3. SỰ NGHIỆP PHIÊN DỊCH VÀ TRƯỚC TÁC
Không
chỉ làm công tác truyền giáo, Khương Tăng Hội còn tiến hành sự nghiệp
phiên dịch trước tác. Như đã thấy, ông dịch Lục độ tập kinh vào năm Thái
Nguyên thứ nhất (251) đời Tôn Quyền và Đạo phẩm vào đời Tôn Lượng (252 -
258). Cứ Xuất Tam tạng ký tập 2 ĐTK 2145 tờ 7a27-b1, Khương Tăng Hội đã
phiên dịch hai bộ kinh là Lục độ tập kinh 9 quyển và Ngô Phẩm 5 quyển
“vào đời Ngô chúa Tôn Quyền và Tôn Lượng”. Xuất Tam tạng ký tập là một
bản kinh lục xưa nhất hiện còn đáng tin cậy, vì khi viết nó, Tăng Hựu có
tham khảo với bản kinh lục của Đạo An và một số kinh lục khác. Tuy
nhiên, trong bản tiểu sử của Khương Tăng Hội ở Xuất Tam tạng ký tập 13
ĐTK 2145 tờ 97a13-16, Tăng Hựu lại viết: “Hội ở chùa Kiến Sơ dịch kinh
pháp (như) A nan (?) niệm di kinh, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm
hoàng vương kinh, Đạo phẩm và Lục độ tập kinh, đều khéo được thể kinh,
văn nghĩa doãn chính. Lại chú thích ba kinh là An ban thủ ý, Pháp kính
và Đạo Thọ, cùng viết lời tựa cho các kinh ấy, lời lẽ đẹp đẽ, nghĩa lý
vi diệu, đều được hậu thế kính trọng”.
Thế
thì, không chỉ dịch Lục độ tập kinh và Ngô Phẩm hay Đạo phẩm, Khương
Tăng Hội còn dịch các kinh A ly niệm di, Kính diện vương, Sát vi vương
và Phạm hoàng vương. Kinh A ly niệm di, mà Xuất Tam tạng ký tập và Cao
tăng truyện đều viết thành A nan niệm di, ngày nay có mặt trong Lục độ
tập kinh. Các kinh Kính diện vương, Sát vi vương và Phạm hoàng vương đều
cũng thế. Hiện chúng cùng kinh A ly niệm di đã tạo nên bộ phận cuối
cùng của Lục độ tập kinh. Vậy phải chăng tự nguyên thủy Lục độ tập kinh
không có các kinh này? Xuất Tam tạng ký tập 4 ĐTK 2145 tờ 25b8-9 trong
mục tân Tập tục soạn thất dịch tạp kinh lục đã ghi “Kính diện vương kinh
1 quyển xuất từ Lục độ tập kinh, Sát vi vương kinh 1 quyển xuất từ Lục
độ tập”. Thế thì, tự nguyên thủy Lục độ tập kinh tự bản thân đã có các
kinh đó, rồi sau mới tách rời ra thành từng bản đơn hành.
Một
kiểm soát sơ bộ chính Xuất Tam tạng ký tập cũng cho thấy, ngoài hai
kinh vừa nói, Lục độ tập kinh còn có 20 kinh lưu hành dưới dạng đơn kinh
bản, mà Tăng Hựu ghi rõ xuất phát từ nó. Cụ thể là Di liên kinh (tờ
16b25), Tát hòa đàn vương kinh (tờ 17c6), Mật phong vương kinh (tờ
17c23), Phật dĩ tam sự tiếu kinh (22a26), Nho đồng bồ tát kinh
(22c18), Bồ tát dĩ minh ly quỉ thệ kinh (23a25), Điều đạt giáo nhân vi
ác kinh (23c18), Kiệt tham vương kinh (25b11), Sát thân tế cổ nhân kinh
(26c25), Sát long tế nhất quốc nhân kinh (26c26), Bồ tát thân vi cáp
vương kinh (27b5), Tước vương kinh (27b10), Trung tâm chính hạnh kinh
(29a12), Già la vương kinh (34a6), Càn di vương kinh (34a11), Thái tử
Pháp thí kinh (34a23) Tiên thán kinh (34b9), Bồ tát tác qui bản sự kinh
(34c29), Bồ tát vi ngư vương kinh (35a2), Bố thí độ vô cực kinh
(36a11).
