mươi ba con cừu, và sáu mươi con bò. Hãy xem con số côn trùng đã bị
y giết hại khi đốt một quả núi! Cùng với bốn người khác, y đã đánh và
ăn cắp của bốn người đi hành hương.”
Nghe đến đây, Pháp Vương nói, “Ngươi
đã làm những việc xấu như vậy, ngươi đã có lòng dạ hư thối, ngươi không
lo cho bản thân mình một chút nào hay sao? Cướp bóc và làm hại những
người có đạo tâm là tội còn nặng hơn giết các loài thú.” Ngài nói
với các Thần Chết, “Bây giờ hãy cho y chịu đau khổ trong những địa
ngục khác nhau. Y sẽ thọ hưởng những quả báo vô đạo đức của những việc
cướp bóc, nên y phải chịu ăn uống bằng những hòn sắt nấu chảy.”
Vị Thần Bảo Hộ Trắng hiện ra xin
giảm án và đưa ra hai mươi hòn sỏi trắng để tiêu biểu cho việc làm thiện
của người đó. Rồi Quỷ Đen xuất hiện và đòi phải giam người đó vào địa
ngục thấp nhất, vị này trình lên một số lượng lớn sỏi đen như Núi Tu Di
(Sumeru). Lập tức, các vị Thần Chết tròng một sợi dây thòng lọng quanh
cổ người đó, dùng móc sắt móc vào ngực và lôi y vào khu phòng sắt nóng
cháy.
Kế tiếp là một tu sĩ đang mang một
túi thuốc trên vai. Khi được tra hỏi, vị ấy kể ra tất cả những kinh sách
mà mình đã tụng niệm và tất cả những lễ cúng mà mình đã làm. Vị ấy cho
biết chưa bao giờ để cho một hành giả nghèo (poor yogis) ra đi tay không.
Vị ấy là thầy thuốc và chữa bệnh cho tất cả mọi người với khả năng tốt
nhất của mình. Vị ấy không bao giờ đòi trả lệ phí mà chỉ nhận những gì
người bệnh đem biếu cho. Vị ấy không bao giờ cho ai dùng lầm thuốc. Vị
ấy không bao giờ giết một con gia súc nào, vì là một gia chủ, ông chỉ
liên quan gián tiếp sát sanh.
Sau đó những vị Thần Chết kiểm tra
lại trong tấm gương và nói, “Ngươi đã nói thật về những nghiệp tốt
của mình. Nhưng khi anh của người là Chongthar ngã bệnh. Ông ta đến để
nhờ ngươi chữa bệnh. Vì ganh tị với sự giàu có của người anh mà ngươi đã
cố tình cho ông ta uống không đúng thuốc, và ông ta đã bệnh nặng hơn
trong tám tháng. Cuối cùng ngươi cũng chữa lành bệnh cho ông ta nhưng
lại lấy một bộ áo giáp chất lượng tốt để bù vào công chữa bệnh của
ngươi. Ngươi cũng đã giết một trăm bảy mươi ba gia súc.”
Khi đếm sỏi, các vị thần thấy số
lượng sỏi trắng nhiều hơn một chút, nhưng khi cân thì nghiệp xấu lại
nặng hơn.
Vị Pháp Vương nói với vị tu sĩ, “Nếu
không cho uống sai thuốc, ngươi có thể được tái sanh vào cõi trời hay
cõi người.” Rồi Ngài ra lệnh cho Thần Chết, “Hãy đưa người này đến
hồ nước độc nóng sôi, lúc nào cũng cho y uống nước độc đang sôi đó.
Đóng một ngàn gai sắt lên cơ thể của người này. Khi nghiệp bất thiện đã
được giải trừ, sẽ cho y đi lên". Các vị Thần Chết lấy móc sắt móc vào
ngực lôi đi giữa sự rúng động của mọi người.
Tiếp đó, một người đàn ông mặc
quần áo len xanh thú tội, “Khi người vợ thứ nhất bỏ tôi, tôi mất đi
tất cả hai trăm gia súc. Để trả thù, tôi đốt trụi hai ngôi nhà của cha
mẹ cô ta, thiêu chết bảy mươi lăm gia súc, bắn và giết một người đàn ông
và một phụ nữ khi họ đang cố chạy trốn. Sau đó tôi tái hôn và trở nên
giàu có. Để thanh lọc những ác nghiệp của mình, tôi đi hành hương lễ bái
khắp đất nước Tây Tạng trong hai năm và đã gặp nhiều vị lạt ma thành tựu.
Tôi đã khóc lóc và sám hối tội lỗi của mình trước mọi người. Tôi đã tiếp
nhận được gia trì lực và truyền pháp thiền quán về chơn tánh, về sự hợp
nhất của quang minh, trí tuệ và chơn không. Tôi đã tuyệt thực nhiều lần
và đã thọ trì nhiều kinh điển.”
Vị Pháp Vương nói, “Có nhiều
người làm điều tội lỗi, nhưng rất ít người thanh lọc ác nghiệp. Nếu biết
thanh lọc thì ác nghiệp có thể được giải trừ. Nếu ngươi đã tạo nghiệp
tốt mà không có nghiệp xấu thì ngươi sẽ là người hướng dẫn những ai có
liên hệ với mình đạt đến giải thoát. Nhưng ngươi sẽ tái sanh lại cõi
người và sẽ tu tập theo Kim Cương Thừa hay Mật Tông, và trong bốn kiếp
nữa ngươi sẽ thành tựu trong việc đạt đến Phật quả. Vậy ngươi hãy đi
theo con đường màu vàng, là con đường đến cõi người và cõi trời.”
Một lúc sau, nhiều người đến Tòa
Phán Xét Pháp Vương cùng lượt với bà Lingza Chokyi đã được đi lên hay đi
xuống các cõi tái sanh khác nhau. Nhiều người được các vị Thầy của họ
đưa lên các cõi cao. Nhưng rồi vẫn có những người mới được đưa vào.
Bỗng vị Pháp Vương đứng dậy nói, “đó,
ông ta đã đến kìa”. Bà Chokyi thấy trên đường đèo ở xa đi đến một
vị Tăng với vóc dáng khỏe mạnh to lớn, với ba trăm người vây quanh. Đi
sau đoàn người này là khoảng ba ngàn người nữa. Tất cả đều nhảy múa và
niệm Thần chú OM MANI PADME HUNG. Sau đó vị tu sĩ tuyên bố: “Tôi là
Jechung, người niệm OM MANI PADME HUNG. Đây là cõi trung ấm và địa ngục.
Tất cả những ai có liên hệ với tôi, hãy đi theo tôi. Tôi sẽ hướng dẫn
các vị đến cõi tịnh độ". Những cánh cửa của địa ngục đột ngột mở ra
một cách tự nhiên. Các vị Thần Chết ngất xỉu và những khí cụ rơi khỏi
tay họ. Dòng người đông đảo đi theo vị tu sĩ. Những vị Thần Chết đứng
dậy với vẻ tôn kính và ra lệnh, “nhiều người trong các ngươi có thể
rời nơi đây nhưng không phải tất cả.” Có khoảng ba trăm người bị bắt
lại trong dòng người đó và đưa họ trở lại địa ngục.
Bà Chokyi không có mối liện hệ gì
với vị tu sĩ này, nên không đi theo vị ấy. Bà hỏi vị Pháp Vương, “Vị
tu sĩ đó đem theo nhiều người mà không cần hỏi han gì tòa án này. Ngài
đã giải thoát cho những người đó khỏi luật lệ nghiêm khắc của tóa án này.
Làm sao vị ấy có oai lực lớn như vậy?”
Vị Pháp Vương giải thích, “Vị tu
sĩ đó được gọi là Jochung Ma-we Seng-ge, người trì niệm OM MANI PADME
HUNG. Ngài đi tu từ hồi còn nhỏ. Ngài có lòng tin tưởng nơi Bồ Tát Quán
Thế Âm (Avalokiteshvara), lúc nào cũng trì niệm OM MANI PADME HUNG và có
lòng từ đối với tất cả chúng sanh. Ngài thực hành và tuyên dương phép
tuyệt thực. Ba trăm người đến với Ngài là những người đã tạo nghiệp tốt
thực hành phép tuyệt thực cùng với Ngài. Những người mà Ngài đưa đi là
những người tin tưởng, thấy, tiếp xúc, nghe giáo lý, cúng dường Ngài
hoặc nhận sự gia trì, của Ngài. Những người bị bắt lại là những người
không có nhân duyên nào với Ngài hoặc đã có mối liên hệ tiêu cực đối với
Ngài.
Người kế tiếp là một nữ tu có vẻ đẹp hấp dẫn. Tòa án nhận thấy cô ta chỉ
tham muốn những thú vui của trần gian. Cô không có tín tâm, không bố thí,
và tạo nhiều nghiệp xấu. Cô van xin được trở lại trần gian để tu tập
theo Giáo Pháp. Nhưng cô đã bị đẩy xuống địa ngục.
Tiếp đó, một cô gái cầm xâu chuỗi
trong tay đang niệm OM MANI PADME HUNG đi đến gần. Cô tên là Marza
Chodron. Cô đã học giáo lý và được gia hộ. Cô giữ gìn niềm tin, cúng
dường, phụng sự các tu sĩ, và chết ở tuổi ba mươi ba.
Cô ta nói, “Tôi đã được các vị
lạt ma chỉ dạy rằng bất cứ những sắc tướng và âm thanh tốt hay xấu nào
của thế giới bên ngoài xuất hiện, cũng là những ảo giác của tâm thức.
Không có gì là thật cả. Vì vậy tất cả các vị mà tôi thấy ở đây là những
sắc tướng tự xuất hiện trong tâm của tôi. Thực tế thì không có một vật
nào có sự hiện hữu thực sự. Tôi không nghĩ rằng thân xác của tôi là có
thật. Dù những hình thể hay màu sắc nào xuất hiện với tâm tôi, thì tôi
cũng không có gì để nắm giữ cả. Vì vậy không có gì bị luộc hay bị thiêu
đốt trong địa ngục cả".
Trong tấm gương của các vị Thần
Chết thấy có nhiều nghiệp tốt hơn là cô đã kể. Nhưng họ cũng nhận thấy
cô đã gián tiếp can dự vào những nghiệp bất thiện như giết một số côn
trùng. Cô cũng gián tiếp đến việc cho phép làm thịt bảy con gia súc cho
tiệc cưới của cô. Một phần tư nghiệp quả của việc sát sanh này sẽ thuộc
về Cha Mẹ của cô dâu và chú rể, một phần tư thuộc về cô, một phần tư
thuộc về chồng của cô, và một phần tư thuộc về người đồ tể. Tuy vậy Pháp
Vương đã ngợi khen về những việc mà cô đã làm trong đời sống nói chung:
“Nhờ thiền quán về thật tánh của tâm, ngươi đã nhận ra được tánh
Không của vạn vật. Tất cả chúng đều xuất hiện từ tâm của chính ngươi.
Ngươi đã đạt được trí tuệ về tánh Không, về mọi huyền ảo, Ngươi đã tu
tập trong ý nghĩa của tâm bất khả phân và những vật đối tượng xuất hiện
đến tâm. Đó là công đức vô thượng Dù người chưa chứng ngộ chân lý tối
thượng, vì quá trình tu tập của ngươi chưa bao lâu, nhưng những gì ngươi
đã đạt được cũng có sức mạnh. Tất cả những nghiệp xấu mà ngươi đã tạo đã
được giải trừ. Nhưng trước khi ngươi chứng ngộ được chơn tâm, linh thị
về các cõi tịnh độ sẽ chưa xuất hiện. Bây giờ ngươi sẽ tái sanh vào xứ
Oddiyana ( ở miền Tây Bắc Ấn Độ, giáp giới với Pakistan & Afghanistan )
và sẽ tu tập theo mật giáo trong tám mươi năm. Sau đó người sẽ thác sanh
về thế giới Cực Lạc và đắc Phật quả ở đó”. Lúc đó vị Thầy của cô,
Đại Sư Gomchen Kunga Yeshe đến cùng với nhiều người có nhân duyên với vị
Thầy này. Cô đã đi theo con đường màu trắng.
Một ông già khoảng bảy mươi tuổi
vừa đến, tay cầm xâu chuỗi và bánh xe pháp luân cầu nguyện, được tháp
tùng bởi sáu mươi người nam và nữ. Họ đang trì niệm OM MANI PADME HUNG.
Ông ta nói: “Tôi là Sherab Rinchen, người khắc câu Thần chú OM MANI
PADME HUNG trên đá. Tất cả những người nào có nhân duyên thì hãy đến đây
với tôi. Tôi đã được mời về cõi tịnh độ của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm”.
Có khoảng bốn trăm người đi theo ông. Nhưng ba người bị những vị Thần
Chết kéo lại.
Vị Pháp Vương nói, “Ông ấy đã
trì niệm gần một trăm triệu biến OM MANI PADME HUNG. Ông cũng đã khắc
câu Thần chú OM MANI PADME HUNG lên nhiều tảng đá và ông đã đặt bên lề
đường để mọi người có thể bái lạy và thọ trì. Ông có một vợ và ba con.
Những người đi theo ông là những người đã tin tưởng nơi ông. Ông có thể
giải thoát cho nhiều người khác, nhưng vì người Tây Tạng nghĩ rằng đời
sống hôn nhân là không phù hợp với một lạt ma nên nhiều người đã không
tin tưởng ở ông ta”.
Vào thăm Địa Ngục
Đến lúc này, những người đã đến
Tòa Án cùng với bà Chokyi đều đã được đưa đi lên hay xuống sau khi thẩm
vấn. Ngoại trừ Chokyi, trong những người đến trước đây, bây giờ đều
không còn ai ở lại. Nhưng nhiều người mới vẫn tiếp tục đến và chờ đợi.
Bà Chokyi tự nghĩ, “Mình không có nhiều nghiệp tốt để kể ra, mà ở đây
lại không thể nói dối được. Vậy mình phải làm sao đây?”. Bà bắt đầu
run lên vì sợ hãi.
Ngay lúc đó, vị Pháp Vương nhắm
mắt lại để suy nghĩ. Rồi Ngài bảo các vị Thần Chết, “Hãy cho bà này
vào một cõi của người chết, làm cho bà ta nhớ lại tất cả những gì đã
thấy, sau đó đưa bà trở lại đây ngay.”
Một vị Thần Chết đầu-cọp đặt xuống
bên dưới một thang màu đen. Khi leo xuống, vị Thần yêu cầu Chokyi đi
theo mình vào thăm cõi địa ngục. Khi xuống đến nơi, bà thấy mình trên
mặt đất bằng nền sắt đang bốc cháy, xung quanh là những bức tường sắt
khổng lồ đang bốc lửa khoảng tám tầng. Ở mỗi tầng, bà Chokyi chứng kiến
nhiều chúng sanh đang trải qua những loại đau khổ khác nhau.
Trong số những địa ngục mà bà Chokyi, Tsophu Dorlo,
và những delog khác đã đi qua là tám địa ngục nóng và tám địa ngục lạnh
cùng với những địa ngục phụ. Chúng sanh trong những cõi địa ngục này
phải chịu những mức độ tra tấn hành hạ khác nhau tùy thuộc vào mức độ
nghiệp bất thiện từ thân, miệng, ý khác nhau. chính yếu là dựa trên
nghiệp sân hận hay thù ghét mà họ đã tạo trong quá khứ.
Ở tầng thứ nhất, tính từ trên
xuống dưới, nhiều người bị liệng nằm ngửa trên nền đất nóng cháy và bị
những đao phủ khác nhau cắt ra từng mảnh. Tất cả những sinh linh này đều
xem nhau như kẻ thù và giết hại lẫn nhau với vẻ đầy sân hận. Khi nào họ
ngất xỉu, một tiếng nói sẽ vang lên “tỉnh lại.” Tức khắc họ tỉnh dậy và
lại chịu những hành hạ đó. Những người này trong đời sống thế gian trước
kia đã làm hại Cha Mẹ và bạn bè của mình với sự thù hận.
Ở tầng thứ hai, quân đao phủ đang
liệng nhiều người xuống đất nóng cháy. Họ vạch những đường lằn trên thân
thể của những người này rồi cắt thành từng mảnh theo đường lằn đó bằng
lưỡi cưa nóng cháy. Những chúng sanh này trước kia là thợ săn, đồ tể hay
những kẻ chuyên hạ độc người khác.
Ở tầng thứ ba, nhiều người bị ném
vào cối sắt nóng cháy và bị giã nát bằng chày nóng bỏng. Nhiều sinh linh
khác cũng bị ép lại giữa những ngọn núi đang cháy. Những tội đồ này là
những thợ săn, đồ tể, những kẻ làm thịt gia súc, và thợ làm vũ khí.
Ở tầng thứ tư, nhiều người đang bị
nướng trên lửa, và đang kêu la khủng khiếp. Họ là những người buôn bán
thuốc và những kẻ giết người, ngựa, hay chó. Cũng có những người đã
mắng chửi người tu hành và làm vũ khí.
Ở tầng thứ năm, trong một tòa nhà
khổng lồ nóng bỏng, các sinh linh bị thiêu đốt bên trong lẫn bên ngoài.
Tất cả đều kêu khóc như tiếng sấm rền. Họ là những người đã xúc phạm đến
ba ngôi Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, tà kiến và trộm cắp của những người có
đạo tâm.
Ở tầng thứ sáu, các sinh linh bị
thiêu đốt trong đống lửa lớn, thỉnh thoảng quân đao phủ lại lấy họ ra
rồi đập nát họ bằng những búa nóng cháy, sau đó liệng vào ngọn lửa trở
lại. Đây là những người đã không tin luật nhân quả và những hành vi
thiện, ác; những người đã giết hại chúng sanh khác như cá, rắn với sự
độc ác và xem thường nghiệp quả.
Ở tầng thứ bảy, nhiều người đang
bị nấu trong sắt nóng chảy, với tiếng sắt sôi và tiếng bể thổi lửa vang
lớn như tiếng sấm. Họ đã tạo nhiều nghiệp ác như đốt rừng khiến nhiều
sinh linh bị chết và hủy diệt những kiến trúc tôn giáo.
Ở tầng thứ tám, các tội đồ bị đóng
đinh vào nền đất nóng cháy và thân thể của họ bị cắt xẻ, bị hành hạ với
những khí cụ khác nhau. Khi bị thiêu đốt, những ngọn lửa phụt ra từ
những lỗ trên thân thể của họ. Họ là những người đã không làm một công
đức nào cả, đã phạm ngũ nghịch tội (giết Cha, giết Mẹ, giết Thánh Nhơn,
phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu) và những tội khác cũng như phá
hủy những công trình kiến trúc tôn giáo và những nguồn lợi chung của mọi
người. Họ cũng là những người vi phạm giới nguyện mật giáo, tà kiến và
phá hủy niềm tín tâm và mục đích tu tập theo chánh đạo.
Bà Chokyi cũng đến thăm những địa
ngục phụ, được gọi là “bốn địa ngục kế cận”. Trong những địa ngục này,
nhiều người đang chìm trong bãi bùn lầy dơ bẩn và bị côn trùng rỉa róc.
Nhiều người bị kéo lưỡi bằng móc sắt và bị cày bằng những lưỡi cày nóng
cháy. Nhiều người liên tục làm cho mình bị thương khi họ trèo lên và leo
xuống những ngọn núi mọc đầy những cây cối có hình thù như đao kiếm bén
nhọn và nóng bỏng, hoặc họ đi trong một cánh đồng đầy lưỡi dao. Những
hình thức hành hạ này là hậu quả của việc làm ô uế nơi thanh tịnh và
thiêng liêng, vu khống người vô tội, tham dục, và hưởng lợi bất chính từ
những tài sản của tôn giáo và của Cha Mẹ.
Sau đó Chokyi đi thăm tám địa ngục
lạnh, nơi vô số sinh linh không có y phục che thân đang bị đông lạnh và
run rẩy trên một nền băng giá với những luồng gió rét. Thân thể của họ
bị nứt ra từng mảnh và nhiều màu sắc khác nhau, và họ thốt ra đủ mọi
tiếng kêu la.
Thông Điệp cho người còn sống
Sau cùng, bà Chokyi trở lại Tòa
Phán Xét của vị Pháp Vương. Ngài nói với bà, “Ngươi là một trong
những người bị đưa lầm vào đây, vì có sự lầm lẫn về tên tuổi và gia tộc.
Thân xác của ngươi vẫn còn nằm ở nhà an toàn. Ta đã xem trong tấm gương,
nhưng không thấy có điều hạnh phúc nào đang chờ đợi ngươi, vậy lần này
ngươi có thể trở về nhà. Lần tới khi trở lại đây, ngươi hãy làm sao để
chắc chắn là không có lý do gì để lo sợ vì đã không tu tập theo Chánh
Pháp. Ngươi đã chính mắt mình trông thấy quả báo của những thiện nghiệp
và ác nghiệp”. Rồi Ngài nhắn gởi bức thông điệp sau đây cho những
người còn sống trên thế gian:
Có nhiều người đang thọ hưởng đời sống trọn vẹn
của thế gian,
Nhưng họ qua đời với hai bàn tay trắng, không có công đức tu tập nào cả.
Hãy nhắn lại với những người không có đạo tâm đó với thông điệp sau:
Nói với họ rằng chính ngươi đã đến cõi giới của người Chết
Nói với họ rằng ngươi đã gặp Pháp Vương.
Nói với họ rằng ngươi đã thấy mười sáu địa ngục.
Nói với họ rằng biển sanh tử luân hồi rộng lớn.
Dù số người nam nữ là vô lượng
Khi họ bị nghiệp quả theo đuổi
Họ sẽ không có nơi nào để đi ngoài Tòa Phán Xét
Khi nghiệp quả xấu đến với ngươi
Mọi sắc tướng sẽ xuất hiện như những kẻ thù địch
Sẽ không có gì không có tính cách chống đối
Ví dụ như, một ngọn lửa xuất phát từ ngươi sẽ đốt ngươi.
Ngọn lửa này không phát sinh từ nơi nào khác.
Sự phát sinh của những nhận thức của ngươi như những kẻ địch,
Là kẻ thù hơn bất cứ một thế lực nào khác.
Ai làm ra những vũ khí đáng sợ đó ?
Làm sao họ có những vũ khí đó? Ai đã làm và được trao cho ai ?
Ai là Cha Mẹ đã nuôi dưỡng
Những đao phủ quái dị đó của các Thần Chết ?
Hiện tượng địa ngục cũng huyễn ảo giống như những giấc mộng của ngươi
Ngươi sẽ không chứng ngộ tâm mình là Phật
Trừ khi học cách chứng ngộ tánh Không của vạn hữu.
Khi biết cách giải thoát mọi cảm nhận của mình
Dù đi tìm ngươi cũng sẽ không thấy có địa ngục nào cả
Dù ngươi tìm địa ngục, địa ngục cũng sẽ là Tịnh Độ an lạc
Người ngu si vô trí lại lo sợ
Những hình ảnh tự tạo của chính tâm mình
Thì thật ra họ sợ cái bóng của chính mình.
Không có gì là có thật, nhưng mọi vật xuất hiện trong mọi hình dạng.
Mọi vật xuất hiện nhưng không hiện hữu theo tính chất thật của chúng.
Đó là tính chất của sự hợp nhất sắc tướng và chơn không.
Những người nào đã biết về tính chất đó,
Nên thiền quán về tính chất đó
Quyết định rằng tất cả đều là những hình ảnh tự xuất hiện
Tất cả chính là mình, không phân cách với mình.
Vậy hãy quyết định rằng luân hồi và Niết Bàn chính ngay nơi tâm của
chính mình.
Hãy tinh tấn trì niệm OM MANI PADME HUNG.
Ngươi đã thấy ở đây oai lực của việc trì niệm Thần chú này chưa ?
Đừng quên tất cả những lời nhắn nhủ này.
Hãy kể cho mọi người biết những gì mà ngươi đã chứng kiến ở đây.
Vị Pháp Vương bảo bà Chokyi trở về nhà. Rồi bà
hướng về con đường đèo tuyết phủ. Bà Chokyi bước đi với ý nghĩ mình trở
về nhà. Tức khắc bà thấy mình đang ở nhà. Giường bà bị ngăn bằng một tấm
chăn. Trong giường bà thấy xác một con rắn, như bà đã trông thấy lúc
trước đó.
Bực bội với gia đình của mình,
Chokyi nghĩ rằng, “Họ biết mình sợ rắn, vậy mà họ lấy xác một con rắn
đặt lên giường của mình rồi lấy y phục của mình mặc cho nó”. Rồi bà
quyết định, “Bây giờ, dù sợ hay không, mình phải lôi con rắn cùng với
mớ quần áo rồi liệng nó ra ngoài cửa". Bà nhắm mắt lại, hai tay nắm
vào lớp vải áo rồi kéo. Bà có cảm giác như thể mình đang bị té ngửa,
nhưng tức khắc bà thấy mình đang ở trong thể xác này, giống như vừa thức
dậy sau một giấc ngủ.
Chokyi thở một hơi dài, và người
con trai trưởng gọi bà “Ama! Ama!” bà đáp “Ah.” Con bà
la lớn, “Ama đã sống lại. Mọi người hãy đến đây!” Tất cả họ
hàng chạy đến chỗ bà. Bà Chokyi kể lại mọi sự kiện mà bà đã trải qua, và
mọi người đều khóc. Nhớ lại những đau khổ ở địa ngục, bà cũng khóc. Dần
dần sức khỏe của bà phục hồi. Những người trong gia tộc của bà cúng
dường các vị lạt ma rồi trở về nhà của họ
Đến mùa thu, bà tổ chức một cuộc
họp mặt để thọ trì một tỷ biến thần chú OM MANI PADME HUNG. Bà cũng cúng
dường cho nhiều tu viện.
Bà Chokyi lo cho chồng và các con
những hành trang cần thiết để đi tới một nơi mà ở đó họ có thể tu tập
theo Giáo Pháp. Bà và con gái trở thành nữ tu và đi hành hương nhiều nơi
cũng như dành trọn cuộc đời của mình cho việc tu học và từ bỏ mọi sinh
hoạt của thế gian.
Bà Lingza Chokyi kết luận chuyện kể delog của mình
với những lời sau đây:
"Tôi đã đích thân chứng kiến
địa ngục trong con người. Hạnh phúc và đau khổ ở ngay trong tầm tay để
chúng ta tự chọn. Khi tự ý chọn trong bàn tay của mình, xin đừng lo nghĩ
quá nhiều về những gì mình muốn có trong cuộc sống này, mà phải cố gắng
làm những việc gì tốt đẹp nhất cho kiếp sau của mình.
Điều tốt nhất để làm là buông bỏ những thú vui của cuộc sống này. Hãy cố
gắng chứng ngộ tính chất thật của tâm mình. Nó có oai lực thật kỳ diệu.
Điều tốt thứ hai là không tạo nghiệp xấu qua thân, miệng, ý, và dành tất
cả những nỗ lực cho những sinh hoạt trong Chánh Pháp.
Ít nhất cũng nên cúng dường một số tài sản cho những vị Thầy và các tu
sĩ và cũng chia sẻ với những người nghèo khó".
Những phán xét nào đang chờ đợi
tôi ?: Kinh nghiệm của Karma Wangdzin
Sau khi có kinh nghiệm thoáng thấy
về chơn tánh tối thượng một chút, như chúng ta đã thấy ở chương 3, Karma
Wangdzin đã trôi nổi đây đó như một lông chim trong không khí, vì bà
không còn thân xác thô kệch để thần thức của mình trụ vào nữa. Bây giờ
tâm của bà trong sáng hơn nhiều lần so với lúc còn sống.
Một ý nghĩ lóe lên trong tâm của
Karma: “Mình đã thực sự chết rồi sao?” bà nhìn quanh một cách
tuyệt vọng để tìm kiếm những người bạn nhưng không thấy ai cả. Rồi tức
khắc bà quên câu hỏi là mình đã chết hay chưa. Bà cảm thấy cô đơn và
nghĩ rằng đó là vì sống ẩn cư trong tu viện lâu rồi. Vì vậy bà tự nhủ, “Chỉ
từ bỏ thức ăn ngon, quần áo đẹp, và trò chuyện vặt với mọi người thì như
vậy chưa phải là tu hành. Mình nên trở về nhà hơn là ở lại tu viện này
với cảm giác buồn chán”. Ngay khi có ý định trở về nhà, bà Karma
thấy mình đang ở Ogtro, thị trấn quê hương của bà và không còn ở tu viện
nơi bà ẩn cư nữa.
Chồng của bà Karma, là Trưởng Làng của thung lũng
không có ở nhà, vì ông đã đến Tu viện Traphu cùng với nhiều người khác.
Những người còn ở nhà đang than khóc và kêu tên của Karma “Ôi, Lhawang
Putri! Ôi Lhawang Putri!”
Karma cố nhấc cánh tay của một số người, và hỏi, “Bạn
bị ông Trưởng Làng mắng chửi hả?” nhưng không ai trả lời hay nhìn bà.
Rồi bà nghe thấy một tiếng la lớn ở bên ngoài. Ở ngoài đường, người ta
nói với nhau, “Lhawang Putri đã chết rồi!” nhiều người đang khóc
lóc cũng nói, “Bà ấy thật khiêm nhường và rộng lượng.” Những
người khác thì nói nhỏ với nhau “Bà ta to xương mà vai lại hẹp”.
Ý họ muốn nói là bà có con tim cứng rắn và có tánh ganh tị.
Rồi bà trở về nhà mình. Những
người trong gia đình bà đang kêu khóc “bà của chúng ta đã đi rồi!”
“thật là tội nghiệp cho bà!” “Buồn thay cho Trưởng Làng!”
bà thấy những người thân nhỏ những giọt nước mắt đau đớn. Họ vô tình làm
cho bà hứng một trận mưa máu và mủ rơi xuống bà trong hình dạng lớn cở
quả trứng. Cơn mưa những giọt nước mắt này đi kèm với tiếng động sấm sét
cứ đâm vào da, và làm gãy xương của bà. Phần lớn thời gian, bà thấy mình
vẫn mặc y phục như thường lệ, nhưng trong cơn mưa bão như vậy, bà cảm
thấy thân thể của mình bị đụng chạm và trần trụi.
Từ một nguồn vô hình nào đó, bà
Karma nghe thấy một giọng nói, “Hãy đến Tu viện Traphu.” Chỉ bằng
ý định thôi, bà đã đến Traphu ngay lập tức. Chồng của bà và những người
khác đang bận rộn tổ chức một lễ hội. Hai vị tu sĩ nhanh nhẹn thiết trí
một án thờ với những bức tranh tôn giáo thangka và nhiều lễ vật cúng
dường. Bà nghĩ, “Ồ, thì ra họ đang làm lễ cúng dường Ngày thứ Bảy,”
(Seventh-Day Offering) một nghi lễ hàng năm của Tu viện. Nhiều người
lần lượt từ Ogtro đến chia buồn với chồng bà và mời ông ta những món đồ
uống truyền thống.
Người quản gia của ông Làng Trưởng
cũng đến, mang theo những món trang sức của bà Karma và đặt những món
này lên bàn thờ, sau đó chào vị trưởng làng và nói, “xin ông đừng
khóc, quả thật đây là bi kịch. Đây là lúc ông đau buồn nhất, nhưng bà ấy
không giữ nhiệm vụ như một vị chủ nhân của ngôi nhà vùng Pagro nữa. Bà
ấy còn nói đến việc giúp đỡ nhiều cô gái trong vùng bỏ nhà đi xuất gia.
Người dân chúng tôi xem bị đau ngón tay trỏ của mình nghiêm trọng hơn là
sự ra đi của bà. Bây giờ chúng ta phải tập trung vào việc chuẩn bị làm
tang lễ”.
Một dòng nước mắt rơi xuống, vị Trưởng Làng nói, “Mặt
trời đã lặn ở giữa ban ngày. Chúng tôi chỉ được sống với nhau một thời
gian rất ngắn, mà tôi thì không có Cha Mẹ. Bà ấy là người bạn thật sự
độc nhất mà tôi có. Giờ đây tôi cũng đã mất bà ấy rồi.”
Rồi ông Trưởng Làng bảo “Cho
đến khi xong lễ chung thất bốn mươi chín ngày, nên bảo quản thi hài của
bà ấy còn nguyên vẹn mà không ướp xác. Bà là hạng người có thể sống lại
như một delog. Chẳng hạn như bà Lingza Chokyi, đã trở về thế gian với
nhiều chuyện kể về kinh nghiệm sau khi chết. Lúc đó bà Karma đang
khóc và nghĩ, “Mình chết thật rồi sao?”.
Nhưng ngay sau đó, bà Karma lại
vẫn tin là mình còn sống. Nắm lấy tay chồng, bà cố gắng nói với ông ta
là bà còn sống và ông ta không có lý do gì để buồn về điều gọi là cái
chết của bà. Nhưng ông ta cũng như tất cả những người khác đều không đáp
lại lời phân bua của bà. Bà cho rằng mọi người đang giận mình.
Chồng bà yêu cầu một người giúp
việc dùng một con trâu yak chở những bánh trà cho một số người. Nhưng bà
Karma thấy trên đường đi, người giúp việc đã lặng lẽ ăn cắp một số bánh
trà và giấu trong một cái túi để xài riêng. Bà thấy xấu hổ cho anh ta vì
hành vi thủ lợi nhỏ mọn như vậy.
Khi những người hầu dọn thức ăn
cho ông Trưởng Làng, bà Karma nghĩ là mình sẽ ăn chung với chồng như
thường lệ, nhưng không ai tiếp thức ăn cho bà, và cả chồng bà cũng không
mời bà gì cả. Bà khóc và nghĩ, “Bây giờ thì một bữa ăn nhỏ mình cũng
không được tham dự.” Bà giận dỗi và nghĩ về chồng, “Chính ông đã
không cho tôi ở với Cha Mẹ thân yêu của tôi và không cho tôi đi tu, lại
còn nói "anh sẽ lo tất cả mọi nhu cầu cho em.” Nhưng bây giờ ông đã cư
xử giống như bọn người hầu của ông. Tôi còn không có quyền ăn với ông
một bữa ăn nhỏ. Thôi tôi trở về tu viện của tôi đây".
Trước khi đi, bà lại nghĩ về chồng
mình “Khi tôi còn là đứa con cưng của Cha Mẹ tôi và được tự do đi tu,
ông đã dụ dỗ với tôi với những lời hứa này nọ. Bây giờ thì tôi cũng
không được ăn uống dù chỉ một chút. Ông đã lấy những món trang sức mà
Cha Mẹ tôi đã cho tôi. Trước đây ông xem tôi như một Thiên nữ. Giờ đây
ông bắt tôi lang thang như một con chó hoang, không ai thèm nhìn ngó.
Tôi không thể tin cậy nơi ông một việc gì nữa. Tất cả hy vọng của tôi và
lời hứa của ông giống như vẽ trên nước. Bây giờ tôi đã hiểu hết ý nghĩa
của câu nói thời xưa“Cho đến khi bị thòng lọng xiết cổ, người đàn bà
không biết lo nghĩ một chuyện gì hết". Tôi sẽ cảnh báo cho tất cả những
cô gái chưa chồng biết và khuyên nhủ họ buông bỏ mọi thứ và đi xuất gia
theo Chánh Pháp”.
Sau đó bà hét lớn: “Ông Trưởng
Làng và tất cả mọi người, hãy nghe tôi nói. Tôi ở đây làm phiền mấy
người. Ông cứ vui hưởng của cải và quyền lợi của ông. Tôi sẽ vui sống
với Chánh Pháp. Ông đừng ân hận gì cả nhé!”. Không một ai mời bà đi
trong khi họ than khóc. Bà bèn bỏ đi khỏi nơi đó.
Trong thung lũng, bà trông thấy
một nhóm vong linh đang hạ xuống từ vùng đất cao của thung lũng. Họ nói
với nhau “Có một lễ cúng ở thung lũng Gechu. Chúng ta hãy đến đó.”
Bà Karma cũng đi theo họ đến Tu viện Kunga Ling. Mấy con chó vốn quen
thuộc với Karma, bây giờ lại sủa vang và nhào tới bà. Bà chạy ra và đợi
ở bên ngoài. Sau đó một tu sĩ dâng cúng nước và bánh "torma", rồi liệng
những đồ cúng ra ngoài. Đủ loại sinh linh bu tới như ruồi đen để hưởng
những món đó. Những vong linh được người ta dâng cúng thì hưởng những
món đồ cúng chính yếu, trong khi những vong linh khác thì chia nhau
những đồ cúng còn lại. Nhiều vong linh yếu ớt hay bệnh tật không tranh
dành được gì cả, họ đau khổ nhào xuống đất kêu khóc ầm ĩ vì đói khát. Có
những vong linh vừa khóc vừa ôm nhau. Karma cảm thấy ngượng vì bà có
hoàn cảnh tốt hơn họ. Bà rất thương xót nhưng không thể làm gì được cho
những vong linh đau khổ đó, giống như người đui giúp kẻ mù. Bà khóc rống
lên vì họ và ngay lúc ấy bà nghe một giọng nói rất rõ ràng:
"Thứ nhất, họ không tạo lập công đức nào cả
trong quá khứ.
Thứ hai, sự đau khổ đó là do hậu quả của những nghiệp xấu của họ.
Thứ ba, ở đây những vong linh như vậy chỉ là thiểu số.
Buồn thương cho họ cũng không ích lợi gì. Vậy hãy bình tĩnh".
Rồi bà Karma muốn đến Zagrum để
thăm Cha Mẹ. Tức khắc bà thấy mình đang ở Zagrum. Mẹ Karma đang đi kinh
hành quanh một chùa để làm lễ. Karma nói ngay với mẹ, “Amala ơi, cho
con xin một chút gì để ăn.” Mẹ của bà không nói gì cả mà cứ tiếp tục
đi nhiễu. Karma nghĩ, “Trước đây khi mình đi ngựa đến với mấy người
bưng quà biếu, Mẹ mình sẽ khen ngợi, “Ôi, con gái của tôi đã về” và vui
vẻ đón tiếp mình với bia "chang". Giờ đây thì bà cũng giống như những
người khác, làm lơ với mình. Chắc bà đã nhận được một lá thư của ông
Trưởng Làng than phiền về mình chăng. Mẹ phải quan tâm nhiều cho chồng
mình, con trai của người khác, hơn là lo cho con gái ruột của bà”.
Karma nắm áo mẹ và van xin “Vì
con lấy vị Trưởng Làng theo sự sắp đặt của Cha Mẹ, con đã nghĩ là dù
chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì con đây cũng phải chấp nhận số phận
của mình". Trưởng Làng đã đi lại với một cô gái ở Shar, nhưng con lại là
người bị bắt lỗi vì vụ đó và bị đánh đập. Con không muốn cho Cha Mẹ biết
sự việc này. Vì con không sinh đẻ gì nên một chút đồ ăn thức uống người
ta cũng không chia phần cho con. Xin Mẹ hãy cho con chút gì để ăn, rồi
con sẽ đi khỏi nơi đây để tu học”.
Không nhìn Karma mà cũng không nói
một lời nào, Mẹ của bà đi vào nhà. Bà Karma vẫn đi theo dù không được
mời. Trong nhà Cha Mẹ, cả nhà tụ lại để ăn trưa. Karma đang đói và ngồi
phía sau Mẹ mình, chờ đợi để được mời ăn, nhưng không có ai để ý tiếp
cho bà cái gì. Sau bữa ăn, mọi người ra ngoài và Karma cũng đi. Tưởng là
tất cả mọi người đều giận dỗi mình, bà lăn ra đất khóc lóc thê thảm.
Trong giây lát, bỗng bà nhớ lại rõ
ràng những hướng dẫn về việc kiểm nghiệm những dấu hiệu của cái chết, do
vị Thầy nổi tiếng là Đại Sư Norbu Trashi đã ban cho bà. Trước tiên bà
kiểm tra xem mình có bóng đen hay không, không có bóng gì cả. Rồi bà
lắng nghe tiếng bước chân của mình, không có tiếng gì cả. Bà nghĩ, “trời
ơi! Chắc mình đã chết rồi! tất nhiên là đúng như vậy! Cuộc đời của mình
trải qua nhanh như chớp. Cảnh đời nhỏ bé như nhìn qua một cọng rơm. Mình
chưa từng đạt được một sự tự tin nào trong việc tu tập. Mình không nhớ
là đã bố thí cho ai bao giờ chưa. Bây giờ mình sẽ bị các sứ giả của Thần
Chết bắt đi". Với sự đau buồn và than khóc cho thân phận mình, bà té
xuống đất bất tỉnh.
Sự hướng dẫn của một vị Thần, Tara Trắng
Khi bà Karma tỉnh lại, một người mặc áo trắng, tóc
cột ở phía sau lưng đang đứng trước bà, tay cầm một cái trống nhỏ. Ngài
là Tara Trắng, vị Thần bảo hộ của Karma, vị nữ thần nắm tay Karma và nói
những lời an ủi:
"Than ôi ! Đừng buồn. Hãy đứng dậy đi con
Khi còn những phiền não và không giác ngộ thật tánh của các pháp
Mà lại nói là mình đã chứng ngộ thì mình nói dối và độc ác.
Đức Phật dạy“Sinh và tử là nghiệp của đời người.
Và chúng diễn ra liên tiếp”.
Cái chết không chỉ xảy ra với con.
Tất cả các sinh linh khác đều phải đi qua con đường này
Ta sẽ phù hộ để cho con ra đi trong bình an"
Trong hành trình chuyển tiếp của
bà Karma, không phải lúc nào cũng trông thấy Đức Tara Trắng, nhưng khi
gặp phải tình trạng khó khăn thì nữ thần liền hiện ra hướng dẫn bà. Tara
Trắng là một vị Phật trong thân tướng người nữ, và Karma có liên hệ với
Ngài vì bà cầu nguyện Ngài và thiền quán về Ngài như hình ảnh của Đức
Phật. Nhưng dù có sự hướng dẫn của Tara Trắng, bà Karma vẫn phải đối
diện với những nghiệp quả xấu của mình.
Trước khi đi với Ngài Tara Trắng,
bà Karma nói với Mẹ " khi con còn ở đây Mẹ không cho con ăn gì cả,
sau khi con đi rồi, Mẹ đừng có ân hận nhé.” Tuy vậy, bà vẫn còn
quyến luyến Mẹ mình, nên khi chia ly thật không thể chịu nổi. Bà nghĩ là
Mẹ mình sẽ đi theo sau mình, nhưng Mẹ bà không làm vậy.
Trong khi bà Karma đi mỗi lúc mỗi
xa hơn, thung lũng quê hương của bà dần dần khuất sau một quả núi khổng
lồ. Bà khóc rấm rứt với nỗi buồn, đến một ngả ba đường. Bà chọn đi đường
ở giữa. Lúc đó, trên đỉnh một quả núi sắc nhọn ở hướng Tây, bà trông
thấy một tu sĩ mà bà nhận ra đó là chú của mình. Ông có mái tóc bạc và
tay đang cầm xâu chuỗi hạt màu đen. Tay và chân ông ta chuyển động như
thể đang nhảy múa. Ông lớn tiếng cảnh báo Karma rằng bà đã đi lầm đường.
Ông chỉ dẫn đường đi và những ánh
sáng mà bà sẽ trải qua trên hành trình chuyển tiếp này. Rồi bà nghĩ đến
việc leo lên núi, nhưng bất ngờ một cơn bão mạnh phát ra, cuốn bà lên
trời rồi liệng bà xuống mặt đất nhiều lần.
Cuối cùng, bà thấy mình đang ở
giữa một đám đông những sinh linh có hình dạng và mặt mũi đáng sợ. Những
con mắt trợn trừng của họ nhìn bà và những răng nanh như tảng băng nhe
ra đe dọa bà. Họ mặc đồ da cọp và da beo hay da người với đồ trang sức
bằng xương, họ đang ăn món canh óc đựng trong những chén sọ người và tay
cầm những chùm ruột. Những người khác đang vung cao nhiều loại vũ khí ở
trên đầu họ. Tất cả đều hô lớn “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết!
Giết!” Karma hoảng sợ đến mức không thể nghĩ hay nhớ đến gia đình hay
bạn bè nữa.
Rồi bà thấy mình ở bên rìa của một cánh đồng bao
la. Cơn bão khủng khiếp bây giờ đã ngớt. Từ đâu đó những tiếng la "Giết!
Giết!” vẫn còn vọng đến chỗ bà, giống như tiếng sấm ở xa. Từ những
đau khổ và sợ hãi tệ hại nhất có phần dịu đi, ít nhất thì cũng trong lúc
này.
Nhưng bà Karma lại nhớ đến Cha Mẹ, gia đình, bạn
bè và gọi tên của họ. Lăn lộn trên đất, bà khóc lớn và than rằng “Tại
sao mấy người lại để cho tôi cô đơn như thế này mà lại không cho tôi
biết về những sự nguy hiểm này".
Nữ Thần Tara Trắng (theo truyền thống PG
Tây Tạng)
Lúc đó, Nữ Thần Tara Trắng lại xuất hiện và bà
Karma nắm lấy áo của Ngài khóc và hỏi, “Cô ơi, cánh đồng này có tên
là gì? Thành phố lớn ở đằng xa đó gọi là gì? Tên cô là gì? Con có cha mẹ,
chồng và nhiều người thân, nhưng con không nói gì về chuyến đi này với
ai cả. Con chỉ bất ngờ tới đây không thể cưỡng lại được. Xin cô nhận các
món trang sức này rồi giúp đưa con về nhà.”
ĐứcTara Trắng đáp “Vì sự mê lầm
lớn của con, những ý tưởng của chính con đã xuất hiện trong hình dạng
những kẻ thù địch. Cánh đồng này rộng lớn như bầu trời và được gọi là
Cánh Đồng Hoang Lưỡi Dao, đây là lối đi vào địa ngục của những người đã
tạo ác nghiệp. Thành phố đó là thành phố lớn của người chết. Nếu con
không nhận ra ta thì ta sẽ nói tên bí mật của Ta là Kim Cương Du Già Nữ
(Vajrayogini). Chúng ta là những người bạn bất khả phân ly, giống như
hình với bóng. Con có gia đình và bè bạn, nhưng con đã rời bỏ kể cả thân
xác của con. Không có sự lựa chọn, con đã phải rời khỏi những người thân
và của cải mà mình đã có. Bây giờ con đã đến cõi trung ấm bardo, con
đang mang cả gánh nặng nghiệp quả trên vai. Nếu con muốn trở về đời sống
con người thì con nên tu học theo Chánh Pháp; Con nên rộng lượng bố thí
cho những người túng thiếu; Con nên đi hành hương chiêm bái những nơi
thiêng liêng; Con nên buông bỏ mọi tham dục thế gian và tăng trưởng sức
mạnh quán chiếu về chơn tánh.”
Bỗng nhiên bà Karma bắt đầu thấy
một cơn mưa lưỡi dao từ trời rơi xuống và một rừng gươm từ dưới đất mọc
lên. Những phần thân thể và những mảnh thịt phủ đầy cánh đồng. Karma
kinh hoàng và té xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh lại, bà nghĩ, “Mình đã
thực sự chết chưa?” Một lần nữa, Đức Tara Trắng giải thích “Con
đã để lại thân xác ở thế giới người sống. Một số người thân và bạn bè
đang thức canh chung quanh thi hài của con. Có vài người đang khóc và
gọi tên con. Những người khác đang bận rộn sửa soạn tang lễ. Cũng có
những người đang nói “Ồ, bà ấy là một vị Phật ẩn mình.”
Cuối cùng, bà Karma nhận ra sự
thật, bà nói, “Than ôi, bây giờ mình đã chết rồi!”. Điều này
khiến cho bà chấn động. Tâm tư của bà tràn ngập sự ân hận vì cả đời bà
đã không cống hiến cho việc tu tập. Khi bà bắt đầu nghĩ về những nghiệp
xấu mà mình đã tạo tác lúc còn sống, tất cả những hành vi xấu này vùn
vụt hiện ra một cách sống động trước mắt bà. Bà không thể thấy bất cứ
thứ gì ngoại trừ những nghiệp xấu của mình. Bà nghĩ, “Bây giờ mình
không thể thoát khỏi đây được nữa” bà than thở:
Hởi những bè bạn của tôi, hãy
cống hiến đời sống của bạn cho Chánh Pháp linh thiêng khi bạn còn tự
do.
Tài sản mà các bạn ra sức tích chứa không có giá trị gì cả
Hãy cúng dường chúng cho Tam Bảo.
Những hoạt động mà các bạn quá chú tâm không có mục đích nào cả
Hãy buông bỏ chúng để siêng năng tham thiền và cầu nguyện.
Những cuộc họp mặt của người thân và bạn bè cũng giống như những lữ
khách tụ họp
Hãy cắt đứt liên hệ với họ và về tu viện
Trong khi còn hưởng kiếp sống con người, các người nên cống hiến cuộc
đời mình cho Chánh Pháp.
Vì bạn không thể tin cậy một thứ gì khác,
Hãy loại bỏ sân hận, tham dục và ganh tị.