Vậy,
các kinh A ly niệm di, Kính diện vương, Sát vi vương và Phạm hoàng
vương là những đơn hành bản của Lục độ tập kinh. Bản thân Lục độ tập
kinh là một “tập kinh” nên các kinh trong nó có thể được tách ra và lưu
hành độc lập, mà không ảnh hưởng gì đến nội dung của chúng. Vì thế, ta
mới thấy lưu hành một số lượng lớn đơn hành bản, như vừa thấy. Nếu vậy,
tại sao cả Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo đều viết: “Hội ở chùa Kiến Sơ, dịch ra
kinh pháp (như) A ly niệm di kinh, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm
hoàng vương kinh, Đạo phẩm và Lục độ tập kinh". Việc ghi tên bốn kinh A
ly niệm di, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm hoàng vương tách riêng
ra với Lục độ tập kinh như thế này hẳn để báo cho chúng ta biết quá
trình phiên dịch của Lục độ tập kinh. Nói cách khác, trong khi tiến hành
phiên dịch Lục độ tập kinh, Khương Tăng Hội đã chọn bốn kinh vừa nêu
dịch và cho lưu hành trước, rồi mới tiếp tục dịch tiếp toàn bộ bản Lục
độ tập kinh còn lại. Sự thực, bốn kinh có một nội dung triết học sâu xa,
đặc biệt kinh A ly niệm di và Sát vi vương. Cho nên, có thể vì yêu cầu
học tập và phổ biến giáo lý cho các tầng lớp trí thức cỡ từ Tôn Quyền
trở xuống, Khương Tăng Hội phải cho chọn và nhuận sắc lại một số kinh
cần thiết nhằm đáp ứng đòi hỏi trước mắt. Do thế, mới có việc Tăng Hựu
và Huệ Hạo ghi tên các kinh ấy trước Lục độ tập kinh.
Sau
năm 251 đến năm 258, Khương Tăng Hội dịch Đạo phẩm. Đạo phẩm, mà Xuất
Tam tạng ký tập 2 gọi là Ngô phẩm, vì nó được dịch ở triều Ngô của Tôn
Quyền, thực chất là bộ kinh Bát nhã tám ngàn kệ, đúng như Cao tăng
truyện đã nói là Khương Tăng Hội dịch Tiểu phẩm. Tiểu phẩm đây là Tiểu
phẩm bát nhã tám ngàn kệ, mà Kumarajìva dịch về sau. Vào thời Tăng Hựu
viết Xuất Tam tạng ký tập, Đạo phẩm đang còn lưu hành. Đến khi Phí
Trường Phòng hoàn thành Lịch đại tam bảo ký, nó đã thất lạc. Cho nên,
Đại đường nội điển lục và Khai nguyên thích giáo lục đã xếp nó vào loại
khuyết bản.
Như
thế, theo Tăng Hựu sự nghiệp dịch thuật Khương Tăng Hội chỉ giới hạn
vào Lục độ tập kinh và Đạo phẩm. Và vì Đạo phẩm thất lạc sớm, nên hiện
nay chỉ còn Lục độ tập kinh. Tuy nhiên, theo Huệ Hạo, Khương Tăng Hội
còn dịch Tạp thí dụ kinh. Xuất Tam tạng ký tập 42 ĐTK 2145 hiện có bốn
mục ghi Tạp thí dụ kinh, nhưng không ghi là dịch giả. Ở quyển 4 tờ
21c11, nó ghi dưới mục Tân tập tục soạn thất dịch tạp kinh lục: “Tạp thí
dụ kinh 6 quyển, hoặc gọi là Chư Tạp thí dụ kinh”. Cũng dưới mục ấy ở
tờ 22a5 ghi: “Tạp thí dụ kinh 2 quyển”. Rồi ở tờ 31a11, nó ghi: “Tạp thí
dụ kinh 1 quyển, phàm 11 việc. An pháp sư chép Trúc Pháp Hộ kinh mục có
Thí dụ kinh 300 chuyện 25 quyển, xen lẫn không có danh mục, khó có thể
phân biệt. Bản mới soạn vừa có được đều liệt định các quyển để người xem
hiểu. Tìm hiểu các bản này phần lớn xuất phát từ các kinh lớn, có lúc
mất tên người dịch, nhưng bản Hộ cũng dịch ra, hoặc có ở trong đó”.