Hãy tụng kinh và trì Thần chú Lục-Tự,
Để thanh lọc thân, miệng và ý
Nguyện cầu cho tâm bạn an trụ trong thiền định!
Không thể kiểm soát mình bà hối
hận, khóc lóc và tự đánh mình, bà Karma nói với ĐứcTara Trắng, “Cô
ơi! Con không tu tập theo giáo pháp nhiều, cũng không tạo nhiều ác
nghiệp. Vậy mà con vẫn bị cơn bão lớn hành hạ. Con đã bị kẹt ở giữa
những tia chớp nhiều màu với tiếng la hét ‘Đánh! Đánh! Giết! Giết!’
giống như hàng ngàn tiếng sấm sét cùng lúc. Con đã đối diện với đủ loại
quái đản không thể tưởng tượng được. Tất cả những cái đó là gì?”
Đức Tara Trắng trả lời:
Cơn bão xuất hiện là sự chào
mừng dành cho con của các sứ giả Thần Chết. Những sinh linh trong những
hình dạng khác nhau là sự hiển lộ của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ ở
bên trong chính con. Họ phát ra những âm thanh vô thượng, nhưng vì những
cảm nhận xấu của con, nên con nghe thành “Giết! Giết!”. Hình ảnh họ vung
lên nhiều vũ khí khác nhau là dấu hiệu cho thấy những phiền não của con
đã được giải trừ tận gốc rễ. Nhưng con lại trông thấy chúng như một cơn
mưa vũ khí, vì những nhận thức của con đã biểu hiện như những kẻ thù
địch. Từ bây giờ trở đi con phải nghĩ là mình an trú trong những hình
ảnh và âm thanh đó, xem chúng như những hình ảnh và âm thanh của Đức
Phật.
Sự xuất hiện của ánh sáng nhiều
màu là ánh sáng của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ của chính tâm con.
Những ánh sáng năm màu là ánh sáng của năm bộ phái Phật. Vậy hãy nghĩ
rằng mình an trú trong những ánh sáng của các Ngài.
Tất cả những âm thanh là âm
thanh tự nhiên. Chúng không phải là một thực thể riêng rẽ mà là sự biểu
lộ của tính nhất như. Tất cả âm thanh, ánh sáng và tia sáng này xuất
hiện như sự tự xuất hiện của chính tâm con. Đừng xem những cảm nhận của
chính mình là kẻ thù địch.
Con không tạo nhiều nghiệp xấu.
Nhưng nhiều người trong thời đại suy thoái này có nguy cơ đọa vào địa
ngục vì họ tích lũy nhiều cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si, ganh tị,
kiêu ngạo và tạo quá nhiều bất thiện nghiệp trong kiếp sống của họ.
Con sẽ tái nhập thể xác của con
trong cõi người sống như một sứ giả trở về từ cõi chết. Vậy con phải
dũng mãnh lên để quan sát một cách cẩn thận những gì diễn ra ở đây. Con
phải ghi nhớ tất cả những gì mình trông thấy và nghe thấy, không được
quên. Bây giờ chúng ta hãy cùng qua bên đó.
Thoáng thấy Địa Ngục và những
sứ giả của Thần Chết
Tại một góc hướng Tây của cánh
đồng lớn, bà Karma trông thấy một người đầu nai kinh khủng, tay cầm dây
thòng lọng màu đen, với hai mắt trợn trừng, người đó đang đuổi theo một
bà già đeo đồ trang sức trên đầu. Bà Karma hỏi ĐứcTara Trắng “Trời
ơi! Người đầu nai kia là ai? Người phụ nữ bí ẩn đó là ai?”
Đức Tara Trắng đáp “Đừng sợ
người đầu nai đó. Vị ấy là một trong những biểu hiện các các vị Thần
cung điện ở trong đầu óc của chính mình. Các vị Thần có màu sắc, hình
dạng và kích cở khác nhau xuất hiện tùy theo tâm tánh của con người. Bà
già đó là người xứ Chenying thuộc tỉnh Kham, bà ta là vợ của viên thị
trưởng và đã âm mưu với chồng trong việc cướp của, giết người và săn bắn
thú vật. Đây là sự cảm nhận của bà ta về cõi chuyển tiếp này. Sau sự
kiện này bà ta sẽ bị xét xử và sẽ bị đày xuống địa ngục.”
Kế tiếp, bà Karma trông thấy một
chiếc cầu sắt khổng lồ bắt ngang qua một con sông chảy xiết được gọi là
Sông Lớn Luân Hồi (Great River of Samsara). Ở đầu phía đông của chiếc
cầu là một thành phố kỳ lạ, một phần của dân thành phố mà trong đó có
các Tăng, Ni, và những người tại gia, tất cả đều hoan hỷ, giàu có và đẹp
đẽ. Họ sống trong những lâu đài kỳ diệu được trang hoàng rực rỡ. Một số
người dành thời gian của mình để ca hát và nhảy múa một cách hoan lạc.
Những người khác thì dành thời gian của họ để cầu nguyện và trì Thần chú
OM MANI PADME HUNG. Nhưng lại có một số người lại bố thí không mệt mỏi
cho những người khác. Không ai có vẻ lo nghĩ hay đau khổ.
Tuy nhiên, phần còn lại của cư dân
trong thành phố này thì ngược lại, họ không có nơi để trú ẩn, và không
có thực phẩm để ăn. Họ liên tục khốn khổ vì đói và khát. Nhiều người đặt
hai tay lên trán như đang tìm kiếm thứ gì ở tận chân trời. Họ đang tuyệt
vọng để tìm dấu hiệu tốt nào đó cho thấy người thân của họ sẽ hồi hướng
công đức cho họ trong tang lễ để họ được gặp những tốt lành trong tương
lai. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những vị Thần Chết đến đưa nhiều người
đi khỏi nơi này.
Đây là địa điểm mà nhiều người
chết chờ đợi trước khi bị đưa đến Tòa Án của Đức Pháp Vương để được phán
xét.
Nhìn những sinh linh ở nơi này,
một Thần Chết giải thích cho Karma “Trong những người này, nhiều
người vui vẻ vì họ đã sống trong sạch và biết tôn trọng người khác.
Nhiều người tụng niệm và cảm thấy an lạc vì họ có năng lực kinh nghiệm
tâm linh mà họ đã đạt được khi còn sống ở thế gian. Ngay cả các vị Thần
Chết cũng không dám nhìn họ. Nhiều người có của cải vô tận và vẫn tiếp
tục cho và nhận, vì họ đã bố thí tất cả những gì họ có khi còn ở trên
trần gian.
“Những người khác phải chịu đói
khát vì họ đã không giúp đỡ hay tôn trọng người khác hoặc không bố thí
gì cả. Thay vào đó, họ phỉ báng, cướp bóc, và tấn công người khác trong
lúc còn sống. Họ đang chờ đợi hay tìm kiếm, mong người thân của mình sẽ
hồi hướng công đức cho mình. Không bao lâu nữa họ sẽ bị đưa đến tòa án
của Pháp Vương, nơi một số người sẽ được giải thoát và một số bị đưa vào
những cõi thấp.”
Sau đó, bà Karma đến thăm cõi ngạ
quỷ. Tất cả những sinh linh ở đây đều không y phục, bao tử của họ lớn
như thung lũng, tay và chân lại nhỏ như cọng rơm, cổ họng của họ hẹp như
một sợi lông đuôi ngựa. Vì quá khát nên lửa bốc ra ngoài miệng của họ,
cái đói không thể chịu nổi đang hành hạ họ.
Nhìn họ, một vị Thần Chết giải
thích với bà Karma “Những người này chưa từng có lòng quảng đại trong
cuộc đời của họ. Họ chưa từng cúng dường một cái gì hay bố thí cho những
người túng thiếu một cái gì. Họ chưa từng có những ý nghĩ cao thượng mà
chỉ có tâm tham dục sôi sục, tâm sân hận nóng cháy, tâm kiêu ngạo tràn
ngập, tâm si mê tối tăm, và tâm ganh tị bão táp. Họ cản trở người khác
cúng dường, bố thí, và họ không thể ăn uống, tất cả là vì sự keo kiệt
của họ.”
Bà Karma thấy Đức Phật Từ Bi đang
thăm các ma đói. Từ tay của Ngài, những dòng cam lồ tuôn chảy làm mát
dịu những sự khốn khổ của họ. Nhưng nhiều người trong số họ không thể
hưởng được dòng Cam lồ mà cũng không thể nhìn thấy vị Phật hay an trụ
được trước sự hiện diện của Ngài.
Sau đó, tại cổng của một chiếc
cầu, một cô gái trẻ hấp dẫn lúc múa hát lúc lại khóc lóc. Nữ Thần Tara
Trắng hỏi cô ta:“cô gái xinh đẹp kia, sinh quán và gia đình cô ở đâu?
Tại sao múa hát mà lại khóc? Cô sắp đi đâu, lên hay xuống?”
Cô gái đáp“Than ôi, con là
người ở vùng cao nguyên ở phía Nam Tây Tạng, thành phố nơi con ở là
Neudong. Cha con là Chogyal Tsering và Mẹ là Sechung. Tên của con là
Dorje Gyalmo, thung lũng quê con bị người Mông Cổ cướp phá, họ bắt con
về Mông Cổ, con chết vì bệnh nặng. Con đến đây và không còn cơ hội gặp
lại Cha Mẹ lần nữa. Đức Pháp Vương nói với con, “Con là người thuộc một
gia đình danh giá, có trí thông minh và không vị kỷ. Nhưng con quá quyến
luyến Cha Mẹ và tài sản của mình, thêm nữa, con vẫn còn tuổi thọ để được
hưởng. Vậy con hãy trở về để tái sanh là một "manmo" ( một loại vong
linh nữ)".
Đức Tara Trắng lại hỏi cô, “Tại
sao tâm con lại quá quyến luyến?” cô gái đáp, “Sau khi con chết,
thay vì những tài sản của con đem bố thí để tạo công đức, người ta lại
lấy bán cho một người đàn bà. Cho nên khi nhìn thấy sự khủng khiếp của
Thần Chết, con vẫn nghĩ về sự đau khổ này. Do luyến ái đó, vị Pháp Vương
truyền lệnh cho con tái sanh như một manmo.”
Cô gái khóc và xin Karma gởi những
lời sau đây cho Cha Mẹ mình: "Con là Dorje Gyalmo. Con quyến luyến
Cha Mẹ và đồ trang sức của mình. Thưa Cha Mẹ, xin Cha Mẹ cúng dường tất
cả của cải của con cho một vị Lạt ma để làm lễ cầu siêu và làm hàng trăm
lễ bánh "torma". Xin Cha Mẹ đãi mọi người bia "chang" và nhờ họ cầu
nguyện. Nếu có thể làm như vậy, con sẽ được tái sinh làm người thay vì
làm "manmo".
Trong lời kể của bà, Karma không nhắc về chuyến đi xuống những địa ngục,
nhưng thật sự bà có trông thấy vô số sinh linh đang chịu những sự đau
đớn không thể tưởng tượng được. Bà đã nhận được một số lời nhắn của vài
người gởi cho người thân còn sống của họ ở thế gian.
Bị gọi đến Tòa Phán Xét
Sau đó Đức Tara Trắng đưa bà Karma
đến cung điện của Pháp Vương của những Thần Chết. Năm bức tường bằng
đồng tâm bao quanh cung điện này. Có bốn cổng ở mỗi hướng, và tám quân
với hình dạng khủng khiếp bảo vệ mỗi cổng. Họ cầm những món vũ khí đáng
sợ và hét lớn: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!”
Ở trước cổng phía bắc có một cái
đài lớn bằng đá, ở trên đó bà Karma thấy những đống bộ phận thân thể.
Các tội đồ bị cắt thành từng mảnh bởi những bánh xe sắt có gắn vũ khí
bén nhọn, xoay tròn, từ trên trời rơi xuống người họ. Họ bị dập nát
thành đất bằng những thứ khí cụ mà quân đao phủ sử dụng theo lệnh của
các Thần Chết. Hoảng sợ và đau đớn, bà Karma gục xuống đất, Đức Tara
Trắng đỡ bà dậy và an ủi:
Những sinh linh này đang lãnh thọ
những quả báo của mình,
Nếu Đức Phật đích thân đến đây, Ngài cũng không làm gì được,
Vì họ đang chịu hậu quả nghiệp báo của họ, con đừng có buồn lo như vậy.
Con tim bà Karma đau đớn và ân hận,
bà thầm nghĩ, “Mình đã không nghiêm chỉnh tu học theo Chánh Pháp khi
còn sống ở nhân gian. Bây giờ Pháp Vương sẽ hỏi mình điều gì ? Lời phán
xét nào đang đợi mình đây ? Nếu có cơ hội trở lại cõi người, mình
sẽ giải thích cho mọi người biết về sự nghiêm khắc của luật nhân quả,
bằng cách kể cho họ chính xác những gì mình đã chứng kiến, mà không tô
vẽ thêm thắt . Mình sẽ hiến tặng tất cả những gì có cho mọi người, không
tích trữ nữa. Mình sẽ buông bỏ tất cả những hoạt động thế gian, mình sẽ
thiền quán về chơn tâm. Không luyến ái một người nào nữa. Mình sẽ hành
hương chiêm bái từ Tu viện này đến những am thất ẩn cư khác. Lúc nào
mình cũng sẽ quán tưởng trong tâm về vị Thầy của mình và sẽ liên tục cầu
nguyện đến Tam Bảo. Mình sẽ không bám giữ vào người thân và bạn bè nữa”.
Đúng lúc đó, bà Karma nghe một
tiếng nói lớn từ cung điện của Pháp Vương. Một quân canh đến và nói với
bà Karma và Đức Tara Trắng: “đó là dấu hiệu gọi bà đến Tòa Phán xét
của Pháp Vương.”
Trái tim của bà Karma đau nhói như
thể bị trúng một mũi tên. Bà bị sự ân hận hối tiếc của mình hành hạ vì
đã không chịu tu tập nghiêm chỉnh. Bà vừa khóc vừa nghĩ, “nhưng mình
đã không ngừng nghỉ nguyện cầu chư Phật, xin chư Phật từ bi để mắt đến
con”.
Đức Tara Trắng lau nước mắt cho
Karma rồi nói: “Con chưa từng bố thí tài vật nào cả, cũng chưa đạt
được chứng nghiệm thiền quán vững chắc. Nhưng tâm con trong sáng như một
tấm gương, không bị hoen ố vì ác nghiệp, con và Ta đã không tách rời
nhau trong một thời gian dài, vì cộng nghiệp và ý nguyện của chúng ta.”
Nắm tay bà Karma, Đức Tara Trắng
đưa bà đi qua cổng. Họ đi lên một cầu thang bằng đá lớn. Bà Karma run
rẩy sợ hãi, rồi họ bước vào một đại sảnh. Ở giữa đại sảnh là vị Pháp
Vương, bà Karma trông thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Guru
Rinpoche, Padmasambhava (Đại Sư Liên Hoa Sanh ). Ngồi trên một cái ngai
được nâng bởi bốn sư tử, Ngài mặc trang phục, đeo nhiều món trang sức
và cầm những khí cụ giống như Karma đã thấy trong bức tranh. Vừa trông
thấy Guru Rinpoche, thân và tâm Karma lập tức tràn ngập niềm tôn kính.
Bà thấy mình nổi gai ốc, những giọt nước mắt vui mừng trào ra, bà muốn
nhào tới sụp lạy trước Guru Rinpoche, nhưng kịp dừng lại vì sợ các vị
Thần phẫn nộ nam nữ đang đứng chung quanh Ngài.
Những vị Thần phẫn nộ này có hình dạng đáng sợ,
mặc những y phục gây sợ hãi và vung lên những khí cụ kinh khủng. Ở dưới
chân Guru Rinpoche và ở bên phải, là một vị Thần Chết có thân người đầu
bò. Vị này cầm tấm gương phản chiếu mọi hành động của những sinh linh
được trình bày trước Pháp Vương. Đứng bên cạnh vị đó là Thần Chết Đầu
Cọp cầm sổ ghi công và tội của các sinh linh. Ở bên trái của Guru
Rinpoche là Thần Chết Đầu Rắn, vị này giám sát hết tất cả những người có
mặt tại phiên tòa. Ở phía trước Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Heo, vị
này giữ sổ kết toán và thời biểu. Còn có nhiều Thần Chết có đầu của
những loài thú khác nhau và cầm đủ loại khí cụ.
Đức Tara Trắng nói với Karma, “Ở bên ngoài vị
ngồi giữa là Pháp Vương nhưng ở bên trong là Guru Rinpoche. Ở bên ngoài,
vị đứng bên phải Guru Rinpoche đang nhìn chúng ta với đôi mắt lồi và la
hét như sấm, “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!” là một Thần Chết, bên trong Ngài
là hình dạng phẫn nộ của Ngài Văn Thù (Manjushri) vị Phật của Trí tuệ.
Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ thoát khỏi nguy hiểm
và lo sợ. Tất cả các vị Thần Chết nam và nữ là các vị Phật hiền hòa và
phẫn nộ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ được tái sanh
vào những cõi cao. Con phải ghi nhớ những điều trọng yếu này. Con đã
không tạo nghiệp xấu nghiêm trọng nào, nên đừng lo sợ. Hãy đứng dậy và
làm lễ các Ngài, và phát nguyện cho mình và tất cả chúng sanh”.
Bà Karma đảnh lễ một lạy với lòng tôn kính, nhưng
trước khi đảnh lễ lạy thứ hai hay phát nguyện, vị Thần Chết Đầu-Rắn cản
bà lại. Vị này ra hiệu cho bà ngồi xuống ở một góc. Ngay sau đó vị Pháp
Vương lớn tiếng bảo các vị Thần Chết đang đứng trong sân của cung điện,
“Một người mới chết từ cõi người đang đến. Hãy đưa người ấy lại đây
ngay.” Trong sân vô số Thần cầm mọi loại khí cụ đứng dậy hô lớn
"HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!".
Ngay lúc đó có một người đàn bà
xuất hiện trong sân. Khi mới nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ này, bà ta cố
bỏ chạy, nhưng không có đường nào để thoát. Rồi bà tay vung gậy và trì
niệm Thần chú Lục tự: OM MAINI PADME HUNG. Ngay khi nghe tiếng niệm lục
tự đại minh chơn ngôn này, tất cả Thần Chết đều an tĩnh đứng tại chỗ. Đi
cùng với người đàn bà đó là một phụ nữ mặc áo choàng màu trắng. Tóc vị
ấy cột búi bằng một dây lụa đỏ và cầm một chuỗi hạt pha lê. Nắm tay
người đàn bà, vị ấy đưa bà vào cung điện. Bà được trả tự do, có vẻ các
vị thần chết không có quyền hạn gì để bắt giữ hay đe dọa bà. Nhưng khi
kiểm lại, các vị này thấy bà ta đã có nhiều công đức, như cầu nguyện
Phật Từ Bi, nhưng bà ta cũng đã tức giận lối cai trị bất công của chính
quyền. Vì lý do đó, bà ta sẽ tái sanh làm một con chim và sau đó
mới được tái sanh trong cõi làm người.
Rồi bà Karma nghe thấy một tiếng
nói lớn, Bà nhìn về hướng có tiếng nói và thấy một vị tu sĩ đội mũ. Vị
ấy nói với bà, “Giờ đây bà đã hiểu luật nhân quả; Bà đã trông thấy
mặt mũi của Pháp Vương; Bà đã chứng kiến những sự đe dọa của Thần Chết.
Ngươi phải nhớ chắc chắn những nghiệp quả và những lời dạy của Pháp
Vương. Bây giờ bà phải trở về cõi người. Những người của bà sắp bỏ cái
xác chết của bà rồi". Nói xong, ông biến mất trong làn gió nhẹ.
Sau đó Đức Tara Trắng thỉnh cầu với Pháp Vương:
"Thưa Đức Pháp Vương, xin nghe tôi nói
Karma đã thức tỉnh đến với Chánh Pháp
Do vì nhân duyên kết nối, bà ta đã thấy Ngài là Đức Guru Rinpoche.
Thể xác và thần thức của bà đã phân ly trước khi tuổi thọ chấm dứt
Vì những sự chấp thủ bà ta đã phải trải qua cõi chuyển tiếp này.
Bà ta đã thấy Pháp Vương vì ý nguyện trong quá khứ.
Bà đã chứng kiến sự sợ hãi về những Thần Chết, sự thật của luật nhân quả.
Bà đã sống bảy của loài người ở đây
Thể xác giống như căn nhà trống của bà đã chết ở thế gian
Nên bà được trả về như sứ giả của Ngài đối với những người dân của lục
địa Jamphu (Nam Thiện Bộ Châu)
Hoặc tái sanh trong cõi người
Hoặc được xếp vào hàng trí giả
Thưa Pháp Vương, bà ta sẽ đi đâu, xin Ngài hãy ban lệnh".
Đức Pháp Vương nhìn Karma và suy nghĩ một hồi rồi
nhìn vào tấm gương, Ngài kiểm lại những hành vi quá khứ của bà và nói "
Trước đây, Lingza Chokyi đã chết và sống lại vì các Thần Chết bắt bà
đến đây do lầm tên và lầm bộ tộc. Hai cô gái khác là Samten, người thị
trấn Dartsedo và Yungtrung, người tỉnh Kham, cũng được trở về thế gian.
Samten được trả về với lời dạy nghiêm khắc là cô phải tu tập theo Chánh
Pháp và không tạo ác nghiệp. Yungtrung được cho sống lại vì cô ấy có thể
tu tập chứng ngộ chơn tâm. Bây giờ ngươi sẽ được trở về Jambu để làm cho
người dân ở đó biết đến Chánh Pháp và cũng để chuyển những lời nhắn của
của các sinh linh trong Cõi Người Chết (World of Death) cho những thân
nhân của họ trong Cõi Người Sống (World of Living). Vì công đức và ý
nguyện của ngươi trong quá khứ, ngươi sẽ thành tựu những lợi ích lớn sau
khi tái nhập vào thể xác". Đức Pháp Vương ban cho Karma những lời
dạy chi tiết và tiên tri với thông điệp sau đây cho người dân lục địa
Jambu:
Nói với họ rằng, Ta là Pháp Vương đang ngự ở
đây.
Nói với họ rằng ở đây chúng ta có những cách thức kỳ diệu
Để biết người nào đã tạo nghiệp xấu hay nghiệp tốt.
Nói với họ rằng những người tôn kính Chánh Pháp sẽ thác sinh về cõi cao
hơn.
Nói với họ rằng những người tạo ác nghiệp sẽ đọa xuống địa ngục.
Các người ở lục địa Jambu,
Nói chung, phải tu tập theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Và đặc biệt làm theo những lời dạy này của Ta,
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương
Bên trong, Ta là Quán Thế Âm ( Avalokiteshvara), Đức Phật Từ Bi
Hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG, tâm chú của Bồ Tát Quán Thế Âm
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương,
Bên trong, Ta là Guru Rinpoche.
Trì niệm OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG.
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương;
Bên trong, Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hãy tu tập theo giáo lý của Đức Phật.
Hãy luôn làm mạnh tâm trí bằng những thiện nghiệp.
Bỏ ngay những nghiệp xấu dù là nhỏ nhất.
Quán tưởng vị Thầy của mình trên đỉnh đầu.
Phụng sự cho hết thảy chúng sanh
Bây giờ đã là giữa trưa (ở nhà của ngươi)
Với ý nguyện thanh tịnh, hãy nghĩ về nhà của ngươi.
Đến lúc này, nhiều người chết đã
được quân đao phủ đưa đến Tòa Phán Xét cầu xin bà Karma: “Bà là người
may mắn. Nếu bà trở về thế giới loài người, xin chuyển lời nhắn gửi của
tôi đến với người thân của tôi. Bảo họ hãy vì tôi mà tạo lập công đức
và phụng sự Tam Bảo, để giúp tôi giải trừ những đau khổ ở địa ngục,
không có Thần chú nào linh nghiệm như là Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn: OM
MANI PADME HUNG. Vì vậy, xin hãy trì niệm hay thỉnh cầu người khác cùng
trì niệm thần chú này mười ngàn biến. Xin khắc thần chú này trên đá và
chồng lên nhau thành một đống. In thần chú này lên trên vải và treo
chúng như cờ phướng. In thần chú này lên giấy và quay chúng như những
bánh xe cầu nguyện.”
Thần chú Lục Tự được khắc trên bánh xe cầu
nguyện và trên đá ở Tây Tạng
Bà Karma tái nhập thể
xác
Tiếp đó, bà Karma nghĩ:
“Bây giờ mình nên trở về thung lũng của mình.” Tức khắc bà thấy
mình tại Traphu, quê hương của bà.
Tại cửa nhà của mình,
bà trông thấy xác chết một con chó già. Mắt của nó lõm sâu xuống, và
nước dãi đóng quanh mõm nó. Bà Karma vừa sợ vừa kinh tởm. Thoạt tiên bà
muốn bỏ chạy, nhưng rồi bà nghĩ, “Mình có thể vào nhà bằng cách bước qua
xác con chó. Khi bà bước qua nó, thần thức của bà tức khắc nhập vào thể
xác của mình và bà trụ lại trong đó. Bà đã trông thấy thi hài của mình
như xác chết của một con chó.
Lúc đầu bà bất tỉnh và
có cảm giác như bóng tối lúc hoàng hôn. Sau một lúc bà từ từ tỉnh lại,
nhưng không thể cử động được, vì thể xác của bà không còn sức mạnh. Dần
dần trí nhớ của bà trở nên sắc bén hơn một chút. Khi cử động được một
ít, người ngồi canh xác bên cạnh bà thấy được cử động đó và ông la lớn "PHAT!"
ba lần một cách kích động. Tâm thức của bà vẫn còn bị ám ảnh bởi những
hình ảnh và những cảm xúc về nổi đau khổ ở địa ngục, nhưng tiếng la "
PHAT" làm cho chúng biến mất. Miếng vải che mặt bà rung động một
chút. Người đó tự hỏi, “Có khi nào ma nhập vào xác của Karma và khiến
bà trở thành quỷ nhập tràng không?” Ông mở tấm mạng và nhấn vào đầu
bà nhiều lần. Rồi ông bóp hai bàn tay bà nhiều lần, nhưng bà không đủ
sức để nhấn lại hay nói rằng mình vẫn còn sống. Sau đó kiểm tra vùng
ngực và thấy rằng hơi ấm vẫn còn ở đó. Ông gọi những người thân của gia
đình Karma: “lại đây! bà chủ đã sống lại rồi!”
Mẹ của bà Karma chạy
đến, khóc và nói, “Con gái của tôi, con đã trở về rồi phải không?”
mọi người nhanh chóng mở tấm vải liệm trên người của bà Karma. Vào lúc
đó, ông Trưởng Làng cũng đến, Ông ra lệnh đưa vợ mình sang chỗ khác và
cho bà uống sửa và mật ong, nhưng bà Karma không thể ăn hay uống một
chút gì trong một tuần. Người nhà nhỏ từng giọt nước vào miệng bà trong
những ngày kế tiếp, dần dần bà phục hồi sức khỏe và sắc diện.
Sau đó bà Karma và gia
đình thuê hai người thư ký để viết lại và chia làm làm hai phần tất cả
những lời nhắn mà những người chết đã nhờ Karma chuyển đến những người
thân của họ. Phần một, bao gồm những lời nhắn cho người thân ở tỉnh U
(trung ương), Tsang (miền Tây), và Lotrag (miềnNam) là những tỉnh của
Tây Tạng. Phần hai là những lời nhắn cho người thân ở Mông Cổ và ở tỉnh
Mon. Bà Karma cũng định đi khắp xứ để phổ biến bức thông điệp của vị
Pháp Vương cho quần chúng.
Nhưng không may, một
phụ nữ quý tộc có quyền lực và là Mẹ của Choje’i Trung, nói “Karma là
người thuộc gia đình hạ tiện. Bà ta trở về từ cõi chết là để bắt sinh
mạng của người khác". Một người tin vào lời của bà Choje’i Trung và
cùng nhau nói, “Karma là quỷ!” Thay vì nghe những gì Karma kể, họ
lại tấn công bà.
Lúc đó, ông Trưởng Làng
quyết định, “ trong thời điểm này, tốt hơn nên giữ bí mật việc chết
đi sống lại này" và mọi người đồng ý như vậy.
Sau đó một, bà Karma
học giáo lý từ một đại sư cao đức là lạt ma Ponlob Jetrung Rinpoche. Khi
thấy bà Karna tu tập có kết quả, Ngài ngạc nhiên nói: " Ngay cả một
người đã tu học lâu năm cũng không dễ đạt được những chứng nghiệm như
vậy.” Nghe Ngài nói thế, người hầu Karma vô tình tiết lộ “Lẽ tất
nhiên là bà ấy dễ chứng nghiệm chơn tánh tối thượng, vì bà ấy trở về từ
Cõi Chết mà".
Vị lạt ma đáp, “Tôi
cũng đã ba lần trở về từ Cõi Chết. Chúng ta hãy so sánh xem những kinh
nghiệm của chúng ta có giống hay không. Xin bà hãy kể cho chúng tôi biết
những gì bà đã trải qua.”
Bà Karma liền kể lại
những kinh nghiệm của mình. Những người đang học giáo lý từ lạt ma, cũng
đến nghe bà kể chuyện. Vị lạt ma cũng như mọi người đều rớt nước mắt khi
nghe câu chuyện của bà. Trọn một ngày thay vì nghe lạt ma giảng giáo lý
như thường lệ, mọi người lại lắng nghe bà Karma kể lại chuyến viếng thăm
Cõi Người Chết của mình.
Hoàn toàn tin lời kể
của bà Karma, vị Thầy nói, “Tất cả những điều bà kể đều đáng tin cậy.
Trong thung lũng này, người ta không biết giá trị của bà. Con phải đi
khắp nơi để làm lợi ích cho mọi người. Tôi sẽ cung cấp cho bà phương
tiện di chuyển, người hầu và vật dụng. Con nên đi khắp nước.”
Tuy nhiên, bà Karma vẫn
dành phần lớn thời gian ở với Mẹ của mình. Khi đến trước vị Pháp Vương,
bà sợ hãi những Thần Chết đến mức trong lúc bối rối, đã chỉ cầu mong cho
mình sớm đắc Phật mà không nhớ đến việc cầu nguyện cho lợi ích của hết
thảy mọi người, thêm nữa, bà quá quyến luyến người Mẹ của mình. Vì hai
lý do này mà bà Karma không tạo được công đức lớn trong việc phụng sự
chúng sanh.
Không sợ hãi kẻ thù:
kinh nghiệm của Denma Sangye Seng-Ge
Chuyện delog của Denma
Sangye seng-ge đáng chú ý về những ý kiến cho rằng chúng ta có thể làm
nhẹ bớt những sự sợ hãi, ảo giác và nhớ đến việc an trụ trong trạng thái
thiền định.
Denma kể rằng sau khi
rời khỏi thể xác, ông du hành khắp vũ trụ chỉ trong một khoảnh khắc. Ông
cảm thấy mình chứng kiến tất cả những sự kiện của quá khứ, hiện tại, và
vị lai cùng một lúc. Dường như ông có một thân ánh sáng và có thể đi lại
bằng ánh sáng của thân thể. Ông cảm thấy mình được bao bọc trong những
tia sáng năm màu. Ông di chuyển thật dễ dàng với tốc độ của ánh sáng và
có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn.
Nắm chặt một luồng ánh
sáng năm màu xuất hiện ở đằng trước mình, Denma hô lớn "HIK" bảy
lần. Ông bay lên trên không. Ông thấy mình có mặt ở Cõi Cực Lạc của Đức
Phật. Ở đó ông thấy một cảnh đẹp nhất với những tòa lâu đài kỳ diệu mà
trong đó có vô số các bậc trí giả giác ngộ. Ông được một lạt ma đón tiếp
và hướng dẫn.Vị tu sĩ này nói: “Con đã không tạo tác các ác nghiệp
trong bảy kiếp.
Người may mắn, đừng xao lãng mà hãy nhìn vào bản chất của tánh giác
tuyệt đối.
Trong một lúc, Denma
nhìn thấy năm bộ phái Phật và những cõi tịnh độ của các Ngài. Kế đó năm
vị Phật nguyên thủy xuất hiện thành vị Pháp Vương và các Thần Chết. Ông
rơi vào những ảo giác nhiều lần. Có lúc ông thấy những người dân làng
của mình và không biết là mình đã chết hay còn sống. Ông thấy có một
tháp bằng pha lê, mà thật ra là thể xác của mình, ở trên đó bám đầy
những con ếch. Mọi người vừa khóc vừa nhiễu quanh tháp pha lê. Do sự
khóc than của họ, ông cảm thấy những trận mưa máu và mủ đang rơi xuống
mình.
Denma trông thấy hai bộ
những vòng hình quả cầu, mỗi bộ có năm vòng, mỗi vòng có màu ánh sáng
khác nhau. Một bộ chứa năm vòng tròn lớn, và bộ kia chứa năm vòng nhỏ.
Chúng là biểu trưng cho năm trí tuệ nguyên thủy, vốn là sự nhận ra chơn
tánh từ năm loại phiền não tham, sân, si, ganh tị và kiêu mạn.
Sau đó, Denma cố gắng
tìm hiểu mình đã chết thật hay chưa. Cuối cùng ông đi đến kết luận rằng
mình đã chết vì trông thấy những dấu hiệu sau đây: Ông có thể đi qua một
lỗ kim và qua những lỗ rất nhỏ trong một căn lều; Những bước chân của
ông không để lại dấu vết trên cát ở bờ sông; Thân thể của ông không có
bóng phản chiếu trong nước, cũng không có bóng đen trong ánh sáng mặt
trời, mặt trăng; Ông muốn được ăn nhưng không ai quan tâm tiếp thức ăn
cho ông; Ông đến gần những người thân và gọi tên họ nhưng không ai trả
lời; Khi nhìn vào mặt người khác, dường như mặt họ bị một mạng mỏng và
tối che lại; Ông thấy Mẹ của mình trào nước mắt và đây là điều bất
thường đối với cá tính của bà, và bà nói “Bây giờ tôi chỉ muốn chết.”
Biết là mình đã chết
rồi, buồn bã và sợ hãi, Denma cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi (Quán Thế
Âm). Tức khắc vị Phật xuất hiện trước mắt ông, dạy giáo lý chi tiết và
gia hộ cho ông.
Tuy nhiên tâm thức của
Denma trở nên xao lãng với những ảo tưởng phàm tục, và ông đã gặp thêm
những chướng ngại trên chuyến hành trình của mình. Ông cảm thấy mình bị
một cơn bão nghiệp quả xô đẩy dồn dập. Ông nghe tiếng rống của những dã
thú nổi giận. Nhưng cuối cùng ông nhớ ra rằng những ảo giác này chỉ là
năng lực biểu lộ của tánh Không.
Kế đó, ông thấy ánh
sáng trắng và đỏ cản đường mình, từ phía sau, một cơn mưa vũ khí ập đến.
Khi ông nhớ ra rằng chúng là ảo ảnh, chúng liền trở thành năng lực tự có
của tánh giác nội tại của mình.
Kế tiếp, ông thấy mình
đi theo một con đường núi cao, dốc và hẹp với những tảng đá đỏ và dài vô
tận. Ông thấy bên dưới là một dòng sông cuốn những tảng đá trôi đi. Ông
đi dọc theo đường núi bằng cách bám lấy những bụi cỏ. Nhiều người đã rơi
xuống sông và ông nghe tiếng kêu khóc của họ. Một lần nữa, ông nghĩ về
tánh Không của mọi sự vật, những hình ảnh đáng sợ này lại biến đi.
Sau đó, ông cảm thấy
mình ở một nơi tối tăm và có đầy những con cầm thú. Ông nghe một giọng
nói, “Đừng xao lãng! Đây là cõi súc sinh.” Ông niệm “OM MANI
PADME HUNG”. Bỗng nhiên các vị Phật và các vị lama hiện ra đầy trong
không gian chào đón ông. Dường như khắp nơi vang tiếng tụng niệm.
Kế tiếp, ông thấy mình
quyến luyến người thân và tài sản trong cõi sống. Ngay lúc đó, ông nghe
giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là cõi chết. Không có người thân
hay tài sản nào có thể giúp được con nữa. Đó là sự biểu lộ của tánh
Không. Hãy quán niệm tánh Không và không để cho tâm con bị xao lãng.”
Khi ông nghe được điều này, tất cả mọi chấp thủ nơi ông liền tan biến.
Một lần nữa, ông lại
thấy mình đi qua một con đường đá hẹp, đầy nước lũ, lửa và bão tố. Ông
đi tới đỉnh của con đường, nhưng vì mưa bão nên ông không thể đi lên hay
lui lại được. Ông đi vào một ngôi đền và trông thấy nhiều người ở đó,
gồm nhiều người ông đã quen biết khi ông còn sống. Có một số người hạnh
phúc và đang thụ hưởng cuộc sống họ, một số khác thì đói khát và đau
khổ. Nhiều người đang ca hát và người khác thì than khóc. Vì một số
người từ thế gian bị đưa đến đây do các vị sứ giả Thần Chết bởi sự nhầm
lẫn nên phải đợi chờ cho đến khi tuổi thọ của họ chấm dứt trước khi họ
có thể được tái sanh. Những người khác đến đây sớm vị họ chết trong
những tai nạn bất ngờ. Cũng có những người cố bám vào đời sống hay bị
kẹt ở đây thay vì đi đến nơi kế tiếp của họ, vì họ còn quyến luyến đời
sống thế gian của mình. Người giàu có bám vào đời sống ở đây vì họ quyến
luyến tài sản của họ. Những người yêu nhau còn bám ở đây vì quyến luyến
vào những người yêu của họ. Các nhà cai trị còn bám ở đây vì họ còn chấp
thủ vào quyền lực của mình. Người nghèo bám ở đây vì họ bám luyến vào
túp lều và bát ăn xin của họ. Người sân hận bám ở đây vì họ muốn trả thù
những kẻ địch của họ. Những người khác đợi chờ ở đây để người thân và
bạn bè trong cõi người tạo công đức và hồi hướng cho họ trong những lễ
cúng và do đó giúp cho hành trình của họ trong cõi chuyển tiếp này được
dễ dàng. Tất cả những người này đã không tạo những nghiệp tốt lắm hoặc
xấu lắm để có thể đưa họ nhanh chóng đến nơi cuối cùng của họ.
Sau đó Denma cảm thấy
mình lên đến đỉnh Đèo Phủ Cát của cái chết, nơi được trang trí với những
đống sọ người và sọ súc vật. Ông nghe những tiếng nói báo thù phát ra từ
những chiếc sọ này. Từ đó ông thấy phía trước là Cánh Đồng Chết (Field
of the Death) bao la và kinh khủng. Rồi ông cảm thấy mình đang rời khỏi
Cõi Người Sống ở phía sau. Ông bỗng bị chấn động và đau đớn, sợ hãi và
buồn khổ, cứ như thể tim và phổi ông rớt xuống đất. Một lần nữa, ông
nghe thấy một tiếng nói từ rất xa vọng lại, “hãy quán niệm vào chơn
tánh chớ nên xao lãng.”
Kế đó, Denma cảm thấy
mình đang đi qua Cánh Đồng Chết Nhiều Màu (Colorful Field of the Death),
một cánh đồng cát với những cơn bão cát. Cánh đồng có đầy những hình ảnh
đáng sợ và những âm thanh đau đớn. Ở phía trước ông trông thấy con đường
ánh sáng nhiều màu khác nhau. Từ phía sau, ông cảm thấy mình bị cơn bão
nghiệp đẩy đi tới trước, ở bên phải ông thấy bóng tối, ở bên trái ông
thấy ánh sáng hơi trắng. Một lần nữa ông lại nghe giọng nói của Đức Phật
Từ Bi, “Đây là Cánh Đồng Chết nhiều Màu. Những sinh linh ở đây chịu
đau khổ vì đã tạo nghiệp xấu trộm cướp.”
Rồi ông cảm thấy mình
băng qua Dòng Sông Đỏ Đáng Sợ của Cái Chết, cuồn cuộn những đợt sóng tia
chớp. Trên dòng sông có sáu chiếc cầu đáng sợ. Ở hai bên bờ sông các
sinh linh đứng chen chúc nhau, họ ở dưới quyền chỉ huy của các Thần Chết
đang cầm đủ loại vũ khí. Ông lại nghe thấy tiếng nói của Phật Từ Bi “Con
đừng xao lãng, hãy quán niệm về chơn tâm”. Tức khắc ông bay qua bên
kia sông như một chim đại bàng.
Ở bờ sông bên kia ông
thấy Awa Đầu-Bò, một trong những vị phụ tá chính của Đức Pháp Vương của
những Thần Chết. Vị Thần này đang ngồi trên một ngai bằng những sọ người
và sọ thú vật ở giữa những quân đao phủ. Họ có thân người với đầu của
những loại thú khác nhau, xung quanh là những đám đông sinh linh, nhiều
người đang hoảng sợ và kêu khóc hoặc bị tra tấn, những người khác thì
lại vui vẻ và di chuyển đây đó bằng phương tiện kỳ diệu.
Cuối cùng, Denma đi tới
một cung điện được làm bằng vật liệu quý báu đặt giữa một vầng hào
quang, trong đó các vị Thần xuất hiện. Ông nghe thấy tiếng nhạc của chư
thiên biểu diễn. Vị Pháp Vương của những Thần Chết đang ngồi trên ngai
được nâng bởi một con voi, một con ngựa, một con công, và một con chim
hai đầu được gọi là shang-shang. Pháp Vương có bốn đầu và bốn tay, Ngài
mặc y phục Báo Thân, hai tay ở trên của Ngài cầm một tấm gương và một
cuốn số, hai tay ở dưới bắt ấn thiền định và cầm Bánh Xe Luân Hồi. Đứng
xung quanh Ngài là các vị Thần Chết với thân người và đầu thú.
Sau đó Pháp Vương hỏi
Denma về cuộc đời và việc làm của ông. Để trình bày sơ lược về mình, ông
hát bài ca vô úy như sau
" OM MANI PADME HUNG!
Tôi là một hành giả đã nhận ra trạng thái bất nhị.
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù chấp thủ nhị nguyên.
Tôi là một hành giả đã nhận ra chơn tánh tối thượng
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù vũ khí phát sinh từ chơn không
Tôi là một hành giả đã nhận ra trí tuệ được thành tựu tự nhiên.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của các Thần Chết được tạo ra từ
năm cảm xúc độc hại của tôi.
Tôi là một hành giả đã thoát khỏi mọi mong cầu và nghi ngờ.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của Thần Chết
Tôi là một hành giả đã nhận ra thật tánh.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của sắc tướng huyễn ảo của cõi
trung ấm".
Đến đây, vị Thần Awa
Đầu-Bò liền chém Denma bằng thanh gươm của mình. Nhưng lưỡi gươm đi
xuyên qua người của Denma mà không gây thương tích nào cả, giống như thể
chém vào không khí vậy. Ngạc nhiên, tất cả các vị Thần Chết lên tiếng
ngợi khen ông : “Ha! Ha!”
Đức Pháp Vương cũng
khen Denma rằng: “Vị hành giả tuyệt hảo này nói đúng chân lý”.
Sau đó Demma đi qua nhiều địa ngục khác để giúp giảm bớt những đau khổ
cho những sinh linh ở đó rồi tái nhập về thể xác để chuyển những lời
nhắn cho những người ở trần gian.
Vào thăm 18 Cõi Địa
Ngục: Kinh nghiệm của Tagla Konchog Gyaltsen
Khi Tagla Konchog
Gyaltsen rời khỏi thể xác mình, ông thấy bầu trời hướng Tây có đầy những
đám mây màu đỏ nhạt. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đó không phải là mây,
đó là cơn bão của Đèo Núi Sa Mạc Đỏ phân chia Thế giới của người Sống và
Thế giới của người Chết. Con có thể vượt qua nó dễ dàng bằng năng lực
tâm linh của chính con.” Tagla cầu lực gia hộ của chư Phật và các vị
đạo sư để vượt qua đường đèo dễ dàng. Tức khắc, một thảm ánh sáng trắng
từ hướng Nam trải dài đến chỗ ông. Trên đó, ông thấy Đức Phật Từ Bi và
hình dạng phẫn nộ của Đức Guru Rinpoche cùng với nhiều vị Thần. Vị Thần
Phẫn Nộ đập đèo núi ba lần bằng một lá cờ cầu nguyện khổng lồ và đường
đèo sụp xuống.
Tagla lại trông thấy
lửa che phủ bầu trời. Đất đầy máu tuôn trào và sắt nóng chảy. Vị Thần
Bảo Hộ Trắng nói, “Đây là Dòng Sông Nâu Không Thể Vượt Qua của Người
Chết. hãy cầu nguyện vị Thần Bảo Hộ của mình". Tagla cầu khẩn các vị
Thần Bảo Hộ và các vị Lạt Ma của mình. Bỗng ông nghe một tiếng sấm lớn ở
hướng Nam. Ở đó ông thấy Đức Phật Từ Bi, sáng rực như núi tuyết được rọi
sáng từ hàng ngàn tia sáng của mặt trời và ở giữa một vầng hào quang ánh
sáng cầu vồng cùng một trận mưa hoa nhiều màu khác nhau. Tagla thấy mình
ở trên một chiếc thuyền cùng với nhiều người trẻ đang cầm những lá cờ
cầu nguyện và niệm chú OM MANI PADME HUNG. Tức khắc ông hoan hỷ vượt qua
bên kia sông cùng với họ. Tagla cảm thấy Đức Phật Từ Bi, Guru Rinpoche,
những lá cờ cầu nguyện, và những vị Lạt Ma đều hợp nhất bất khả phân.
Nhờ chứng kiến những oai lực kỳ diệu như vậy mà thân và tâm của Tagla
tràn ngập niềm tôn kính vô biên.
Một lần nữa, Tagla bị
đẩy về phía trước bằng nghiệp lực của mình, và ông bị đưa đến một cánh
đồng lớn chìm trong bóng tối. Bóng tối này được điểm xuyết bằng những
tia chớp và những tia lửa đỏ. Đây là Cánh Đồng Xám Bao La của Người
Chết. Như vị Thần Bảo Hộ Trắng đã dạy, Tagla cầu nguyện để có thể vượt
qua cánh đồng một cách dễ dàng. Ông thấy một hành giả ẩn tu cao cấp đi
tới cùng với một đoàn hành giả và tu sĩ, tay họ cầm những lá cờ cầu
nguyện khổng lồ và miệng niệm “OM MANI PADME HUNG”. Đi theo họ,
Tagla vượt qua cánh đồng trong một khoảnh khắc.
Sau đó Tagla cảm thấy
mình đang ở bên ngoài bức tường khổng lồ, kỳ lạ của cõi địa ngục. Vị
Thầy chính của Tagla là Đại Sư Pema Dechen cùng với nhiều vị Lạt Ma
trong hình dạng tu sĩ và hành giả ẩn tu xuất hiện trước ông. Các vị này
đang quay bánh xe cầu nguyện với bàn tay phải và cầm những là cờ cầu
nguyện to lớn bên tay trái. Thần Bảo Hộ Trắng và Hắc Quỷ đều đã biến
mất.
Đại Sư Pema Dechen nói
với Tagla, “Con phải vào thăm địa ngục để có thể kể lại cho mọi người
biết về địa ngục khi con trở về Cõi Người Sống. Người ta sẽ tìm hiểu và
tin tưởng rằng địa ngục có thật, và sẽ có cảm hứng để tu tập theo Chánh
Pháp. Nhưng con không thể tự mình đến địa ngục mà không dựa vào oai lực
của Ta. Hãy cầu nguyện Đức Phật Từ Bi và đi theo Ta.”
Với sự hướng dẫn của vị
Thầy, Tagla vào thăm mười tám địa ngục khác nhau, trong mỗi địa ngục, vô
số sinh linh bị hành hạ đủ loại đau khổ. Những sự đau khổ này là hậu quả
của những cảm xúc tiêu cực và những ác nghiệp mà họ đã tạo tác trong lúc
còn sống.
Trong mười tám địa ngục
này, tám địa ngục đầu tiên là những địa ngục nóng (hỏa ngục):
1. Trong địa ngục sống lại: trên nền sắt nóng
cháy, các sinh linh không ngừng giết lẫn nhau với lòng sân hận, sau đó
sống lại và chịu đau khổ như vậy bất tận.
2. Trong địa ngục đường vạch đen: trên nền nóng bỏng, những đao phủ vẽ
những đường lằn trên thân thể của những tội đồ rồi cưa thân thể của họ
theo đường vạch đó thành từng mảnh bằng những lưỡi cưa nóng cháy, và các
tội đồ bị cưa như thế vô số lần.
3. Trong địa ngục giã nát: các sinh linh bị liệng vào những cối sắt nóng
khổng lồ và bị giã bằng chày nóng cháy không ngừng.
4. Trong địa ngục gào thét: các tội đồ bị nướng trong những bức tường
sắt nóng cháy và gào thét không ngừng nghỉ.
5. Trong địa ngục gào thét lớn: các sinh linh bị giam trong bức tường
kép nóng bốc lửa, liên tục gào thét vì quá đau khổ.