Ba
bản Tạp thí dụ kinh, mà Tăng Hựu vừa liệt kê, đó là các “tân tập mới
được, nay đều có bản của chúng, tất cả đều ở kinh tạng” (tờ 32a1-7).
Cũng ở quyển 4 tờ 32a3-4, dưới mục Điều tân soạn mục lục khuyết kinh,
Tăng Hựu viết: "Tạp thí dụ kinh 80 quyển. Cựu lục có ghi". Bản Tạp thí
dụ kinh này Tăng Hựu bảo là “chưa thấy kinh văn” của nó.
Trong
Đại Chính đại tạng kinh đang lưu hành hiện nay, có một bản Cựu tạp thí
dụ kinh 2 quyển thượng hạ, ghi là do Khương Tăng Hội dịch. Vậy, trong
bốn bản Tạp thí dụ kinh do Tăng Hựu kể trên, phải chăng bản 2 quyển là
bản của Khương Tăng Hội? Câu hỏi này hiện không thể trả lời dứt khoát
được, vì Tăng Hựu làm việc khá nghiêm túc, và ông đã không biết ai là
dịch giả của bản 2 quyển ấy. Dẫu thế, ngày nay nếu căn cứ vào nội dung
và văn phong của chính bản Cựu tạp thí dụ kinh hiện còn, ta vẫn có thể
kết luận nó là do Khương Tăng Hội dịch, đặc biệt trong đó có dấu vết của
các câu tiếng Việt cổ, mà cụ thể là chữ “thần thọ”, tức thần cây, như
ta đã gặp trong Lục độ tập kinh. Sự nghiệp dịch thuật của Khương Tăng
Hội, như vậy, ngoài bản Đạo phẩm đã mất, hiện đang tồn tại trong Lục độ
tập kinh và Cựu tạp thí dụ kinh.
Bản
Cựu tạp thí dụ kinh này có thể là một bản phác thảo, chứ không phải là
một bản phiên dịch thực thụ, bởi vì nếu phân tích kỹ, một số truyện ta
thấy chúng được giản lược tối đa, và cuối truyện có khi Khương Tăng Hội
ghi lại lời bình luận của vị thầy của ông qua câu “Thầy nói” (sư viết).
Điều này chứng tỏ ông có thể đã nghe thầy ông giảng những chuyện ấy và
ông ghi lại trong khi ở Việt Nam. Đến lúc qua Kiến Nghiệp, trong những
thời gian rãnh rỗi, ông đem ra nhuận chính và tổ chức lại bản phác thảo
ấy và biến thành Cựu tạp thí dụ kinh. Có lẽ vì tính chất phác thảo này,
nên cho đến thời Tăng Hựu nó vẫn chưa được thừa nhận là một dịch phẩm
của Khương Tăng Hội. Phải đợi hơn ba mươi năm sau, khi Huệ Hạo viết Cao
tăng truyện, tính kinh điển của nó và tác quyền của Khương Tăng Hội mới
được thừa nhận.
Với
tư cách một bản phác thảo được nhuận chính, Cựu tạp thí dụ kinh chắc
hẳn phải được hoàn thành trong một thời gian dài. Điều này có nghĩa nó
đã được ghi chép ở Việt Nam rồi sau đó qua Trung Quốc mới nhuận chính.