6. Trong địa ngục nung nấu: các sinh linh bị nấu trong nước đồng sôi.
7. Trong địa ngục nung nấu nhiều: các sinh linh bị thiêu đốt trong những
nhà bằng sắt và bị đâm bằng chĩa ba nóng bốc lửa và bị gói lại bằng
những miếng sắt nóng.
8. Trong địa ngục đau khổ cùng cực: các tội đồ bị thiêu đốt trong một
quả núi sắt nóng cháy, và miệng của họ bị rót nước đồng sôi. Người ta
chỉ nghe thấy những tiếng kêu la đau đớn của họ mà không thể nhìn thấy
họ ở giữa những ngọn lửa nóng.
Kế tiếp là tám địa ngục
lạnh, nơi những tội đồ phải trần truồng để chịu cái lạnh khủng khiếp:
(1) địa ngục lạnh phồng da, (2) địa ngục phồng nổ, (3) địa ngục răng đập
vào nhau, (4) địa ngục than khóc, (5) địa ngục la khóc, (6) địa ngục
thân thể nứt nẻ giống như hoa súng, (7) địa ngục thân thể nứt nẻ giống
như hoa sen, (8) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen lớn. Cuối
cùng là hai loại địa ngục phụ: (1) trong những địa ngục bên cạnh này,
các tội đồ rơi vào những hố than nóng hay những vũng lầy dơ bẩn, đi qua
những cánh đồng lưỡi dao hay rừng lưỡi gươm, và bị đâm bằng những vũ khí
sắc nhọn của Đồi Cây Sắt, và bị những con kên kên, hay những người nam
nữ ăn thịt. (2) Trong địa ngục ảo ảnh, các sinh linh tái sanh vào những
nơi và những vật khác nhau, như đá, cột nhà, bức tường, và cả những món
đồ đạc và bị kẹt ở đó trong một thời gian dài.
Trong mỗi cõi địa ngục,
Đại Sư Pema Dechen nhìn thấy nguyên nhân của sự chịu khổ của mỗi chúng
sanh và giải thích cho Tagla biết. Ngài cũng nói về thời gian mỗi chúng
sanh phải chịu khổ và cách giảm bớt nỗi khổ của mình. Trước khi nghiệp
quả xấu của họ chấm dứt họ phải sống trong địa ngục, những tội đồ chịu
khổ ở đây sẽ không chết vì sự hành hạ, vì sự chịu đau đớn là số phận mà
họ phải chịu.
Do oai lực của Đức Phật
Từ Bi và Đại Sư Pema Dechen, nhiều sinh linh có thể nhớ lại kiếp trước
của mình ở trên thế gian. Tagla khuyến khích nhiều người gởi lời nhắn về
hoàn cảnh đau khổ của mình cho những người thân ở thế gian và cầu xin
thân nhân tạo lập công đức để giải trừ nghiệp quả xấu cho cả kẻ còn
người mất.
Trong lời kể của ông,
Tagla đã nói ra tên của nhiều người ở miền Đông Tây Tạng, đang chịu khổ
trong những địa ngục khác nhau. Ông mô tả sự đau khổ của họ và những lời
nhắn gởi người thân của họ. Có những trường hợp Tagla không trông thấy
người gởi lời nhắn mà chỉ nghe tiếng của họ nói với mình.
Ví dụ, một nhóm tội đồ
nói, “Làm ơn chuyển những lời nhắn sau đây cho những người thân của
chúng tôi. Xin hãy thân cận với người thật sự có đạo tâm tu hành. Xin bố
thí thực phẩm và vật dụng cho những người và thú vật đói khổ và nghèo
túng. Xin khắc chạm câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên những tảng đá
và in trên những tấm vải, rồi trương lên làm những lá cờ cầu nguyện. Xin
hãy mua chuộc sinh mạng của những con vật ở lò sát sinh để phóng sanh
chúng. Xin làm lễ cúng và thiêu các món ăn và nước cho các sinh linh
đang chịu khổ trong cõi âm. Xin hãy cúng dường nhang đèn cho các vị Phật
và làm bánh xe cầu nguyện. Xin hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG bất cứ
khi nào nói đến tên hay nhớ đến chúng tôi.”
Rồi một vị Thầy khác
của Tagla là Ngài Tendzin Dargye xuất hiện và nói, “Bây giờ con nên
đi đến Toà Phán Xét của vị Pháp Vương của các Thần Chết.” Ngay lúc
đó Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen xuất hiện trở lại hai bên ông và mỗi vị
cầm một tay ông. Họ đưa ông qua một cổng sắt lớn được những con thú đáng
sợ canh phòng. Ở bên trong, Tagla thấy Vị Pháp Vương ở trong một khối
cầu lửa khổng lồ. Ngài có bốn mặt đen với hai tay, tay phải cầm một tấm
bảng, tay trái cầm một thòng lọng đen, đứng trên một con trâu có vẻ dữ
tợn, Ngài trông thật khủng khiếp. Tháp tùng với Ngài có mấy trăm ngàn
Thần Chết, kể cả Awa Đầu-Bò, vị Thần giữ tấm bảng. Thần Ác Đầu Rắn giữ
cái cân; và Thần Đầu-Khỉ giữ sổ sách. Tất cả các vị đều la to: “HUNG!
HUNG! PHAT! PHAT!”
Thần Bảo Hộ Trắng và
Quỷ Đen đưa Tagla đến trình diện vị Pháp Vương và hướng dẫn ông kể lại
những việc làm của mình ở thể gian cho Pháp Vương nghe. Tagla kể ra
những công đức mà mình đã tạo lập. Pháp Vương nói, “Loài người các
ngươi chỉ giỏi nói dối. Làm sao biết được ngươi đang nói sự thật ?”
Rồi vị Pháp Vương ra
lệnh cho Awa Đầu-Bò kiểm lại những hành vi của Tagla qua tấm gương,
trong đó những hành động của mỗi sinh linh đều xuất hiện một cách rõ
ràng. Thần Ác Đầu-Rắn cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của Tagla trên một
cái cân. Thần Trẻ Mặt Khỉ kiểm tra lại những hành động của ông bằng cách
đọc bản liệt kê trong cuốn sổ. Tất cả họ đều hỗ trợ lời khai của Tagla.
Vào lúc đó, bỗng Quỷ
Đen đứng dậy và la lớn, “Ha! Ha! Ta phản đối kết quả tìm được của mấy
ông”, rồi vị này dốc ngược cái túi đeo trên vai của mình đựng những
viên sỏi tượng trưng cho ác nghiệp của Tagla. Nhưng chỉ có tám viên sỏi
đen rơi ra ngoài. Đến lượt Thần Bảo Hộ Trắng hô lớn Ha! Ha! và
xuất trình một núi sỏi trắng làm bằng chứng cho những thiện nghiệp của
Tagla.
Lúc đó, Tagla thấy Pháp
Vương xuất hiện trong hình dạng Đức Phật Từ Bi. Tám vị Thần Chết chính
yếu của Tòa Phán Xét cũng xuất hiện như tám vị Bồ tát.
Từ bên phải của Pháp
Vương, một thảm ánh sáng trắng trải dài về hướng Tây. Pháp Vương nói, “Theo
con đường ánh sáng này, con có thể đi đến cõi Cực Lạc. Nhưng con phải
trở về thế gian như một sứ giả của Ta để làm lợi ích cho mọi người.”
Vị Pháp Vương bảo Tagla kể cho người thế gian biết những gì ông đã thấy
trong cõi trung ấm và chuyển những lời nhắn của các sinh linh ở địa ngục
cho mọi người thân của họ ở cõi thế gian. Tagla không muốn trở về vì ông
đã già rồi, nhưng cuối cùng ông cũng tuân lệnh Pháp Vương.
Bỗng nhiên ông thấy một
tháp màu trắng phủ tuyết và ông nhập vào trong đó. Cái tháp này thật ra
chính là thể xác của ông. Tức khắc sự cảm nhận thế gian trở nên sống
động đối với ông. Dần dần sức khỏe của ông phục hồi và ông trở lại với
đời sống bình thường.
Tagla đã mang lợi ích
đến cho nhiều người bằng việc dạy đạo và hướng dẫn cầu nguyện cũng như
hành thiền trong nhiều năm. Rồi trong một lễ cưới của một người thân,
khi nghe tin một ngàn năm trăm con thú bị làm thịt để thếch đãi, Tagla
quá đau buồn và đột ngột qua đời. Lần này ông không trở về thế gian nữa.
Xao
lãng với những ảo ảnh: Kinh nghiệm của Dagpo Trashi Namgyal
Câu chuyện delog của
Dagpo Trashi Namgyal minh họa một cách sống động về sự kiện trong cõi
trung ấm, sự chú tâm có thể biển đổi đột ngột và nhanh chóng.
Dagpo tự làm phép
chuyển di thần thức phowa cho mình và thần thức của ông đã thoát qua
đỉnh đầu. Rồi ông trông thấy một ánh sáng giống như một tấm mền đang
trải rộng ra. Ông đã thác sanh đến một cõi tịnh độ. Trong cõi tịnh độ
này ông thấy chư Phật, các Thiên nữ dakini, và các vị lạt ma. Ông được
hưởng những món ăn và đồ uống thanh tịnh, âm nhạc du dương và những vũ
điệu hỷ lạc.
Trong cõi tịnh độ này,
ông gặp một lạt ma, vốn là một vị Thần bảo hộ của mình. Vị lạt ma hỏi
những câu hỏi và ông trả lời. Nhưng tâm của Dagpo bất ngờ xao lãng và
ông trông thấy một đường đèo núi cao không thể tưởng tượng với những lá
cờ cầu nguyện ở trên đỉnh. Ông trông thấy một cánh đồng khổng lồ, và ở
phía dưới cánh đồng là một dòng sông nâu đen to lớn đang chảy xiết. Trên
con sông có sáu cây cầu, và bờ bên kia là một thành phố lớn.
Rồi ông cảm thấy mình
đang nói chuyện với vị lạt ma. Nhưng tâm ông trở nên xao lãng, và ông
bắt đầu thấy những ảo ảnh về sự đau khổ trong địa ngục.
Ông trở lại với cảm giác mình đang nói chuyện với vị lạt ma bảo hộ của
mình, nhưng một lần nữa tâm ông lại/ bị xao lãng. Ông thấy những Thần
Chết đưa nhiều sinh linh vào địa ngục.
Có những lúc đang thảo
luận về giáo lý, ý thức của ông bỗng đột ngột biến đổi thành ảo ảnh.
Kinh nghiệm này của ông cho thấy chúng ta phải thiết lập thói quen giữ
tâm trí mình ổn định trong lúc còn sống ở thế gian này.
Sau cùng, Dagpo ở trong
tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Chỉ vào các vị Thần Chết chính yếu, vị
lạt ma bảo hộ ông nói, “Con không thể giấu giếm những ác nghiệp mà
chính mình đã phạm. Những Luật lệ của Pháp Vương rất nghiêm khắc. Trong
các vị Thần Chết thì Thần Awa Đầu Bò, có tài năng tính toán; Vị Đầu Sư
Tử có tài ghi nhận nghiệp tốt và nghiệp xấu; Vị Thần Trẻ Mặt Khỉ có tài
xem tấm gương; Vị Đầu Cọp có tài cân nghiệp tốt nghiệp xấu trên bàn cân;
Vị Đầu Beo có tài xem sổ sách ghi công và tội; Vị Đầu Gấu có tài quyết
định nghiệp nào thiện và nghiệp nào xấu; Vị Đầu Gấu Nâu có tài sử dụng
vũ khí. Nói chung các vị Thần Chết tài năng này giỏi phân biệt giữa
thiện nghiệp và ác nghiệp".
Vị lama bảo hộ tiếp
tục, “Con phải thiền quán về chơn tánh trí tuệ không xao lãng. Tất cả
chúng sanh đều bị trôi lăn trong vòng luân hồi là vì quên mất chơn tánh
của mình. Những chúng sanh vô minh trong vòng luân hồi thì không thể
chấm dứt đau khổ. Chư Phật có tâm thanh tịnh nên thấy mọi sự như là một
cõi cực lạc. Chúng sanh có tâm bất tịnh nên nhìn thấy mọi vật là nền sắt
nóng cháy của địa ngục. Các hiện tượng phàm tục là thói quen nhận thức
huyễn ảo của chính chúng ta. Những ai có nhận thức này làm họ thấy mọi
sự như cõi tịnh độ sẽ không phải đối mặt với các Thần Chết, mà ngược lại
sẽ thấy chư Phật, vì trong chơn tánh của các vị Thần Chết là các vị
Phật.”
Rồi Pháp Vương ra lệnh
cho Thần Chết Đầu Gấu, “Hãy cho vị hành giả này thấy chi tiết của
những gì diễn ra ở địa ngục. Người này nên được đưa về Cõi Người Sống.”
Thần Chết Đầu Gấu bảo
Dagpo, “Đừng để tâm tán loạn, hãy an trụ trong trạng thái chơn không,
vốn là chơn tánh trí tuệ của tâm, xin hãy theo Ta.” Thần Chết đưa
Dagpo đi qua các địa ngục đau khổ không thể tưởng tượng được và những
cõi thấp khác. Rồi vị này đưa Dagpo trở lại Tòa Phán Xét.
Đức Pháp Vương nói với
Dagpo, “Ngươi phải hiểu rằng tất cả những giáo lý trong Kinh, Luật,
Luận là dạy về cách luyện tâm. Nhận ra chơn tánh của tâm là trí tuệ vô
sanh. Trụ thăng bằng trong chơn không vô lượng An trụ vững vàng trong
trạng thái chơn như.”
Vị Pháp Vương ra lệnh
cho ba Thần Chết đưa Dagpo trở về Cõi Người Sống. Vị lama bảo hộ giải
thích, “Ta là một hóa thân của Phật Quán Âm (Avalokiteshvara
Buddha).” Vị Awa Đầu Bò nói, “Ta là một hiện thân của Phật Kim Cương Tát
Đoả (Vajrasattva).” Vị Thần Trẻ Đầu Khỉ nói, “Ta là một hiện thân của
Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava).” Vị La Sát Đầu Heo nói, “Ta là một hiện
thân của Phật Vô Lượng Quang.” Rồi các vị cùng nói: “Bây
giờ ngươi trở về tái nhập thể xác của ngươi, vốn là cảnh giới ( mandala)
của chư Phật.”
Sau sáu ngày đi qua các
địa ngục, Dagpo cảm thấy như vừa mới thức dậy sau một giấc ngủ. Vị lama
bảo hộ của ông và các vị Thần Chết đã biến mất. Ông thấy mình đang ở
trước động tu của mình, nơi đó có một Tăng, một Sư cô và một cư sĩ đang
canh chừng xác chết của ông. Ông cố nhìn quanh nhưng không thể thấy bất
cứ một vật gì. Phải mất một thời gian sau thể xác của ông mới phục hồi
sức khỏe trở lại.
Vượt
qua cánh đồng người chết: kinh nghiệm của Gyalwa Yungtrung
Yungtrung là một tín đồ
đạo Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Chuyện kể delog này cho chúng ta
thấy những lời cầu nguyện thành tâm của bất cứ tín ngưỡng nào cũng sẽ có
ích vào lúc chết. Yungtrung từng biết về Phật Giáo, vì vậy ông chứng
kiến các vị Thần và các vị Thầy của Phật Giáo cũng như đạo Bon cứu độ
các sinh linh trong cõi trung ấm. Điều đáng chú ý ở đây là giống như
những Phật tử tu theo Mật tông, Yungtrung cũng xem Tòa Phán Xét của vị
Pháp Vương, là một phần của sự nhận thức con đường đạo và mục tiêu sâu
xa của tôn giáo. Đối với ông, tòa phán xét không chỉ là một nơi xét xử
để quyết định nơi tái sanh của các sinh linh. Nếu người ta hiểu như vậy
thì đây là là một tỉnh thức tâm linh của tánh giác nội tại, chơn tánh
của tâm trí.
Sau khi ra khỏi thể
xác, Yungtrung bỗng cảm thấy mình bay như một con chim, ông bay qua
nhiều núi non và thung lũng. Ông trông thấy một con đường đèo trên núi
cao được thiết trí bằng những đống xương người và thú vật. Những đống
xương này gây tiếng động ồn ào. Bỗng một vị Thiên Nữ vốn là vị Thần Bảo
Hộ của ông xuất hiện trong một trang phục áo vải với ba lông chim công
trên đầu. Bà nói, “Ha! Ha! Ta không biết chắc con sẽ gặp Mẹ của con.”
Nhưng bà cũng ban cho ông một lời hướng dẫn, và Yungtrung làm theo, vượt
qua đường đèo và thấy một ngả ba đường. Một ngả đường màu đỏ đi về hướng
Tây, một ngả đường màu xanh dẫn về hướng Đông, và ngả đường nhiều màu ở
giữa đi đến Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là nơi sẽ đạt giải thoát
hoặc đi lạc vào luân hồi. Yungtrung chọn con đường giữa, có nhiều màu
sắc giống như một con rắn, ông đi nhanh trên con đường này.
Con đường trở nên hẹp
đến mức dường như núi và đá ở hai bên con đường này chạm vào nhau. Một
lần nữa, Yungtrung lại thấy hai con đường nhỏ như một sợi tóc. Con đường
màu trắng ở bên tay phải và con đường màu đen ở bên trái. Nhiều người cố
gắng chạy theo hai con đường này và nhiều người đang té.
Yungtrung chọn con
đường màu trắng, nhưng không bao lâu con đường hoàn toàn bị bít lấp. Sau
đó một tu sĩ đạo Bon trong y phục như người thường với mái tóc dài đi
tới từ phía bên kia, dẫn khoảng một trăm người đến giải thoát. Vị này
nói với Yungtrung, “Con đường màu trắng là con đường dành cho những
người làm lợi ích cho chúng sanh. Con đường màu đen là dành cho mọi
người nói chung, và nó dẫn đến nơi ở của vị Pháp Vương.”
Rồi Yungtrung thấy mình
đang ở trước cửa một cái hang. Cửa hang có một lỗ nhỏ, chỉ vừa với nắm
tay ông lọt qua. Tất cả những con đường đều dẫn đến cái hang này, và
không có lối ra nào khác. Ông nghĩ, “Bây giờ mình không có thân vật
chất nữa. Thần thức của mình có thể đi xuyên qua bất cứ cái gì.” Ông
lớn tiếng lập lại câu này ba lần cho đám đông biết. Đột nhiên ông thấy
mình ở phía bên kia cửa hang đá.
Ông đang đứng trên một
cánh đồng lớn màu xám, từ đó ông không trông thấy núi hay thung lũng nào
nữa. Ông nghĩ, “Cánh đồng này lớn vô cùng, nhưng vượt qua nó không
phải là việc bất khả, vì mình là rỗng không.” Tức khắc ông thấy mình
ở rìa bên kia của cánh đồng.
Ở đó có ba dòng sông
chảy cuồn cuộn dữ dội hợp lại thành một. Dòng sông màu đỏ chảy đến từ
hướng Đông. Dòng sông màu đen chảy tới từ hướng Nam. Dòng sông màu nâu
chảy đến từ hướng Bắc. Chỉ có một chiếc cầu dài và hẹp bắt ngang trên
con sông lớn này. Ở gần chiếc cầu, nhiều người nam và nữ đang kêu khóc
vì họ phải vượt qua sông nhưng không thể được. Với tâm từ bi, ông nói
với họ rằng, “Tất cả mọi người hãy cầu nguyện với tôi. Tôi sẽ cầu
nguyện cho các vị” Tất cả họ đều lắng nghe ông với sự kính trọng.
Phát tín tâm mạnh mẽ, Yungtrung cầu nguyện các vị Thầy tổ của đạo Bon và
của Đạo Phật:
HRI! Con cầu nguyện Đạo Sư Tranpa Namkha
Con cầu nguyện Đạo Sư Tshewang Rigdzin.
Con cầu nguyện Đạo Sư Padmasambhava.
Con cầu nguyện Montul Tenpa Wangyal.
Con cầu nguyện vị Thầy chính của con
Xin dẫn thần thức của những người chết đến giải thoát.
Xin gia hộ cho chúng con và làm cho nỗi sợ hãi cõi trung ấm biến mất
Xin gia hộ cho chúng con thành tựu pháp chuyển di thần thức phowa.
Xin gia hộ cho chúng con đắc quả an lạc của con đường giải thoát.
Rồi ông nhập vào trạng
thái thiền định, và kết quả là tất cả những người hiện diện ở đó đều
được tái sanh vào những cõi phúc lạc.
Đến đây vị Thần Bảo Hộ
của Yungtrung lại xuất hiện một lần nữa. Ông trông thấy một tòa lâu đài
lớn trong suốt, cao như thể đụng đến bầu trời. Ông hỏi vị Nữ thần, “Tòa
lâu đài này có tên là gì? Ai sống ở trong đó?” Nữ thần nói, “Đây
là sự đại hợp nhất của sắc tướng và chơn không, lâu đài của các Thần
Chết. Vị Pháp Vương của Thần Chết ở trong đó. Lúc này, vi Pháp Vương
đang có thái độ hiền hòa, tốt nhất chúng ta nên đến gặp Ngài ngay"
Yungtrung nghe thấy
những tiếng động kinh khủng vang khắp đất trời. Mới đầu ông hoảng sợ,
nhưng rồi ông tự nhủ, “Tất cả âm thanh đều là âm thanh tự nhiên của
trí tuệ. Tất cả ánh sáng là ánh sáng của trí tuệ. Tất cả những tia sáng
đều là tia sáng tự nhiên của trí tuệ. Không có gì phải sợ hãi cả.”
Với sự tự tin mới, ông tiếp tục đi.
Trong tòa lâu đài khổng
lồ này có một ngai lớn làm bằng vật liệu quý. Cái ngai được tám con thú
hùng mạnh khác nhau nâng lên. Ngồi trên ngai là một người khổng lồ trông
đáng sợ có mặt màu hơi đỏ, to lớn như Núi Tu Di (Sumeru). Nét mặt của
Ngài mang dáng dấp nửa hiền hòa nửa phẫn nộ, với ba mắt và bốn răng
nanh, mái tóc hơi đỏ bồng bềnh xung quanh đầu Ngài như ngọn lửa đang
cháy. Ngài mặt áo lông thú, đội mão và đeo chuỗi hạt bằng xương. Tay
phải của Ngài cầm một quyền trượng với dấu ấn của chữ Vạn (Svastika) và
tay trái cầm một tấm gương giống như trăng tròn, trong đó Ngài có thể
trông thấy tất cả những sự vật hiện tượng của thế gian. Ngài gầm lên một
tiếng lớn “HUNG” làm rung chuyển cả ba cõi dục giới, sắc giới và
vô sắc giới. Yungtrung tin chắc vị thần khổng lồ này là Pháp Vương của
những Thần Chết.
Yungtrung đảnh lễ ba
lần và nói, " Kính thưa Pháp Vương, con là Latri Lama Gyalwa
Yungtrung, người xứ Kham. Mẹ con tên là Adron, hiện giờ đang ở đâu?”
Thay vì trả lời thẳng
câu hỏi này, vị Pháp Vương nói, “Ha! Ha! Ngươi đến đây để giúp giải
thoát cho những sinh linh của ba cõi đã bị đày xuống đây vì ác nghiệp
của họ. Vậy, với sức mạnh của mình, ngươi phải giải thoát tất cả những
ai từng có nhân duyên với ngươi. Nhưng nếu ngươi không thể làm được như
vậy, Ta sẽ thật hổ thẹn cho ngươi.”
Ngay lúc đó, Yungtrung
trông thấy một trưởng lão đạo Bon đến Tòa Phán Xét. Ông đi với một người
có sắc diện trắng mặc áo trắng, và một người sắc diện đen mặc áo đen.
Người mặt trắng biện hộ cho ông già, đưa ra một túi đựng những viên sỏi
trắng tượng trưng cho những thiện nghiệp của ông già. Người mặc áo đen
trình ra một túi đựng những viên sỏi đen và biện luận chống lại ông già
đó. Theo lệnh của Pháp Vương, Thần Chết Đầu Khỉ và Thần Chết Đầu Sư Tử
cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của ông già. Nghiệp tốt của ông già nặng
hơn nghiệp xấu một chút. Thần Chết Đầu Khỉ kiểm tra lại trong tấm gương
và chỉ thấy ánh sáng. Pháp Vương nói với người tu sĩ già, “Ngươi đã
tạo được nhiều thiện nghiệp to lớn. Nhưng điều quan trọng hơn là ngươi
đã duy trì tâm thanh tịnh và tôn kính vị Thầy của ngươi. Vì vậy, ngươi
có thể đi đến Shambala, vương quốc của bậc thánh nhân ở rặng Tuyết Sơn".