Và việc nhuận chính chắc chắn phải xảy ra sau năm 258 cho đến khi Khương
Tăng Hội mất vào năm 280, bởi vì những năm trước đó ông còn lo phiên
dịch Lục độ tập kinh và Đạo phẩm.
Không
những phiên dịch, cả Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo đều nói Khương Tăng Hội còn
viết chú thích cho ba kinh An ban thủ ý, Pháp kính và Đạo thọ cùng lời
tựa cho chúng. Trong ba bản này, ngày nay bản chú thích cho kinh An ban
thủ ý đang còn, còn hai bản kia đã thất lạc. Về phần ba bài tựa, hiện
được bảo lưu hai bài trong Xuất Tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 42c29-43c3
và tờ 46b19-c11.
Hai
bài tựa này cùng An ban thủ ý kinh chú giải có thể nói chắc chắn được
biết rất sớm trong toàn bộ sự nghiệp trước tác của Khương Tăng Hội với
những lý do sau: Thứ nhất, An ban chú tự của Đạo An (314-385) do Tăng
Hựu sưu tập lại trong Xuất Tam tạng ký tập 6 ĐTK 2154 tờ 43c22-23 nói:
“Ngụy sơ, Khương Hội viết chú nghĩa cho (kinh). Nghĩa hoặc ẩn mà chưa
rõ. An trộm không tự lượng dám nhân người trước, viết giải thích vào
dưới”.
Nhà
Ngụy do Tào Phi thành lập năm 221 và chấm dứt năm Hàm Hy thứ nhất (265)
của Nguyên đế Tào Hoán, kéo dài được 45 năm. Cho nên, nếu Đạo An nói
Khương Tăng Hội viết An ban thủ ý kinh chú giải vào “đầu đời Ngụy” (Ngụy
sơ), thì dứt khoát Hội không thể viết nó sau năm 247 được. Bởi vì từ
năm 247 trở đi không thể gọi là “Ngụy sơ” được mà phải gọi là “Ngụy
mạt”. Đây chắc là lý do tại sao Tăng Hựu đã tõ ra do dự khi nói về thời
điểm dịch Lục độ tập kinh và Ngô Phẩm trong Xuất Tam tạng ký tập 2 ĐTK
tờ 7a27-b1 với câu: “Thời Ngụy Minh đế (228-240) sa môn Khương Tăng Hội
dịch ra vào đời Ngô chúa Tôn Quyền (222-252) và Tôn Lượng (253-258)”.
Và
không chỉ chú giải kinh An ban thủ ý Đạo An còn là một nhà kinh lục đầu
tiên có uy tín của lịch sử kinh lục Trung Quốc, mà Tăng Hựu trong Xuất
Tam tạng ký tập 1 ĐTK tờ 1a27-b1 đã ca ngợi là người “đem tài lớn thấy
sâu, soạn viết kinh lục, đính chính thấy nghe, phân biệt rõ ràng”. Huệ
Hạo trong Cao tăng truyện 5 ĐTK 2059 tờ 352a27-b1 thì viết: “Từ Hán Ngụy
đến Tấn, kinh đến càng nhiều., mà tên tự người truyền dịch kinh chẳng
chép. Người sau tìm hiểu, không biết niên đại. An bèn Tổng tập danh mục,
ghi lại thời đại và tên người, chép phẩm mới cũ, soạn làm kinh lục. Các
kinh có chứng, thật do công của An”.
Bản
kinh lục của Đạo An mà Huệ Hạo vừa đề cập và Tăng Hựu xử dụng để viết
nên Xuất Tam tạng ký tập, chính là Tổng lý Chúng kinh mục lục. Phí
Trường Phòng trong Lịch đại tam bảo ký 8 ĐTK 2034 tờ 76b13, Đạo Tuyên
trong Đại đường nội điển lục 3 ĐTK 2149 tờ 251a2 và Trí Thăng trong Khai
nguyên thích giáo lục 10 ĐTK 2104 tờ 572c29-573a6 đã ghi lại và nhận
xét nó “đủ để lại mẫu mực cho người sau”. Cho nên, những gì Đạo An phát
biểu về An ban thủ ý kinh chú giải không phải chỉ với tư cách của một
nhà chú giải, mà còn với tư cách một nhà kinh lục có tầm cở và uy tín,
một nhà kinh lục sống không cách thời Khương Tăng Hội bao nhiêu. Hội mất
năm 280. Ba mươi bốn năm sau Đạo An ra đời.
Vì
thế, khi An nói Khương Tăng Hội viết An ban thủ ý kinh chú giải vào
thời Ngụy Sơ, thì đó là một mẫu tin có độ tin cậy cao. Và nó hoàn toàn
phù hợp với những gì chính Hội viết trong bài tựa cho bản chú giải ấy,
mà Tăng Hựu “sao soạn” lại trong Xuất Tam tạng ký tập dưới tên An ban
thủ ý kinh chú tự. Chẳng hạn, khi nói An Thế Cao đến Trung Quốc, Hội
viết: “Bèn ở kinh sư”. Kinh sư đây chỉ Lạc Dương, mà cả nhà Hán lẫn Ngụy
đều lấy làm thủ đô. Do đó, không thể có việc Khương Tăng Hội đã viết
bài tựa ấy sau năm 247, khi đang sống tại Trung Quốc, bởi vì lúc ấy Tôn
Quyền đã xưng đế và kinh sư là Kiến Nghiệp chứ không thể là Lạc Dương.
Một
khi viết An ban thủ ý kinh chú giải và An ban thủ ý kinh tự vào thời
"Ngụy sơ", tức khoảng những năm 221-230, thì cũng có khả năng Khương
Tăng Hội đã soạn Pháp kính kinh tự và Pháp kính kinh giải tử chú vào
cùng giai đoạn đó. Pháp kính kinh giải tử chú ngày nay đã mất, nên ta
không thể bàn gì thêm. Nhưng Pháp kính kinh tự hiện còn do Tăng Hựu chép
lại trong Xuất Tam tạng ký tập. Khi nói về tình cảm của mình đối với
các vị thầy, Hội viết: “Táng sư lịch tải, mạc do trùng chất, tâm sảng
khẩu bồi, đình bút sảng như, truy viễn mộ thành, thế tứ tinh lưu”. Đọc
những dòng này, ta thấy phảng phất giống như câu Hội viết trong An ban
thủ ý kinh chú tự: “...Tam sư điêu táng, ngưỡng chiêm văn nhật, bi vô
chất thọ, quyện ngôn cố chi, san nhiên xuất thế”. Do tính nhất quán
trong tình cảm và ngôn từ của hai đoạn vừa dẫn, ta có thể giả thiết Pháp
kính kinh tự viết không cách xa An ban thủ ý kinh tự bao nhiêu. Vì vậy
Pháp kính kinh giải tử chú có khả năng hoàn thành vào khoảng những năm
221-230 ở nước ta.
Cần
nói thêm là những lời tựa bạt do Tăng Hựu chép lại trong Xuất Tam tạng
ký tập đã chịu một quá trình "sao soạn", như Huệ Hạo đã nhận xét trong
truyện của Tăng Hựu ở Cao tăng truyện 11 ĐTK 2059 tờ 402c29 - 403a1:
"Xưa khi Hựu đã tập hợp tạng kinh xong, bèn sai người sao soạn yếu sự
làm Tam tạng ký, Pháp uyển ký, Thế giới ký, Thích Ca phổ và Hoằng Minh
tập v.v... đều lưu hành ở đời". Quá trình sao soạn này đã làm mất đi bao
nhiêu diện mạo thực của các văn bản, ta hiện nay không thể xác định
được một cách chính xác. Tuy nhiên, cứ vào những gì đang có trong tay,
ta có thể nói Tăng Hựu đã ít nhiều cải đổi bộ mặt của văn bản, mà ông
cho người “sao soạn”.
Chỉ
cần đọc lại Lý hoặc luận trong Hoằng Minh tập 1 ĐTK 2102 tờ 1a28-7a22
và các trích dẫn của Kinh Khê đại sư Trạm Nhiên trong Ma ha chỉ quán phụ
hành truyền hoằng quyết và Hoằng quyết ngoại điển sao thì thấy ngay.