Nhiều người bắt đầu
trải qua sự phán xét của Pháp Vương. Các vị đạo sư cũng đến đó và giúp
giải thoát cho nhiều người trong số họ.
Yungtrung đi thăm nhiều
nơi và cầu nguyện cho các sinh linh ở đó. Nhiều sự đau khổ của địa ngục
biến mất ngay khi ông hô lớn "PHAT" trong khi nhập định.
Sau khi thăm viếng các
địa ngục, ông trở lại tòa lâu đài. Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Mặt
Khỉ đưa ông đi khỏi nơi đó. Ông đã không tìm thấy Mẹ của mình.
Trên đường trở về, ông
gặp hai vị lạt ma bị kẹt ở dưới một chiếc cầu. Khi còn sống trong loài
người, một vị đã làm phép trừ tà với mục đích xấu, và vị kia đã lạm dụng
ngân quỹ của cộng đồng. Nhưng vì hai vị lạt ma này có niềm tin nơi Chánh
Pháp, nên Yungtrung cầu nguyện chư Phật và chư Tổ với lòng thành kính và
làm phép chuyển di phowa. Kết quả hai vị lạt ma đã được giải thoát khỏi
nơi đó.
Sau đó Yungtrung qua
cầu trở lại, đi qua Cánh Đồng Chết, đi dọc theo con đường hẹp, và đường
đèo của người chết. Ông về đến nhà khi mặt trời đang lên đỉnh núi.
Sau đó Yungtrung có một
kinh nghiệm cận tử lần thứ hai, trong đó ông đi qua con đường dẫn vào
cõi trung ấm, bằng năng lực thiền quán về sự hợp nhất của trí tuệ và
tánh Không, giống như ông đã từng làm trong kinh nghiệm delog lần thứ
nhất. Lần này ông đến nhiều nơi khác nhau trong cõi người và cõi A tu
la.
Bỗng có một Thiên nữ
dakini xinh đẹp xuất hiện phía trước ông. Yungtrung thỉnh cầu vị này đưa
ông đến chỗ của Mẹ mình. Vị dakini không trả lời mà biến thành một chim
đại bàng bay lên bầu trời. Nhận ra mình không có thân xác thô kệch.
Yungtrung cũng biến thành chim đại bàng chỉ bằng ý muốn và bay theo sau
vị dakini. Sau đó, ở phía bắc của Núi Tu Di, hai người đáp xuống một
cánh đồng đầy hoa. Ở đó trong một cái lều làm bằng những bông hoa,
Yungtrung trông thấy một vị thánh.
Vị dakini bảo, “Hãy
lại đây.” Ở đó có một bông hoa thấp hơn bông khác, và vừa mới nở. Ở
bên trong là ba đứa bé sơ sanh. Chỉ vào một em bé, vị dakini nói, “Bé
trai này là Mẹ của ngươi. Ngươi có nhận ra không?” Bé trai đó nhận
ra Yungtrung và nói, “Apho, tại sao con đến đây?”. Mẹ của ông
trong kiếp tái sanh mới là một bé trai, không nhớ gì về gia đình trước
đây của mình, nhưng bà đã nhận biết con trai Yungtrung này. Sau đó, theo
lời khuyên của dakini, họ đi đến chỗ vị thánh. Vị dakini yêu cầu vị
thánh giảng giáo lý cho Mẹ Yungtrung trong thân tái sanh mới. Vị thánh
ưng thuận lời thỉnh cầu.
Sau đó vị dakini dẫn
Yungtrung đến cõi Thiên giới. Sau khi ban những lời tiên tri, bà bay về
Oddiyana. Còn Yungtrung thấy mình tái nhập về thể xác ở trong nhà của
mình.
Được
tịnh hóa bằng dòng cam lộ: kinh nghiệm của Samten Chotso
Samten Chotso trước khi
đi thăm địa ngục với sự giúp đỡ của Yeshe Tsogyal, vị phối ngẫu của Guru
Rinpoche. Thông thường, thì trước hết các vị delog đến Tòa Phán Xét của
Pháp Vương, nhưng Samten và một số người khác lại đi thăm địa ngục
trước. Sau cùng Samten mới đến Tòa Phán Xét của Pháp Vương. Thần Bảo Hộ
Trắng biện hộ để bảo vệ bà và Quỷ Đen cải lại để chống lại bà. Các Thần
Chết đã kiểm lại những nghiệp tốt và xấu ở trong tấm gương. Họ thấy bà
đã giết nhiều chim, sâu bọ và đã thề thốt nhiều. Tức khắc bà bị đánh
bằng roi trên một cánh đồng nóng cháy và bị nước đồng sôi đổ lên người.
Bà nhớ đến Guru Rinpoche và cầu nguyện Ngài. Và kết quả là Thần Bảo Hộ
Trắng đến đưa bà về Toà Pháp Vương. Bà nghĩ là bà đã trải qua một năm,
nhưng Pháp Vương nói với bà rằng đó chỉ bằng thời gian uống một chén
trà.
Pháp Vương ra lệnh cho
Thần Chết cân công và tội, và các vị này thấy thiện nghiệp của Samten
nặng hơn bất thiện nghiệp. Cuối cùng Pháp Vương ra lệnh hai Thần Chết
đưa bà trở về cõi người. Pháp Vương khuyên Samten hãy tu tập theo Chánh
Pháp và giúp đỡ mọi người. Ngài nói thêm, “Từ nay trở đi, con không
cần phải đến đây nữa. Con có thể thác sanh về Thế Giới Cực Lạc.”
Trên đường trở về,
Samten trông thấy Mẹ Yeshe Tsogyal, và bà đã hỏi về hành trình của
Samten. Trên đường về, bà đã cho Samten thấy cõi tịnh độ của năm vị Phật
nguyên thủy được làm bằng ánh sáng năm màu ở bốn hướng và ở bên trên.
Samten khẩn cầu Yeshe
Tsogyal đưa mình về Cõi Cực Lạc. Cưỡi trên một con sư tử, Yeshe Tsogyal
dẫn Samten cưỡi trên một con lừa trắng. Họ lên đến đỉnh một ngọn núi ở
hướng Tây, từ đó họ có thể trông thấy Cõi Cực Lạc. Với lòng vui mừng,
Samten đảnh lễ ba lạy. Con lừa và con sư tử biến mất. Bỗng mặt đất nơi
họ đang đứng trở nên đất mềm và êm dịu, mỗi bước chân bà đi là một bông
hoa nở ra. Bà được tắm trong một cơn mưa cam lộ và được uống nước cam lộ
này, mọi sự bất tịnh và ác nghiệp của bà đều được thanh lọc tịnh hóa,
thân thể của bà trở nên trắng như vỏ ốc tù và, mỗi bước chân của bà là
băng qua một thung lũng. Cuối cùng bà đến một cõi tịnh kỳ lạ với những
cây, trái, hoa, những bảo vật và những món đồ trang hoàng lộng lẫy đẹp
đẽ. Chư Bồ Tát trong hình dạng chim muông đang hót khắp nơi. Bất cứ cái
gì Samten muốn có đều tự hiện ra tức khắc.
Với ba bước chân,
Samten vượt qua ba bức tường, bà đến trước Đức Phật Vô Lượng Quang, lúc
đó Ngài đang ngồi dưới một gốc một cây thật lớn và xanh tốt. Ở bên phải
Đức Phật Vô Lượng Quang là Bồ Tát Quán Thế Âm và ở bên trái Ngài là Bồ
Tát Kim Cương Thủ. Mỗi vị đều ở giữa một trăm triệu Bồ tát và tu sĩ. Các
vị Phật và Bồ Tát ở khắp mọi nơi và ở giữa vô số đệ tử của các Ngài.
Cũng có các vị Thần đủ loại, kể cả Guru Rinpoche trong hình dạng phẫn
nộ. Bà cũng trông thấy vô số các vị Thầy thuộc nhiều dòng truyền khác
nhau. Samten Chotso đã không kể lại về việc bà tái nhập lại thể xác như
thế nào.
Đừng
mất can đảm: kinh nghiệm của Changchub Seng-ge
Changchub muốn đi về
nhà, bỗng nhiên ông thấy mình ở trong nhà của Cha Mẹ mình. Ông đi qua
nhà hàng xóm xin thức ăn và hỏi thăm những điều mình muốn biết, nhưng
không ai trả lời hoặc thậm chí nhìn vào ông. Ông nghĩ có lẽ mọi người
đang giận mình.
Một cô gái đang xách
nước. Ông đến xin nước, nhưng cô ta không nói gì cả. Khi ông cố gắng lấy
nước trong bình của cô thì cái bình tuột khỏi tay cô rớt xuống và bể
thành nhiều mảnh. Ông nắm đuôi một con ngựa thì con ngựa ngã gục xuống
đất. Một phụ nữ đang quay sợi không trả lời ông, khi ông chạm vào mớ
lông cừu thì nó bị thổi bay đi như một cơn bão, làm cho bà ta phải đuổi
chạy theo nó. Tất cả những điều này làm cho Changchub lo nghĩ, vì ông
nhớ lại trong dân gian có nói, “Hồn vía dù vô hình nhưng vẫn có thể
làm cho đồ vật chuyển động.”
Rồi ông suy nghĩ: “Bây
giờ mình nên đến tu viện.” Trên đường có một con chó theo sủa ông.
Một người đàn bà mắng con chó, “Con chó mắc dịch, bộ mày sủa ma hả!”
. Người ta tin rằng chó và mèo có thể trông thấy những hồn ma. Tưởng
người đàn bà gọi mình là ma. Changchub bắt bẻ, “ chỉ cho thấy không
có vị thần nào của bà mà không là ma quỷ!” Nhưng bà ta không nghe
thấy ông. Khi ông đến tu viện. Ông thấy một xác chết nằm ở phòng của
mình. Cái xác đang được hai con chó săn to lớn và hung dữ canh chừng.
Changchub rất sợ. Một ý nghĩ xuất hiện với ông, “Có lẽ mình đã chết
rồi!”
Ngay lúc đó, ông thấy
mình ở bên kia của một quả núi lớn. Ông ở trong vùng tối tăm và đang bị
những cơn bão nghiệp đẩy từ phía sau. Các vị Thần Chết đang la hét như
hàng ngàn tiếng sấm, nền sắt nóng bỏng đốt dưới chân ông. Vô số sinh
linh tạo nghiệp xấu đang đứng chen chúc ở xung quanh.
Quá sợ hãi, Changchub
cầu nguyện Đức Quán Thế Âm, tức khắc ông thấy một đứa bé tám tuổi với
sắc diện trắng, mặc áo lụa với những món trang sức bằng ngọc đang ngồi
trên một cái ngai có trang trí hoa sen, mặt trời và mặt trăng. Cậu bé
gia hộ cho Changchub và nói rằng hai người đã có nhân duyên từ nhiều
kiếp. Đây là vị Thần Bảo Hộ của Changchub nên ông cầu nguyện với cậu bé.
Changchub đi thăm nhiều
địa ngục, sau đó ông đến nơi ở của Pháp Vương. Trong một cung điện lớn,
vị Pháp Vương ngồi trên một cái ngai trang trí với những tấm nệm hoa
sen, mặt trời, mặt trăng, vàng ngọc, được nâng bởi tám con thú và chim.
Phần thân trên của Ngài trang phục bằng lụa trắng và những món trang sức
ngọc báu, phần thân dưới của Ngài mặc đồ da cọp với dây thắt lưng là một
con rắn màu đen. Những tia sáng tỏa ra từ thân của Ngài đến nổi làm lóa
mắt khiến người khác không thể nhìn vào Ngài được. Mắt Pháp Vương đỏ như
máu, Ngài cầm một ngọn lửa và nước, ở phía bên phải Ngài là một gương,
và ở bên trái là một tấm bảng. Vây quanh Ngài là một ngàn vị Thần Chết,
các vị đều có hình dạng giống như Pháp Vương. Ở phía trước Ngài có vô
số sinh linh đang tụ tập và vô số Thần Chết đang quyết định số phận của
họ.
Pháp Vương cho
Changchub đi thăm nhiều cõi ngạ quỷ, súc sanh, cõi người, và A tu la.
Sau đó, Pháp Vương bảo Changchub chuyển bức thông điệp của Ngài cho
chúng sanh của Cõi Người Sống, “Hãy nương tựa Tam Bảo, phát Bồ đề
tâm, cúng dường, học giáo lý và tiếp nhận sự truyền thừa của Thầy tổ,
đặc biệt là trì tụng Thần chú OM MANI PADME HUNG, đây là tinh túy của
Giáo Pháp.”
Changchub hỏi Pháp
Vương, “ Có phải tất cả mọi người đều phải gặp Ngài sau khi họ chết
?” Pháp Vương trả lời, “Không ai trong cõi người khi chết mà
không gặp Ta, ngoại trừ hai hạng người. Những người đã tin theo Chánh
Pháp từ lúc mới sinh ra, họ sẽ thác sanh thẳng đến Cõi Cực Lạc ngay khi
thần thức họ lìa khỏi thể xác. Họ sẽ không cần phải gặp ta. Thứ hai là
những hạng người đã tạo những ác nghiệp từ lúc sinh ra, sẽ đi thẳng vào
địa ngục, họ không có cơ hội để gặp ta.”
Changchub lại hỏi, “Có
nghiệp tốt nào sẽ không mang lại quả tốt hay có nghiệp xấu nào không
mang lại quả xấu hay không". Pháp Vương đáp, “Có, dù dùng tài sản
của mình để làm những việc tốt, nếu tài sản đó phát xuất từ sự lừa bịp
Thầy của mình hay của Cha Mẹ, từ các tu sĩ bằng vũ lực, hay từ những
người khác dưới dạng thu thuế, thì những việc làm tốt không được xem là
công đức. Nếu với ý định bảo vệ kẻ yếu và cứu người khác mà chống lại
những thú dữ, rắn độc, trộm cắp, kẻ giết người, và những kẻ làm hại
người khác, tất cả những việc này đều không bị xem là bất thiện".
Rồi Pháp Vương nói, “Ngươi không cần phải đến gặp lại ta. Ngươi sẽ
tạo lập nhiều công đức để phụng sự cho chúng sanh, và ngươi sẽ đắc Phật
quả.”
Thế rồi Changchub trở
về cõi người. Ông về căn lều nơi ông đã nhập thất tu tập trước khi có
kinh nghiệm delog. Nơi đây ông thấy xác chết một con chó. Một con ruồi
đậu trên mõm con chó và đang niệm “OM MANI PADME HUNG”. Rồi một
con chim bồ câu đậu trên mái nhà và hỏi ông, “Tội nghiệp, Ngài đã
trải qua một thời gian dài khó khăn phải không?” và một con chim én
hỏi, “Con trai, con đã về đến hả?”
Changchub thấy một cái
áo của mình ở gần xác con chó. Khi ông nghĩ đến việc lấy cái áo đi, bỗng
nhiên thần thức của ông nhập vào xác con chó, kỳ thực đó chính là thân
xác của ông. Ông muốn ngồi dậy nhưng không thể được. Thân xác của ông
lạnh như một cục đá trong nước. Ông cảm thấy đau ở vùng ngực. Rồi ông
thấy linh ảnh của Đức Quán Thế Âm an ủi mình, “Con đừng mất can đảm.
Con đã được thân người quý báu. Con đã trở về am thất tu tập của mình
rồi” Sau đó Changchub dần dần tỉnh lại.
Địa Ngục là Cõi Tịnh Độ Vô
Thượng: Kinh nghiệm của Tsophu Dorlo
Lời kể delog này có một
ý nghĩa sâu xa, lời văn rất hay theo nguyên gốc tiếng Tây Tạng.
Tsophu Dorlo cảm thấy
mình trần truồng, nhưng ông vẫn có đủ mọi giác quan giống như còn sống.
Ông bắt đầu cuộc hành trình của mình dọc theo con đường dài màu xám và
hẹp trong cõi trung ấm. Ông đi nhanh với lực đẩy của gió nghiệp, và
không thể tự ý dừng lại được. Bầu không khí âm u, không có ánh sáng mặt
trời hay mặt trăng, đầy dẫy những bão tố, lũ lụt, và bão tuyết, và những
tiếng la hét như sấm, “Giết! Giết! Đánh! Đánh!”
Nhiều sinh linh từ cõi
người đến đây đã bị sự sợ hãi, rối loạn và đói khát hành hạ. Trong số họ
có một tu sĩ tên là Chotrag Zangpo mà Dorlo từng biết. Ông hỏi, “Thầy
làm gì ở đây?” vị lạt ma đáp, “ Tôi đến đây để giải cứu một số
người có nhân duyên với tôi.” Rồi Ngài đã giải thoát nhiều sinh linh
với oai lực của Đức Phật Từ Bi Quán Thế Âm.
Dorlo cầu nguyện đến
Đức Phật Từ Bi cho những bạn đồng hành đang đau khổ của mình. Lập tức,
Đức Quán Thế Âm hiện ra trước ông với nét mặt hoan hỷ và nói, “Con
phải quay lộn ngược bánh xe luân hồi. Con phải dẫn dắt các sinh linh của
cõi trung ấm về đến cõi tịnh độ.” Dorlo liền niệm “OM MANI PADME
HUNG” rồi thuyết pháp cho các sinh linh và tụng kinh. Tức khắc ông
thấy cõi trung ấm đã trống rỗng. Nhưng rồi trong một khoảnh khắc cõi
trung ấm đã đầy trở lại với những sinh linh mới đến.
Sau đó Dorlo đi đến
Cánh Đồng Xám của Người Chết, vốn là một cánh đồng cát nóng. Đây là cánh
đồng của sáu điều bất định: các sinh linh ở đây không biết chắc mình đi
đâu hay ở lại, trú ngụ ở đâu, làm gì, ăn gì, đi cùng với ai và họ không
biết chắc cảm giác của mình, bởi vì mọi thứ luôn biến đổi.
Vì Dorlo không có kinh
mạch ở thể xác vật chất, nên những tinh lực của Ngài lộ ra bên ngoài và
Ngài không thể điều khiển được thần thức của mình. Vì vậy tâm của Ngài
tán loạn như một con ngựa hoang. Vì không có mặt trời hay mặt trăng bên
trong của tinh chất đỏ và trắng của cơ thể nên Ngài không cảm thấy có
ánh sáng mặt trời hay mặt trăng bên ngoài, và mọi thứ đều chìm trong
bóng tối. Ánh sáng của năm gió từ thể xác Ngài phát ra giống như ánh
bình minh. Những tia sáng không thể chịu nổi vẫn chớp lóe như thể những
hành tinh và ngôi tinh tú đang rơi xuống đất. Trong bầu trời của bóng
tối và ánh sáng như vậy, thói quen tinh thần của Ngài phóng ra những
hình dạng ma quỷ đáng sợ và nguy hiểm.
Trong số những sinh
linh ở đây, Dorlo trông thấy một vị lạt ma đang chịu đau khổ. Dorlo cầu
nguyện và quay bánh xe cầu nguyện của Ngài, nhưng vì vị tu sĩ này không
tin tưởng Ngài nên Ngài không thể giúp gì được. cho ông ta.
Rồi Dorlo đi đến Đèo
Núi Cát ở giữa Cõi Người Chết và Cõi Người Sống, Ngài trông thấy hai con
đường. Con đường màu đen dành cho những người đã tạo ác nghiệp lớn,
những người ở trên đường này chỉ trượt xuống như những hòn đá rơi thẳng
xuống nền sắt nóng cháy của địa ngục. Con đường màu trắng dành cho những
người đã tích lũy công đức, họ đi trên con đường này đến Tòa của Pháp
Vương để được phán xét. Từ đó họ có thể đến cõi tịnh độ qua con đường
ánh sáng năm màu này.
Dorlo thấy người quen
cũ của mình là Zhagsar Trashi đang chịu khổ rất nhiều. Trashi xin Dorlo
cầu nguyện cho mình, vì thế Dorlo tụng chú và quay bánh xe cầu nguyện.
Trashi đã tạo nhiều ác nghiệp nhưng vì có niềm tin nơi Dorlo và có nhân
duyên với nhau, nên ông ta được giải cứu khỏi nơi đó.
Rồi Dorlo đến Dòng Sông Nâu Lớn Không Thể Vượt Qua của Người Chết. Đây
là một dòng sông lớn với nước đồng sôi chảy, nóng cháy với đủ loại sinh
linh hạ liệt, và đây là hình ảnh phản chiếu của thói quen tạo nghiệp của
mỗi người.
Trên con sông có Cầu
Sắt Của Người Chết. Với những người tạo thiện nghiệp thì thấy chiếc cầu
này rộng, dễ đi qua và không thấy có bất cứ thứ gì đe dọa ở dưới dòng
sông. Nhưng với số lớn người đã tạo ác nghiệp lại thấy chiếc cầu quá hẹp
có vẻ như nó chỉ được làm bằng vài cọng rơm. Họ bị những vị Thần Chết
xua đuổi qua bên kia cầu, nhiều người rơi xuống sông và bị đốt cháy hoặc
bị những thú dữ ở đó cắn. Dorlo tụng niệm và quay bánh xe cầu nguyện,
nhờ thế mà ông đã giải thoát được nhiều sinh linh.
Sau đó Dorlo vào đến
địa ngục. Đây là nơi có đất bằng nền sắt nóng cháy, với những tiếng kêu
la vang dội giữa ngọn lửa bốc cao. Đây là một cảnh tượng không thể chịu
nổi. Dorlo cũng quay bánh xe cầu nguyện và tụng niệm, rồi ông giảng giáo
lý:
"Hãy biết rằng những sự cảm nhận của mình là
huyễn ảo.
Địa ngục chính là Cõi Tịnh Độ Vô Thượng.
Pháp Vương chính là pháp thân
Những Thần chết là các vị thần hiền hòa cũng như phẫn nộ
Nguyện cầu các vị đạt được chơn tánh".
Ông niệm ba lần “OM
MANI PADME HUNG”, địa ngục bỗng tràn ngập ánh sáng cầu vồng. Tất cả
các sinh linh cảm thấy an lạc và hoan hỷ.
Sau đó một trăm ngàn
quân đao phủ đi theo các vị Thần Chết và Thần Bảo Hộ Trắng đến chào đón
Dorlo với âm nhạc và lễ vật. Dorlo đi vào Tòa Phán Xét của Pháp Vương
cùng với một trăm ngàn sinh linh. Pháp Vương nói “Các ngươi đến đây
thật là kỳ diệu! Nếu nhận ra thì sẽ thấy Ta là Pháp thân, nếu không nhận
ra được thì Ta là Pháp Vương của các Thần Chết, người phán xét ai đã tạo
nghiệp tốt và ai đã tạo nghiệp xấu. Người nào có tính sân hận thì bị đày
xuống địa ngục, người nào tham muốn nhiều thì sẽ đến cõi ngạ quỷ, người
nào si mê nhiều sẽ xuống loài thú, người ganh tị nhiều sẽ đến cõi a tu
la, người nào kiêu ngạo nhiều sẽ đến Thiên giới. Người nào tạo thiện
nghiệp mà pha lẫn với năm cảm xúc phiền não này thì sẽ tái sanh trở lại
cõi người. Người nào tạo nhiều công đức sẽ không phải chịu đau khổ trong
cõi trung ấm hay trong địa ngục. Họ sẽ đi thẳng đến một cõi tịnh độ như
Cõi Cực Lạc ngay sau khi qua đời, giống như một con đại bàng bay qua bầu
trời.”
Rồi vị Pháp Vương ban
lệnh cho các Thần Chết, “Ta thấy trên tấm bảng giờ chết đã đến với
mấy trăm ngàn người. Vậy hãy xét xem họ đã tạo thiện nghiệp hay ác
nghiệp. Kiểm tra lại những hành vi của họ trong tấm gương phản chiếu tất
cả. Tham khảo cuốn sổ ghi chép những chi tiết. Cân những nghiệp tốt và
xấu trên cái cân công bằng. Hãy nghe tiếng trống chiến thắng và đừng
phạm phải bất cứ sai lầm nào cả".
Quân đao phủ thỉnh cầu
vị Pháp Vương xét xử vì những chi tiết về nghiệp báo của những sinh linh
này khó quyết định. Lúc đó, Pháp Vương liền ra lệnh cho vị Thần Bảo Hộ
Trắng và Quỷ Đen trình bày cẩn thận trường hợp của mỗi sinh linh.
Thần Bảo Hộ Trắng biện
hộ cho những người đi theo Dorlo. Vị này gom lại một núi sỏi tượng trưng
cho nghiệp tốt mà mỗi người đã tạo. Quỷ Đen tranh luận chống lại những
người đó và trình ra một núi sỏi đen tượng trưng cho những ác nghiệp của
họ. Dựa theo những bằng chứng này, Pháp Vương cho những người tạo thiện
nghiệp thác sinh về tịnh độ hoặc trở lại cõi người, và những người tạo
bất thiện nghiệp bị đày xuống những cõi thấp.