Trong trường hợp An ban thủ ý kinh tự ở đây, ta may mắn có một câu trích
của Huệ Hạo trong truyện của An Thế Cao ở Cao tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ
324a27 - b1, nói rằng: “Chú An ban thủ ý kinh tự của Khương Tăng Hội
nói: Kinh này do Thế Cao dịch ra, lâu bị chìm che, may có Hàn Lâm từ Nam
Dương, Văn Nghiệp từ Dĩnh Xuyên, Trần Huệ từ Cối Kê, ba vị hiền này tin
đạo dốc lòng, Hội cùng họ thỉnh thọ, nên Trần Huệ chú nghĩa, tôi giúp
châm chước”. Rõ ràng bản An ban thủ ý kinh tự hiện nay không có hai câu
“kinh này do Thế Cao dịch ra, lâu bị chìm che”.
Dẫu
sao đi nữa, ta ngày nay vẫn ít nhiều có được hai bài tựa viết cho kinh
An ban thủ ý và kinh Pháp kính, cùng với bản chú thích kinh An ban thủ
ý. Bản chú thích kinh An ban thủ ý này hiện nay gây không ít khó khăn,
vì có sự nhập nhằng giữa lời chú của Khương Tăng Hội và lời giải của
Thích Đạo An, mà An ban chú tự dẫn trên đã nói tới. Tuy vậy, dù có khó
khăn nhập nhằng, điều may mắn là nó đã tồn tại và sẽ là đối tượng nghiên
cứu của chúng ta, để tìm lại những gì mà thầy của Khương Tăng Hội đã
truyền cho ông, và từ đó xác định hệ tư tưởng nơi vị thày này cũng như
của Phật giáo Việt Nam thời Hội.
Ngoài
việc viết ba bản chú thích và ba bài tựa vừa bàn, Cao tăng truyện còn
nói Khương Tăng Hội “lại truyền lời bối Nê hoàn réo rắt trầm buồn, làm
mô thức cho một thời”. Tiểu sử của Khương Tăng Hội trong Xuất Tam tạng
ký tập 13 không ghi sự kiện này. Nhưng quyển 12 ĐTK 2145 tờ 92b3, khi
chép lại nội dung Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục, có ghi
Khương Tăng Hội truyền Nê hoàn bối ký. Điều này chứng tỏ Tăng Hựu có
biết việc truyền bá Nê hoàn bối của Khương Tăng Hội, nhưng đã không ghi
vào tiểu sử. Có thể Tăng Hựu cho Nê hoàn bối tự bản thân là một bài ca
bày tỏ tình cảm về sự viên tịch của đức Phật, nên không xứng đáng để vào
sự nghiệp trước tác của Khương Tăng Hội. Thêm vào đó, tiểu truyện trong
các quyển 13, 14 và 15 của Xuất Tam tạng ký tập đều xoay quanh chủ đề
phiên dịch và chú thích kinh điển. Cho nên, có lẽ Tăng Hựu thấy nó không
hợp để ghi vào tiểu truyện một tác phẩm âm nhạc. Cao tăng truyện của
Huệ Hạo ngược lại đã dành hẳn một mục gọi là kinh sư, để ghi lại những
cao tăng giỏi về lễ nhạc Phật giáo Trung Quốc. Cho nên, Huệ Hạo ghi Nê
hoàn bối như một tác phẩm của Khương Tăng Hội là điều tự nhiên.
Khi
nói về lịch sử của nền lễ nhạc này, Huệ Hạo trong Cao tăng truyện 13
ĐTK 2059 tờ 415b23-29 đã viết: “Khỉ nguyên của Phạn bối vốn bắt nguồn từ
Trần Tư Vương khởi đầu viết Thái tử tụng và Thiệm tụng... Sau đó cư sỹ
Chi Khiêm cũng truyền Phạn bối ba bài đều mai một không còn... Chỉ
Khương Tăng Hội sáng tạo Nê hoàn Phạn bối đến nay vẫn truyền, tức Kính
yết một bài, lời lấy từ bản kinh Nê hoàn hai quyển, nên gọi là Nê hoàn
bối”. Rồi khi ca ngợi lễ nhạc của Chi Đàm Thược là tuyệt vời ở tờ
413c11-12, Huệ Hạo lại nói: “Tuy có Đông A (tức Tào Thực) bắt đầu ở
trước, Khương Hội sáng tạo về sau, đầu cuối tiếp nhau, cũng chưa có ai
tuyệt vời như Thược”.
Bối
hay Phạn bối là một loại nhạc bản dùng trong lễ nhạc Phật giáo. Chính
Huệ Hạo đã phân biệt nhạc và bối khác nhau như thế nào ở tờ 414c22-28:
“Cho nên lời tựa Kinh thi nói: ‘Tình động ở trong, thì biểu hiện thành
lời nói, lời nói không đủ, nên vịnh ca’. Song lời ca của Đông Quốc là
kết vận để thành vịnh, còn tán của phương Tây là làm kệ để hòa thanh.
Tuy ca tán khác nhau, nhưng đều lấy việc hiệp hài chung luật, phù hợp
cung thương thì mới nên hay ho thấm thía. Cho nên, tấu ca vào kim thạch
thì gọi nhạc, diễn tán bằng ống dây thì đặt tên là bối”.
Rõ
ràng, nói đến bối hay Phạn bối phải giả thiết người ta biết xử dụng
nhạc lý và nhạc cụ, phải hiểu khả năng diễn xuất và tiết tấu của từng
nhạc khí, vì “diễn tán bằng ống dây thì đặt tên là bối”. Ống đây là các
loại tiêu, địch, kèn, tù và v.v... Và dây đây là các loại đàn từ một
dây, như đàn độc huyền, mà Soạn tập bách duyên kinh đã nói tới, cho tới
nhiều dây như tranh, nguyệt, tỳ bà, mà ta thấy khắc trên bệ đá chùa Phật
Tích[80][80]
Cho
nên, Nê hoàn bối có thể nói là một phổ nhạc lời ai điếu của chư thiên
trong kinh Niết bàn bản hai quyển. Lời văn như thế không phải là một
sáng tạo của chính Khương Tăng Hội. Điểm Khương Tăng Hội sáng tạo là
biến nó thành một bản nhạc, và trở thành Nê hoàn bối. Nê hoàn bối còn
có tên Kính yết. Gọi là Kính yết hẳn ám chỉ đến việc đến yết kiến đức
Phật. Nhưng vì yết kiến Ngài qua xá lợi còn để lại, nên có lẽ Khương
Tăng Hội mới làm bài Nê hoàn bối, diễn tả tình cảm nhớ thương vô hạn của
những người con Phật về sau khi chiêm ngắm di cốt của Ngài qua xá lợi.
Nếu giả thiết này đúng, thì có thể Nê hoàn bối là một trong những sáng
tác phẩm đầu tiên được viết ở Trung Quốc của Khương Tăng Hội, khoảng
những năm sau khi cầu được xá lợi, tức từ năm 247 đến năm 251.
Vậy,
viết Nê hoàn bối, Khương Tăng Hội chứng tỏ không những ông là một trong
những người đặt nền móng cho nền lễ nhạc Phật giáo Trung Quốc, mà còn
là một thành tựu kiệt xuất của nền âm nhạc và giáo dục âm nhạc Việt Nam
và Phật giáo Việt Nam. Lịch sử và truyền thống âm nhạc Việt Nam trước
năm 939 khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, không phải hoàn toàn trống
vắng, như trước đây nhiều người đã lầm tưởng[81][81]. Với những thành
tựu như Khương Tăng Hội, ta thấy giả thiết về một nền giáo dục Việt Nam
và Phật giáo Việt Nam hoàn chỉnh, đa dạng và khai phóng ở trên là hoàn
toàn có thể biện minh và đúng đắn. Chính nền giáo dục hoàn chỉnh đa dạng
cởi mở đó đã tạo nên được những thiên tài có những đóng góp nhất định
cho dân tộc và nhân loại.