Sau đó Pháp Vương bảo
Thần Awa Đầu-Bò đưa Dorlo đi thăm những địa ngục nóng và lạnh. Dorlo đi
qua tất cả tám địa ngục nóng. Ở nhiều chỗ, Ngài cầu nguyện Đức Phật Từ
Bi, niệm OM MANI PADME HUNG, và nhập định trao đổi niềm an lạc của mình
để nhận lấy sự khổ đau của người khác, và như vậy Ngài đã giải thoát cho
nhiều người. Dorlo đã gặp nhiều sinh linh mà Ngài đã quen biết cũng như
chưa quen biết, nhờ Ngài chuyển lời nhắn của họ cho gia đình để xin
những người thân này làm lễ cúng và hồi hướng công đức cho họ.
Nhiều vị Phật và nhiều
vị Thầy cũng đến thăm địa ngục để giải thoát các tội đồ bằng cách thuyết
pháp và gia hộ.
Sau đó Dorlo trở lại
chỗ vị Pháp Vương và được lệnh trở về cõi người. Pháp Vương nói, “Xin
kể lại những nổi khổ của địa ngục cho mọi người biết. Xin hãy tạo nhiều
thiện nghiệp và từ bỏ ác nghiệp. Hãy thuyết pháp, ngươi sẽ làm nhiều lợi
ích lớn cho mọi người. Trong kiếp kế tiếp, ngươi sẽ thác sinh về Tịnh độ
và sẽ làm lợi ích cho nhiều người nữa”.
Bây giờ Dorlo cảm thấy
mình đang trở về cõi người trên một con đường ánh sáng với âm nhạc và
hương thơm tỏa khắp nơi vốn là quà tiễn biệt của Thần Bảo Hộ Trắng.
Trong một lúc Dorlo bị
bất tỉnh. Rồi ông nhìn thấy Đức Liên Hoa Sanh làm phép gia trì lực
trường thọ cho mình và trao truyền những tiên tri khuyến giáo. Sau cùng
Dorlo tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong thể xác của mình giữa những
người ở xung quanh.
Sắc tướng bất khả phân với trí
tuệ: kinh nghiệm của Dawa Drolma
Dawa Drolma đã đến một số cõi tịnh độ và địa ngục.
Ở đây tôi chú trọng nhiều hơn về những kinh nghiệm của bà trong cõi tịnh
độ của Đức Liên Hoa Sanh, vì địa ngục đã được mô tả nhiều trong truyện
của các delog khác rồi.
Cõi Tịnh Độ biểu lộ của Đức Liên Hoa Sanh
Dawa Drolma thấy mình
di chuyển qua bầu trời giống như một con kên kên. Bà thấy mình đang ở
cõi tịnh độ biểu lộ của Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche), vị Phật trong
sắc tướng một vị Thầy thành tựu. Có một cánh đồng rộng bát ngát. Bà thấy
ở giữa cánh đồng là một quả núi lớn bằng đá đỏ có hình dạng trái tim.
Quả núi đó được bao quanh bởi những rặng núi sắc nhọn như lưỡi kiếm, tất
cả đều tỏa ra màu đỏ nhạt. Bầu trời được trang trí bằng một mái vòm ánh
sáng năm màu. Đủ loại chim đẹp đẽ đang hót và bay lượn vui đùa. Khắp nơi
mặt đất bao phủ đủ loại bông hoa nhiều màu sắc. Bầu không khí tràn đầy
hương thơm kỳ diệu làm cho mọi giác quan của bà ngây ngất. Cũng có một
quả núi màu xanh lam ngọc. Những cảnh đẹp này không phải là những sắc
tướng mơ hồ, mà là những hình ảnh sinh động với sự hiện diện thực sự.
Nữ Thần Tara Trắng là
vị Thần Bảo Hộ của Dawa Drolma. Dawa Drolma cầu nguyện đến Đức Liên Hoa
Sanh bằng cách tụng Bài Nguyện Bảy Dòng Kim Cương và nhập định Đạo Sư
Quán (Vajra Seven Line Prayer and Meditated on Guru Yoga).
Bà cúi đầu đảnh lễ và
cúng dường mandala cho cõi tịnh này. Bà thấy ở giữa quả núi là cung điện
bất khả tư nghì của Đức Liên Hoa Sanh được gọi là Liên Hoa Quang (Lotus
of Light). Cung điện này là trí tuệ giác ngộ của Đức Liên Hoa Sanh, xuất
hiện tự nhiên trong hình dạng một lâu đài tỏa hào quang. Lâu đài thật
lớn và được làm bằng năm loại bảo vật với đủ loại kiến trúc và vật trang
trí. Mỗi chi tiết cấu trúc đều nói lên trí tuệ và phẩm tính đặc biệt của
Phật quả. Cõi tịnh độ này là nơi lưu trú của nhiều vị Thầy giác ngộ, các
vị Thần nam nữ daka và dakini.
Ở hướng Đông của cung
điện, bốn dakini giúp Dawa Drolma mặc một bộ áo có nhiều màu sắc và tỏa
ánh sáng giống như cầu vồng. Sau khi đi vào cổng cung điện pha lê tuyệt
đẹp, bà đi lên một cầu thang dài, rồi ở trong một đại sảnh, bà cùng với
các vị lạt ma và dakini làm một lễ cúng dường lớn, bà tụng bài kinh tịnh
hóa cùng với các vị này. Kế đó một dakini mặt xanh đưa bà đến một tòa
lâu đài rộng lớn, vốn là cung điện chính trong số nhiều cung điện ở đây,
nơi bà tham dự một lễ tịnh hóa bằng việc cùng tắm với nhiều người khác.
Dawa Drolma được hướng
dẫn đi thăm nhiều chỗ trong cung điện kỳ diệu này và cũng đi thăm những
cung điện khác trong khu vực. Ở những nơi khác nhau này bà được tiếp đón
và gia hộ bởi các vị Thầy trong hình dạng Chư thiên tỏa hào quang và
năng lực tâm linh lớn. Một số các vị này từng là Thầy của bà đã viên
tịch. còn các vị khác là những vị Thầy trong quá khứ, như Đức Yeshe
Tsogyal, công chúa Mandarava, Legyi Wangmp-che, Khyentse Wangpo, và
nhiều Thiên nữ dakini. Bà đảnh lễ tôn kính đến các Ngài và cầu nguyện
một cách thành tâm.
Dưới Chân Đức Liên Hoa Sanh
Cùng với Nữ Thần Tara
Trắng, Dawa Drolma vào thăm cung điện khác đẹp lộng lẫy, được tôn tạo
bằng pha lê đỏ. Đây là một cung điện khổng lồ không thể đo lường được
với những đồ vật trang trí phong phú và chứa đầy của cải bất tận và
những món đồ cúng kỳ diệu.
Đức Liên Hoa Sanh
Cuối cùng, ở giữa một
đại sảnh, Dawa Drolma thấy một cái ngai lớn mà bà cho là cao hơn một tòa
nhà ba tầng, tỏa hào quang ra khắp nơi. Trên cái ngai bà thấy sự hiện
diện kỳ diệu của Đức Liên Hoa Sanh, (Padmasambhava), hiện thân của trí
tuệ, từ bi và oai lực của tất cả các đấng giác ngộ. Xung quanh cái ngai
là vô số các dakini và các vị Thầy trong những hình dạng khác nhau, với
sắc diện, trang phục, tư thế và cử chỉ khác nhau, và được vây quanh bởi
những điệu nhạc khác nhau. Khi nhìn thấy Đức Liên Hoa Sanh, tất cả mọi ý
nghĩ của bà tự nhiên chấm dứt. Bà đạt được sự hợp nhất vững chắc với một
trạng thái không thể xóa nhòa, không thể nghĩ tưởng, và không thể mô tả
được. Bà an trụ trong trạng thái này được một lúc, vừa hỷ lạc vừa cô
đơn.
Sau đó Dawa Drolma đến
gần ngai hơn và đặt trán của mình lên chân Đức Liên Hoa Sanh. Đại Sư gia
hộ cho bà bằng cách đặt tay lên đầu bà và tụng Bài Nguyện Bảy Câu Kim
Cương.
Trong cuộc viếng thăm
cõi tịnh độ này, nhiều vị Thầy gia hộ và giảng giáo lý cho Dawa Drolma.
Bà cũng gặp Ngài Dechen Dorje, một vị lạt ma cao cấp cũng là bác ruột
của bà đã viên tịch. Ngài đã thác sanh về cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa
Sanh. Ngài truyền dạy giáo lý, gia hộ, ban lời tiên tri cho bà và khuyến
giáo bà trở về cõi người.
Sau đó bà Dawa Drolma
được đưa đến một căn phòng đẹp đẽ có một cái giường, mấy cái gối và một
người hầu. Bà nằm ngủ một lát, và sau khi thức dậy, bà lại đi gặp Đức
Liên Hoa Sanh và tụng Bài Nguyện Bảy Câu Kim Cương, Đức Liên Hoa Sanh
gia hộ và gia trì lực cho bà. Với lòng đại từ bi, Ngài nói, “nay đã
biết về những đau khổ của sáu cõi luân hồi, con phải trở về cõi người.
Kể cho mọi người biết về những gì con đã trông thấy và khuyến khích họ
đi theo con đường đạo đức.”
Dawa Drolma rời khỏi
cung điện của Đức Liên Hoa Sanh với tấm lòng thành kính tri ân với hai
dòng lệ rơi. Trên đường đi ra, ở ngoài cung điện và cổng khác nhau, bà
bái biệt các vị Thầy và các vị dakini và nhận sự gia hộ của các Ngài.
Những lời minh triết dành cho loài người
Nữ Thần Tara Trắng đưa Dawa Drolma đến những địa
ngục. Dawa Drolma đã trải qua những kinh nghiệm trong cõi trung ấm. Bà
trông thấy Pháp Vương trong sắc tướng phẫn nộ và khủng khiếp tại Tòa
Phán Xét. Trong cuộc viếng thăm địa ngục, bà giúp đỡ nhiều tội đồ bằng
cách giảng giáo lý, cầu nguyện, và trì Thần chú của Liên Hoa Sanh: OM AH
HUNG BENZA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Bà cũng trông thấy những nghiệp quả
và những đau khổ của địa ngục bằng chính mắt của mình, vì vậy bà có thể
giảng dạy giáo lý hiệu quả hơn khi trở về cõi người. Bà cũng đem về
nhiều lời nhắn của người chết cho thân nhân đang sống ở thế gian
Sau đó, Nữ Thần Tara Trắng đưa Dawa Drolma đến
thăm cung điện Potala, cõi tịnh độ của Bồ Tát Quán Thế Âm và Ngài Yulo
Kopa, cõi tịnh độ của Ngài Tara, trước khi trở về thế gian.
Trong lúc Dawa Drolma thăm cõi tịnh độ của Tara,
bà bỗng cảm thấy Dharmapala Tseringma đang gọi mình ba lần, “Dawa
Drolma! Hãy trở về cõi người!”. Bà nghĩ, “Bác Rinpoche, Cha Mẹ,
và tất cả những người thân của mình đang ở thung lũng Throm. Mình phải
trở về!”. Rồi cùng với Đức Tara Trắng, bà trở về trong khoảnh khắc.
Ở nhà, Thầy của Dawa Dorlma là Ngài Tromge Trung
mở cửa phòng, nơi an trí thi hài của bà và làm lễ cầu an trường thọ cho
bà. Không bao lâu, thần thức của Dawa Drolma đã tái nhập thể xác. Bà mô
tả sự kiện này như sau:
Bà cảm thấy thân thể tê liệt và không có sự trong
sáng trong những giác quan của mình. Bà thể nhập vào niềm tôn kính những
đấng giác ngộ, hoan hỷ nhớ lại các cõi tịnh độ, và cảm thấy buồn về
những nổi khổ của địa ngục. Từ tâm trạng pha trộn như vậy, bà lấy lại ý
thức trọn vẹn của mình, giống như dần dần thức dậy sau một giấc ngủ say.
Bác Trungpa của bà đang đứng ở trước mặt, đang cầm một mũi tên của lễ
cầu an trường thọ và nhìn bà với vẻ quan tâm trong đôi mắt đỏ ngầu. Bà
cảm thấy hơi bối rối, không dám nói một lời nào. Các vị lạt ma làm lễ
tịnh hóa. Các bạn của bà khóc và hỏi, “Bà có mệt lắm không?” “Bà
có đói bụng không?” “Bà có khát nước không?” Bà không thấy
đói hay khát gì cả, nhưng họ không tin như vậy. Sau cùng, tất cả mọi
người đều được mời ăn cỗ cúng.
Dawa Drolma có những lời hướng dẫn về việc tránh
bị đày đọa vào địa ngục, và bảo đảm tái sanh về tịnh độ. Sau đây là tóm
lược những lời khuyên của bà cho mọi người ở thế gian:
- Thanh lọc những ác nghiệp của mình đã tạo
bằng thiền quán. Không tiếp tục tạo bất thiện nghiệp nữa.
- Tạo công đức, chép hoặc ấn tống kinh điển, tụng kinh, thờ Phật và lễ
Phật
- Lễ các vị Thần khác nhau và thọ trì Thần chú của các vị
- Làm cỗ cúng để cúng dường
- Cứu giúp người khác khỏi tai họa, và phóng sanh (chuộc mạng sống những
con thú sẽ bị làm thịt)
- Treo cờ cầu nguyện lên, khắc Thần chú trên đá, quay bánh xe cầu nguyện,
và làm phép tuyệt thực. Phát tâm tôn kính Phật và Giáo Pháp của Ngài.
- Phát tâm từ bi đối với hết thảy chúng sanh.
- Đặc biệt là thực hành và hoàn thiện ba nhận thức thanh tịnh: thấy mọi
vật đều là cõi tịnh độ, nghe mọi âm thanh đều là âm thanh thiêng liêng,
và kinh nghiệm mọi cảm giác (những kinh nghiệm thể xác, tâm thức và cảm
xúc) như trí tuệ Phật, an lạc và toàn giác.
- Sau cùng, hãy hồi hướng công đức của mình cho những người đặc biệt nào
đó hay cho tất cả chúng sanh.
Dawa Drolma sống phần đời còn lại
của mình với công việc giảng dạy giáo lý dựa trên kinh nghiệm delog và
cống hiến trọn vẹn đời sống của mình cho việc phụng sự tha nhân. Bà
thường khuyên những ai hay than thở đời sống này quá nhọc nhằn rằng: “Dù
đời sống ở thế gian khó khăn đến đâu cũng không thể nào so sánh với
những khổ đau ở địa ngục.”
Trong chuyến hành hương đến miền
Trung Tây Tạng, bà Dawa Drolma thọ thai và sinh hạ người con trai đầu
lòng của mình, đó là Đại Sư Chagdud Rinpoche, người sau này sống lưu
vong ở Ấn Độ và sau đó sang định cư ở phương Tây. Ngài truyền bá và xây
dựng một số trung tâm Phật Giáo tại Hoa Kỳ và Brazil. Sau đó bà Dawa
Drolma có một con gái là Thrinle Wang. Năm 1941, ở tuổi ba mươi hai, bà
đã qua đời không lâu sau khi sinh một người con trai khác, và người con
này cũng chết. Người ta đã chứng kiến nhiều điều kỳ diệu vào lúc bà qua
đời và lúc hỏa thiêu. Dawa Drolma và truyện delog của bà đã gây cảm hứng
cho nhiều người ở khắp miền Đông Tây Tạng tin vào luật nhân quả, nghiệp
báo và luân hồi tái sanh. Do đó mọi người có lối sống đạo đức hơn và có
lòng từ bi hơn đối với hết thảy chúng sanh.
Đại Sư Chagdud Rinpoche, con trai của bà Dawa Drolma
Để cho mọi người được giải
thoát: Kinh nghiệm của Shugseb Jetsun Lochen
Shugseb Jetsun Lochen mô tả rất hay về
chuyến viếng thăm của bà đến cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh và bà
được dạy rằng địa ngục chỉ là sự cảm nhận giả tập của tâm thức
Du hành với Thiên nữ
Dakini một mắt
Thần thức của Jetsun đã rời khỏi
thể xác. Bỗng vị Thiên nữ dakini rất hấp dẫn, có nước da màu lục ngọc,
lông mày đẹp, mái tóc buông lơi, xuất hiện trong linh thị của bà. Vị
Thiên nữ dakini này chỉ có một mắt ở giữa trán. Vị Thiên nữ hỏi Jetsun,
“Con có muốn đến Núi Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ Đức Liên Hoa
Sanh hay không?” Jetsun đáp, “con rất muốn” .
Nắm lấy tay Thiên nữ dakini,
Jetsun bay lướt trên không qua nhiều vùng đất khác nhau. Họ vượt qua một
cánh đồng lớn và qua một con sông rộng lớn. Rồi họ đến một nơi có nhiều
cây cao như thể đụng đến cõi trời. Sau cùng, họ lên đến đỉnh một đèo cao.
Tất cả những nơi họ đi qua là những giới hạn của cõi trung ấm. Thiên nữ
dakini nói, “xem kìa!”
Ở đằng xa, Jetsun trông thấy một lục địa to lớn,
có màu hơi đỏ và đẹp lạ thường. Khắp người bà tràn ngập một cảm giác kỳ
diệu về sức mạnh và hơi nóng. Thiên nữ dakini nói:
Hỡi người con gái may mắn, hãy xem ở đằng kia.
Vùng đất đó là lục địa Ngayab vô thượng
Đó là xứ được Chư Phật trong ba đời gia hộ
Ngày xưa, đó là nơi trái tim của một con người xấu (ngã chấp) đã được
nhiếp phục.
Bởi oai lực gia hộ của Nữ Thần Vajravarahi,
Giáo lý bí mật kỳ diệu đang thịnh hành ở nơi đó.
Dù chỉ trông thấy, nghe thấy hay suy nghĩ đến nơi đó
Người ta cũng đạt được giác ngộ.
Vì vậy, nếu con thật sự đến đó, thì không cần phải nói gì cả.
Dù con chỉ nhìn nơi đó với đôi mắt tôn kính
Con sẽ đạt được chứng nghiệm về cõi tịnh
Vậy hãy đảnh lễ nơi đó với lòng chí thành".
Jetsun phát tâm tôn kính và đảnh
lễ Núi Quang Vinh nhiều lần. Ở đó bà trông thấy một cung điện khổng lồ
có hình dạng một đồ hình mandala được làm bằng ngọc quý sáng chói. Cung
điện này lớn và cao đến mức dường như đụng đến cõi trời. Bà thấy xung
quanh cung điện có vô số các vị daka, và dakini đang hoan hỷ cúng dường
những lễ vật. Cung điện này cũng được vây quanh với những khu vườn lớn
có đủ loài cây như ý và bông hoa nhiều màu sắc và những hồ nước tuyệt
đẹp.
Phần trên đỉnh của cung điện là
cõi tịnh độ của pháp thân, tức là trạng thái chơn không. Phần giữa là
tịnh độ của báo thân, tức là xứ thịnh vượng vĩnh cửu. Phần dưới của cung
điện là cõi tịnh độ của hóa thân, tức là cõi tịnh độ hiển lộ mà những
người thành tâm có thể thưởng thức được. Chỉ do nhìn thấy cung điện này
mà Jetsun đã chứng nghiệm được trạng thái tâm giác ngộ tự nhiên của bà.
Vào Núi Quang Vinh
Lúc đó, thiên nữ vị dakini nói, “Bây
giờ chúng ta đi đến đó.” Trên đường đi đến Núi Quang Vinh, Jetsun
cảm thấy sự hiện diện của một đám đông người đang quan sát họ. Trong
khoảnh khắc, họ đi đến một cánh cổng hùng vĩ được làm bằng những vật
liệu quý, Thiên nữ dakini gõ vào cánh cổng, một người đàn bà với sắc
diện đỏ và cử chỉ mạnh mẽ đi ra và hỏi, “các vị là ai?” Vị dakini
trả lời:
Người nữ này đến từ Tây Tạng, xứ sở của Giáo Pháp.
Bà là một biểu hiện tâm thức của Dakini Hào Quang Xanh
Bà đến đây để gặp Đại Sư, hiện thân của tất cả các bậc trí giả
Nhưng bà bị tối tăm vì những bất thiện nghiệp ở quá khứ
Xin hướng dẫn để bà không gặp những chướng ngại nào trên đường đi".
Người đàn bà mặt đỏ nói với Jetsun:
"Ta chỉ là một dakini làm cỗ cúng
Nếu không xin phép các vị ở trong kia
Mà lại đưa con vào ngay là không được
Vậy con hãy chờ ở đây một lát".
Người đàn bà kia lại quay vào bên trong, và Thiên
nữ dakini đi theo sau. Không bao lâu sau, năm thiếu nữ rất xinh đẹp tay
cầm bình nước đi ra. Các vị tắm cho Jetsun với cam lồ tịnh thủy, rồi họ
đưa bà vào cổng bên trong. Tức khắc thân thể của bà tràn ngập cảm giác
hỷ lạc.
Ở cái cổng được trang trí công phu của cung điện,
một Thiên nữ dakini cao quý và xinh đẹp với một chút nét phẫn nộ đến đón
bà Jetsun. Tức khắc tâm của Jetsun nhập vào trạng thái thiền định. Bà đã
chứng nghiệm trạng thái thiền ở cấp độ Bồ tát thứ mười. Jetsun cầu
nguyện bảy lần với vị dakini. Vị dakini này dẫn bà Jetsun đi lên mười
sáu bậc thang bằng pha lê. Nơi đó, Jetsun thấy mình đang ở bên trong
cung điện. Đây là một nơi rộng lớn vô cùng, và từ đây người ta có thể
thấy tất cả mọi hiện tượng, không có sự mê lầm hay chướng ngại nào.
Ở trước mặt của Jetsun có một bức
màn lụa trắng thêu chỉ vàng. Khi bức màn mở ra, bà thấy Đức Liên Hoa
Sanh ngồi trong tư thế vương giả trên một tấm nệm hoa sen đặt trên một
ngai quý báu. Ngài có sắc diện trắng hơi đỏ, và toát ra năng lượng bình
an rộng lớn, chơn không và năng lực phẫn nộ. Ngài đội mão hoa sen có
hình mặt trời, mặt trăng, và lông đại bàng. Ngài mặc ba áo Giáo Pháp với
một áo gấm ở bên ngoài. Tay phải Ngài cầm một chày kim cương và tay trái
cầm một chén sọ người, bên trong là bình cam lồ trường sanh. Hào quang
của Ngài tỏa chiếu rực rỡ hơn trăm ngàn mặt trời. Bà cảm thấy mình không
thể có đủ sức để ngắm nhìn Ngài cho thỏa lòng tôn kính.
Jetsun thấy xung quanh Đức Liên Hoa Sanh là tất cả các vị Thầy vĩ đại
của quá khứ ở Tây Tạng và Ấn Độ.
Với ánh mắt từ bi, Đức Liên Hoa
Sanh nhìn Jetsun. Mỗi sợi lông trên thân thể bà đều dựng đứng. Bà vui
sướng xúc động đến nỗi khuôn mặt bà đẫm lệ với lòng tôn kính không thể
đè nén được. Bà đảnh lễ trước Đức Liên Hoa Sanh nhiều lần và cầu nguyện
cho hết thảy chúng sanh. Đức Liên Hoa Sanh ban nhiều lời tiên tri và
giảng giáo lý sau đây cho bà:
Hỡi Dakini Hào Quang Xanh, hãy nghe Ta nói
Đây là xứ vô thượng, Núi Màu Đồng Quang Vinh.
Trừ những người nam, nữ có thiện nghiệp
Người thường không thể thọ hưởng được
Đây là cõi tịnh độ vô thượng .Ta, Đại Sư Liên Hoa Sanh
Giữa những vị thành tựu và các vị Thầy ở đây,
Không có ai mà không đạt những cấp thành tựu cao
Ai trông thấy cõi tịnh độ này
Sẽ không bao giờ lạc khỏi con đường giác ngộ.
Vậy hãy phát tâm thành kính và cảm thấy an lạc.
Giờ đây, không chậm trễ, con phải trở về Tây Tạng.
Hãy là người hướng dẫn giảng dạy về luật nghiệp báo
Hãy là bậc Thầy trình bày về giáo lý Đại Thừa.
Hãy là viên ngọc trên vương miện của tất cả dakini.
Hãy là tinh túy của trái tim, người duy trì giáo lý của Ta.
Phục hồi những truyền thống của Thầy tổ.
Người nào trông thấy mặt con hay nghe lời nói của con
Sẽ đạt đến giác ngộ. Đây là những lời của Liên Hoa Sanh.
Hỡi những trí giả đang tụ tập ở đây,
Xin hãy gia hộ với tâm của các vị cho đệ tử này".
Sự gia hộ của Đại Sư
Ngay lúc đó, những luồng ánh sáng
nhiều màu, trắng, đỏ, vàng, và xanh phóng ra từ ngực tất cả những vị
thánh tề tựu nơi đó và hòa nhập vào ngực của Đức Liên Hoa Sanh. Với sự
dẫn đầu của Đức Liên Hoa Sanh, tất cả các thánh giả đều trì niệm Thần
Chú Kim Cương Sư ( Mantra Guru Vajra): OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA
SIDDHI HUNG. Âm thanh đó tràn ngập và vang vọng trong không gian.
Sau đó, đặt tay lên đầu của Jetsun, Đức Liên Hoa Sanh nói:
"Nguyện cho thân, miệng và ý của con.
Được gia hộ với thân, ngữ, và ý của Ta!".
Tức khắc, Jetsun cảm thấy một cảm giác kỳ diệu
khắp toàn thân, và bắt đầu rung chuyển. Bà cất lời tán thán đến Đức Liên
Hoa Sanh với giai điệu ngọt ngào và phát nguyện mang an lạc và hạnh phúc
đến cho tất cả chúng sanh. Rồi với tấm lòng nặng trĩu lúc giả biệt, bà
nói:
“Bạch Đức Đại Sư sanh ra từ biển
Hiện thân của tất cả chư Phật;
Các bậc trí giả của Ấn Độ và Tây Tạng,
Đang giảng giáo lý của chín thừa (ba thừa kinh điển, ba thừa mật điển
ngoại, ba thừa mật điển nội)
Biển lớn các dakini, các bà Mẹ,
Đang thọ hưởng vinh quang và hỷ lạc
Trong Cung Điện Núi Màu Đồng Vinh Quang
Nơi các vị thành tựu đang tụ hội!
Con là một kẻ hành khất tên là Lochen
Cô độc lang thang đến đây từ xứ Tây Tạng đau khổ.
Than ôi, đây chắc là nghiệp quả xấu của con từ quá khứ
Để con phải trở về Tây Tạng.
Hỡi các bậc thánh đang tụ hội ở đây!
Các Ngài có thấy nổi đau của con chăng ?
Mọi đau khổ của chúng sanh trong sáu cõi luân hồi và tam giới (dục giới,
sắc giới và vô sắc giới)
Xin hãy đổ lên con, để chịu thay thế cho họ"
Đến đây, Thiên nữ dakini đã gặp Jetsun ở cửa cổng,
Thiên nữ ban phước cho Jetsun với mũi tên trường thọ và nói:
"Hỡi người con gái may mắn, hãy nghe ta nói:
Ta là Dakini Hào Quang Xanh.
Con và ta là bất khả phân,
Giống như mặt trăng và bóng trăng trong nước.
Xin đừng buồn vì trở về,
Nhờ ơn gia hộ của Đức Liên Hoa Sanh,
Con sẽ làm lợi ích cho vô số sinh linh".
Jetsun đặt đầu mình vào chân Đức Liên Hoa Sanh,
Jetsun đã được Ngài ban cho bốn gia trì lực. Bà cũng được các bậc trí
giả thành tựu khác gia hộ. Vị Dakini Hào Quang Xanh đưa bà ra cổng, gia
hộ và ban những lời tiên tri. Ở đó, một lần nữa, vị Thiên nữ dakini một
mắt xuất hiện và đưa Jetsun trở về.
Lòng từ bi trong những
cõi đau khổ
Trong khoảnh khắc Jetsun đã đến
Thiên giới. Ở đây những người nam và nữ đang giải trí bằng âm nhạc,
nhảy múa, và thọ hưởng những thú vui nhục dục khác. Các chúng sanh trong
cõi bán thiên A Tu La thì bị đau khổ vì hành hạ lẫn nhau. Sinh linh
trong cõi bàng sanh đau khổ vì bị bắt làm nô lệ và ăn thịt lẫn nhau.
Những sinh linh trong cõi ngạ quỷ bị hành hạ trong trạng thái đói và
khát trầm trọng.
Sau đó Jetsun lại vượt qua một
cánh đồng rộng lớn và đi lên một đèo núi cao. Trên đỉnh đèo bà thấy địa
ngục đau đớn hãi hùng và lòng bà trĩu nặng với đầy nổi xót thương. Bà
nghĩ, “Mình nên đi đến thỉnh cầu Đức Pháp Vương thả những tội đồ đang
đau khổ này ra.” Những sinh linh ở địa ngục bị hành hạ bằng những
đòn tra tấn bất tận. Họ bị thiêu đốt trên những cánh đồng sắt nóng đỏ
bốc lửa. Họ bị cắt ra thành từng miếng, bị nghiền nát thành bụi, bị
nướng trong phòng giam nóng cháy, bị đâm bằng những khí cụ nóng cháy và
bị rót nước đồng sôi vào cổ họng. Vì đây là quả báo mà họ phải chịu, nên
họ không bao giờ chết ở địa ngục mà sẽ ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần
cho đến khi sự chịu tội ở địa ngục của họ chấm dứt.
Với khuôn mặt đẫm nước mắt, tâm
trạng u buồn, và lòng bi mẫn, Jetsun cầu nguyện. Tức khắc, một dakini
với Đức Phật Từ Bi xuất hiện và giảng giáo lý cho bà. Jetsun cũng thành
tâm cầu nguyện, và bà cảm thấy mức độ đau khổ của các sinh linh đó đã
giảm bớt. Tất cả các tội đồ của địa ngục nhìn thấy Jetsun, và một số họ
còn có thể quy y Tam Bảo. Jetsun cất lời ca ngợi giáo lý sau đây cho họ
nghe:
"Nếu muốn giải thoát khỏi những đau khổ này,
Hãy xem vị Thầy mà mình tin tưởng,
Là hiện thân của tất cả ba đối tượng quy y tối thượng: Phật, Pháp, và
Tăng.
Cầu nguyện vị Thầy với lòng tôn kính vô biên.
Sám hối những nghiệp chướng mà mình đã tạo trong quá khứ.
Hãy hứa không tạo ác nghiệp như vậy nữa.
Phát nguyện nhận vào mình những đau khổ của người khác.
Hãy xem quân đao phủ địa ngục như Đức Phật Từ Bi.
Quán tưởng địa ngục là cõi tịnh độ của Phật Từ Bi
Hãy nghe những âm thanh đánh và giết như tiếng niệm OM MANI PADME HUNG.
Bản chất thật của đau thương là rỗng không
Năng lực tự nhiên của tâm thức là sự hiện diện một cách tự nhiên và bất
tận.
Mọi sắc tướng phát sanh từ oai lực của chơn không và được giải thoát vào
chơn không.
Sự phát sinh và sự giải thoát của chúng không liên tiếp nhau mà là cùng
lúc.
OM: quán tưởng thân thể của mình là thân quang
minh chơn không của Phật Từ Bi.
MA: Trong thân đó quán tưởng kinh mạch trung ương với bốn phẩm tính,
NI: Trong thân đó tâm thức có hình dạng quả cầu ánh sáng năm màu.
PAD: Với năng lực của " hơi thở cái bình".
ME: Vào trong tim của Đức Phật Vô Lượng Quang,
HUNG: Hãy phóng quả cầu ánh sáng và hợp nhất
HRI: Bằng cách niệm PHAT năm lần.
Pháp này có oai lực giải thoát thần thức cho
các sinh linh, kể cả những người đã tạo ác nghiệp.
Hôm nay ta làm pháp phowa cho những sinh linh ở
địa ngục.
Do lòng từ bi của các vị lạt ma và các vị dakini,
Nguyện cầu cho tất cả các vị sớm giải thoát khỏi những cõi thấp và đắc
Phật quả.”
Vào lúc này, nhiều sinh linh thoát ra khỏi địa ngục.
Năng lực giác tánh nội tại
của riêng bà
Khi Jetsun cảm thấy muốn gặp vị
Pháp Vương, tức khắc bà thấy một luồng ánh sáng phát ra từ đầu của mình.
Ở đầu kia của luồng ánh sáng, bà trông thấy một pháo đài sắt to lớn,
đáng sợ. Trong pháo đài, trên một ngai tạo bằng xác chết, mặt trời, mặt
trăng, và hoa sen là vị Đại Pháp Vương. Ngài có hình dạng phẫn nộ, mặc
trang phục phẫn nộ với sắc diện màu tím đen. Ngài ở giữa một cơn bão lửa
và những dòng máu. Ngài cầm một tấm bảng và một tấm gương, và đang gầm
với âm thanh phẫn nộ: A-RA-LI. Đứng xung quanh Ngài là các vị Thần Chết.
Ngay lúc đó, Jetsun cảm thấy rằng
vị Thiên nữ dakini đi cùng với mình nhập vào tim của bà và Phật Từ Bi đã
hòa nhập vào đầu bà.
Bà kính chào vị Pháp Vương và đoàn
tùy tùng của Ngài. Sau đó bà cầu nguyện, và hình như tất cả các vị đều
lập lại lời nguyện theo sau bà. Khi bà nhắm mắt trong sự tôn kính, dường
như tất cả họ đều bắt chước làm theo bà. Đến lúc này bà chợt hiểu ra
rằng mọi sắc tướng này chỉ là năng lực biểu lộ tánh giác nội tại của
riêng bà.
Vị Pháp Vương hỏi Jetsun, và các vị phụ tá của Ngài kiểm lại những hành
vi quá khứ của bà trong tấm gương, trong sổ ghi chép và với cái cân. Khi
thấy chỉ có những nghiệp tốt, các vị đã hướng dẫn bà đi vào con đường
giải thoát.
Jetsun nói với họ, “Làm sao tôi có thể rời khỏi
nơi này một mình, bỏ lại mọi sinh linh trong địa ngục này ? Xin hãy cho
mọi người được giải thoát.”
Vị Pháp Vương đáp:
“Người không biết địa ngục chỉ là phản ánh của
tâm tánh của con người hay sao ?
Ta không tạo ra nền sắt nóng cháy và những ngọn lửa địa ngục.
Chúng là những sản phẩm của tâm sân hận và tham dục
Mỗi đau khổ trong địa ngục
Được tạo ra bởi cảm xúc trói buộc của chính nó, thí dụ như cảm xúc sân
hận.
Đối với tâm giác ngộ thì địa ngục là cõi Cực Lạc.
Chính chúng ta là những vị Phật hiền hòa và phẫn nộ.
Đau khổ chấm dứt là "lúc giải thoát phát sanh”.
Khi trở về thế gian của người
Hãy chuyển thông điệp này cho mọi người: “Luật nhân quả không bao giờ
sai lạc".
Ngươi, Jetsun, đã tận mắt chứng kiến.”
Jetsun quán tưởng chính mình là
Đức Phật Từ Bi với một trăm vị Thần hiền hòa và phẫn nộ ở trong mình.
Rồi bà niệm “OM MANI PADME HUNG “và an trụ trong trạng thái thiền
chơn không. Kết quả là nhiều sinh linh đã được giải thoát khỏi địa ngục.
Không bao lâu sau đó Jetsun đã tái
nhập về thể xác và hồi phục sức khỏe. Trước đó Mẹ và bạn bè của bà canh
giữ cái xác của bà suốt ngày đêm. Đôi lúc họ cảm nhận mùi hương thơm, có
khi là mùi của xác chết, có lúc mùi rất thơm, và đôi lúc mùi rất hôi.
Những mùi này là tương ứng với thời gian và địa điểm mà Jetsun viếng
thăm.
Không có gì để
lấy hay bỏ: kinh nghiệm của Đại Sư Do Khyentse Yeshe Dorje
Do Khyentse (1800-1866), ra đời
tại tỉnh Golok thuộc miền Đông Tây Tạng và là một trong những vị đại sư
thành tựu, kỳ diệu và vĩ đại nhất của tông phái Nyingma của Phật giáo
Tây Tạng. Những cuộc viếng thăm cõi tịnh độ của các vị Thầy thành tựu
như Đại Sư Do Khyentse thường được các sách Phật giáo Tây Tạng xếp vào
loại linh thị thanh tịnh hay các hành trạng giải thoát của quý Ngài, chứ
không được xem là kinh nghiệm cận tử của một delog. Thêm nữa, Đại Sư Do
Khyentse chỉ đề cập một cách không chi tiết về những chuyến du hành của
Ngài đến các cõi thấp như địa ngục, vốn rất quan trọng cho những chuyện
kể của delog để răn đe và gây cảm hứng cho mọi người. Vì vậy lời kể của
Ngài về chuyến viếng thăm cõi tịnh độ không thực sự được xếp loại truyện
delog.
Đại Sư Do Khyentse (1800-1866)
Tuy nhiên tôi vẫn cho vào cuốn
sách này cuộc du hành đến cõi tịnh độ của Đại Sư Do Khyentse, vì chuyện
kể của Ngài minh họa đề tài đi thăm những cõi khác sau khi rời khỏi thể
xác, và chuyện này cũng kể chi tiết về cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh.
Thời tuổi trẻ và như một ẩn sĩ,
Đại Sư Do Khyentse đã vân du nhiều nơi ở xứ Amdo thuộc miền Đông Bắc Tây
Tạng. Theo lời kể của vị Thầy chính của Ngài, Dodrupchen Rinpoche Đệ
Nhất. Đại Sư Do Khyentse bỗng ngã bệnh đậu mùa, mà vào thời đó là một
căn bệnh chết người. Sau đó vài ngày Ngài ngừng thở và ở trong trạng
thái chết lâm sàng trong mười lăm ngày. Vì Ngài đã biểu lộ quyền năng
huyền bí dị thường từ thời thơ ấu nên các đệ tử không đụng chạm vào nhục
thân của Ngài, với niềm hy vọng Ngài sẽ sống lại.
Thân huyễn
ảo bị phá hủy
Đại Sư Do Khyentse thấy mình có
một người đồng hành là em gái của mình, Dakini Losal Drolma (1802-1861),
cũng là một hành giả thành tựu và hai người đàn bà khác và một hành giả.
Họ cùng nhau đi đến nhiều nơi, từ cõi địa ngục cho đến các cõi trời.
Riêng Đại Sư Do Khyentse thì cảm thấy mình có bạn đồng hành, nhưng các
vị kia thì không có cùng cảm nhận như vậy. Thí dụ, lúc đó em gái Ngài
đang theo học với đạo sư Dodrupchen.
Vượt qua nhiều lục địa, họ đến Núi
Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh. Trên đường đi họ
gặp nhiều người ở những nơi khác nhau. Ngài không hiểu ngôn ngữ của họ,
Ngài vẫn có thể giao tiếp với họ qua năng lực tánh giác nội tại của mình.
Ở đầu một chiếc cầu khổng lồ, nhóm
của Ngài được mười vị Thần phẫn nộ đón tiếp. Các vị này làm lễ giải trừ
những dấu của bất thiện nghiệp. Những người du hành vẫn mang theo những
dấu vết của nghiệp xấu từ thói quen trần tục của họ, dù họ là những vị
Thầy thành tựu đã rời khỏi thể xác.
Sau khi đi qua cổng bên ngoài và
cổng bên trong, họ được một đại thành tựu hành giả cầm một chiếc bình
đầy cam lồ đón tiếp. Vị này tịnh hóa cho họ bằng cách tẩy rửa những ô
nhiểm của họ với giòng cam lồ trong chiếc bình.
Sau đó họ đi vào một cung điện
trưng bày của cải nhiều vô lượng. Ở đó họ trông thấy Đức Liên Hoa Sanh
trong hình dạng phẫn nộ với oai lực lớn đến mức làm cho Đại Sư Do
Khyentse bất tỉnh một lúc vì quá sợ hãi. Khi tỉnh lại Ngài thấy các vị
thần thọ hưởng cỗ thịt của một xác chết. Ngài thấy xác chết đó là thể
xác của chính mình.
Lúc đó, hai vị dakini phẫn nộ đi
đến chỗ người em gái đang ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị này lột da cô ta và
xếp thịt, xương, và nội tạng thành một đống để làm lễ vật. Một vị Thần
phẫn nộ xuất hiện từ trên không và gia hộ cho xác thân của cô. Sau đó
các vị dakini dâng trái tim cô cho vị Thần đứng đầu. Các vị Thần khác ăn
tất cả những phần thân thể đó của cô không để lại một thứ gì cả. Đại Sư
Do Khyentse cảm thấy thương xót và buồn khổ không thể chịu dựng nổi khi
người em gái không còn nữa. Thông thường thì do thói quen chấp thủ, hay
bám giữ, chúng ta mạnh mẽ chống lại sự ra đi hay mất đi thể xác vật chất
của mình. Giải trừ được thói quen chấp thủ này là một kỳ công trong tu
tập.
Tiếp nhận
gia trì lực
Sau đó nhóm người đi lên một cầu
thang lớn bằng pha lê. Đại Sư Do Khyentse thấy mọi người nổi bồng bềnh
giống như những mảnh giấy trong làn gió, không còn thể xác nữa, vì những
thể xác đó đã bị các vị Thần ăn hết trên đường. Họ đi vào một cung điện
đẹp đẽ và vui mừng một cách đáng ngạc nhiên. Vẻ đẹp của kiểu kiến trúc,
sự phong phú của những chi tiết, và những âm thanh hỷ lạc của Giáo Pháp
giống hệt như đã được mô tả trong những lời cầu nguyện Màu Đồng Vinh
Quang.
Ở giữa cung điện, Đức Liên Hoa
Sanh ngồi trên một ngai quý báu, tỏa hào quang ra khắp nơi. Đất và trời
tràn đầy những đấng giác ngộ trong hình dạng nam và nữ. Đại Sư Do
Khyentse muốn tiếp nhận được sự gia hộ của Đức Liên Hoa Sanh bằng cách
chạm vào Ngài, nhưng chợt nhận ra là mình không thể làm được, vì mình
không còn thân vật chất nữa.
Rồi một dakini mặt trắng, tay cầm
một sọ người đến gần chỗ của Đại Sư Do Khyentse và nói “Đức Liên Hoa
Sanh là hiện thân của chư Phật trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai.
Ngài hiển lộ trong tất cả các cõi của vũ trụ, giống như một mặt trăng
phản chiếu trong vô số chậu nước. Giống như bóng trong gương phản chiếu,
ngươi cũng là biểu hiện của Đức Liên Hoa Sanh và được giao phó đến Tây
Tạng để phụng sự loài người cũng như các loài phi nhân, và để khám phá
và bảo tồn những giáo lý huyền bí ở đó. Vì ngươi trở nên vô minh do sự ô
nhiễm từ trong bào thai của huyễn ảo nên thân xác của ngươi đã bị các vị
thần ăn hết trong bữa tiệc đó. Bây giờ ngươi có thân ánh sáng với tinh
túy của trí tuệ. Ngươi phải tiếp nhận bốn gia trì lực từ Đức Liên Hoa
Sanh và gieo trồng hạt giống của bốn cấp của những bậc trí giả.”
Tất cả những người có mặt ở cung
điện làm lễ trong bảy ngày. Đức Liên Hoa Sanh chủ tọa cuộc lễ như một vị
Kim Cương Chủ. Vua Trisong Detsen làm phụ tá kim cương chủ, Guru Chowang
làm trưởng ban tụng niệm, Nyinma Trakpa làm trưởng ban nghi lễ, Duddul
Dorje và Karma Lingpa làm trưởng ban về giới luật, và Rigdzin Goddem làm
trưởng ban gia hộ ban phước. Có vô số các bậc trí giả, daka, và dakini
tham dự. Vào cuối cuộc lễ, Đại Sư Do Khyentse nhận được bốn gia trì lực,
thanh lọc được những nhiễm ô thai bào của mình. Đại Sư Do Khyentse cũng
được giao giữ một cái hộp nhỏ chứa đựng những văn bản giáo lý huyền bí
cất giấu (terma). Sau cùng, Đức Liên Hoa Sanh ban những lời dạy sau đây:
“Khi con chứng ngộ sắc tướng là không,
Không cần lắm việc sống xa lánh mọi người.
Khi sự huyễn ảo của sắc tướng đã sụp đổ
Và chơn tánh đã được chứng ngộ
Không phân biệt, dù chỉ một chút nhị nguyên
Hay chấp thủ dù những đức hạnh nhiễm ô
An trụ trong trạng thái thanh tịnh nguyên thủy vững chắc.
Khi biết sắc tướng là mộng ảo
Hãy xem những đối tượng của giác quan chỉ là hư huyễn.
Trong luân hồi giả ảo, không có gì để lấy hay là bỏ.
Hãy làm những hoạt động cao cả của các bậc Bồ tát.
Hiểu rằng những nhận thức ban ngày là tánh
quang minh của pháp thân.
Và những nhận thức ban đêm là năng lực của báo thân.
Hãy hợp nhất Mẹ và con, tức trí tuệ và chơn không.
Hãy tu tiến qua mười địa của Bồ tát và năm đạo (từ công đức đến Phật
quả) với tốc độ của mặt trời và mặt trăng.
Khi con thành tựu đại lạc bất biến,
Con sẽ trong trạng thái nhất như với Ta.
Không di chuyển, không mô tả, và không biến đổi
Là những mô thức cuối cùng để đạt giải thoát – hãy nhận biết tất cả
những điều này.”
Đức Liên Hoa Sanh cất tiếng cười ba lần, lớn đến
nổi Đại Sư Do Khyentse cảm thấy toàn cả lục địa rung chuyển với tràng
cười của Ngài. Sau khi được Đức Liên Hoa Sanh gia hộ và dạy giáo lý, Đại
Sư Khyentse và các vị đồng hành rời khỏi cung điện. Vị dakini mặt trắng
đến một lần nữa và nói:
“Giống như mặt trời và những tia sáng,
Ông là sự biểu lộ và Đức Liên Hoa Sanh là nguồn của sự biểu lộ, là bất
khả phân với nhau
Nhưng vì nhân duyên
Bây giờ xuất hiện như người trên kẻ dưới.
Trong tương lai, ông sẽ lại hợp nhất, như nước với nước.”
Rồi một vị Thần với đôi
mắt mở rộng nói với Đại Sư Do Khyentse:
"Không bám giữ một nơi nào hay một đối tượng,
Hãy hoàn tất mọi việc đã giao phó cho ngươi
Sự bảo hộ của ta đối với ngươi không thay đổi
Nguyện cho ngươi sớm đắc Phật quả để nhiếp phục ba cõi".
Trở lại Thế Gian
Đại Sư Do Khyentse và
những vị đồng hành đi ra khỏi cổng rồi họ du hành đến những cõi tịnh độ
của Đức Phật Vô Lượng Quang, Bồ Tát Quán Thế Âm và Nữ Thần Tara. Cuối
cùng, họ trở lại thế gian. Trước hết, khi thần thức vẫn ở bên ngoài thể
xác, Đại Sư Do Khyentse đến chỗ vị Thầy của Ngài, Dodrupchen Rinpoche Đệ
Nhất, ở Yarlung Pemako, một hẻm núi ở Thung lũng Ser. Ngài được Thầy dạy
nhiều giáo lý và gia trì lực.
Rồi sau đó Ngài trở lại
xác thân của mình. Ngài trông thấy một người đàn bà màu đỏ, vốn là người
đang bảo vệ nhục thân của Ngài, xuất ra khỏi xác thân của Ngài và biến
mất. Ngài cảm thấy mình chạm vào cái xác, và tức khắc Ngài ở trong thân
vật chất của mình. Trong một lúc lâu, Ngài phải hết sức mới nhìn thấy,
nói và cử động. Sau đó với một nỗ lực lớn, Ngài có thể vận động hai chân
một chút, và các đệ tử đang chờ đợi đều chạy đến để giúp Ngài. Một y sĩ
người Trung Hoa đưa thuốc cho Ngài và dần dần Ngài khỏi bệnh đậu mùa và
phục hồi sức khỏe trong khoảng một tháng.
Theo những lời truyền
khẩu thì Đại Sư Do Khyentse đã du hành đến nhiều cõi giới khác nhau. Có
khi Ngài đi thăm các cõi tịnh độ để gặp các vị Phật và các vị Thầy. Có
khi Ngài đến những xứ bí ẩn hay những cõi của những giống người khác
nhau trên thế gian để giúp đỡ họ. Có khi Ngài du hành trong thể xác,
bằng cách biến mất rồi lại xuất hiện, và vào những lúc khác Ngài rời
khỏi thể xác, như đã mô tả ở phần trên.