Đó
là kết quả thiết lập theo Tăng Hựu và Huệ Hạo. Đến năm cuối Khai Hoàng
đời Tùy (600) Phí Trường Phòng viết Lịch đại tam bảo ký ĐTK 2034 đã kê
khai tác phẩm của Khương Tăng Hội gồm “14 bộ hợp thành 29 quyển” như
sau:
1. Lục độ tập kinh 9 quyển
2. Ngô Phẩm kinh 5 quyển
3. Bồ tát tịnh hạnh kinh 2 quyển
4. Tạp thí dụ tập kinh 2 quyển
5. A nan (sic) niệm di kinh 2 quyển
6. Kính diện vương kinh 1 quyển
7. Sát vi vương kinh 1 quyển
8. Phạm hoàng vương kinh 1 quyển
9. Quyền phương tiện kinh 1 quyển
10. Tọa thiền kinh 1 quyển
11. Bồ tát nhị bách ngũ thập pháp kinh 1 quyển
12. Pháp kính kinh giải tử chú 2 quyển cùng tựa
13. Đại thọ kinh chú giải 1 quyển cùng tựa
14. An ban kinh chú giải 1 quyển cùng tựa
Bản
kê khai này, khi viết Đại đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230a6-c23
vào năm Lân Đức thứ nhất (679), Đạo Tuyên đã cho chép lại, mà không bình
luận gì thêm. Sau đó Tỉnh Mại viết Cổ kim dịch kinh đồ kỷ 1 ĐTK 2151 tờ
352 cũng làm thế. Nhưng đến năm Khai Nguyên thứ 18 (738) Trí Thăng
viết Khai nguyên thích giáo lục 2 ĐTK 2154 tờ 490b4 - 491b23 đã rút lại
còn “7 bộ 20 quyển”.
1. Lục độ tập kinh 8 quyển
Hoặc 9 quyển. Hoặc Lục độ tập kinh. Hoặc gọi Độ vô cực tập. Hoặc gọi Tạp vô cực kinh. Xem Trúc Đạo Tổ Ngô lục và Tăng hưu lục.
2. Cựu tạp thí dụ kinh 2 quyển
Nội
điển (lục) có chữ “cựu”, trong Phòng lục thì không. Cũng gọi Tạp thí dụ
kinh. Hoặc không có chữ tập. Xem Cao tăng truyện và Trường Phòng lục.
3. Ngô Phẩm kinh 5 quyển
Hựu
lục không có chữ kinh, nói gồm có 10 phẩm, dịch lần thứ ba. (Phí
Trường) Phòng nói: “Tức là Tiểu phẩm bát nhã”. Xem Tăng Hựu lục.
4. Bồ tát tịnh hạnh kinh 2 quyển.
Là bản dịch khác của phẩm Bảo Kế của Đại tập (kinh). Hoặc gọi thẳng là Tịnh luật kinh. Dịch năm Xích Ô. Xem Trúc Đạo Tổ Ngô lục.
5. Quyền phương tiện kinh 1 quyển.
Đồng bản với Thuận Quyền phương tiện kinh v.v... Dịch lần đầu. Xem Ngô lục và Biệt ký.
6. Bồ tát nhị bách ngũ thập pháp kinh 1 quyển
Hoặc 2 quyển. Đem kinh này thế 250 giới của đại tăng, để trình với (Tôn) Hạo. Xem Cao tăng truyện và Trường Phòng lục.
7. Tọa thiền kinh 1 quyển.
Xem Trường Phòng lục
Rồi
trình bày lý do tại sao phải rút lại còn “7 bộ 20 quyển”, như: “Kinh
lục của (Phí) Trường Phòng v.v... lại có A nan niệm di kinh, Kính diện
vương kinh, Sát vi vương kinh, Phạm hoàng vương kinh. Bốn kinh trên đây,
tuy nói là Hội dịch, nhưng cũng xuất hiện trong Lục độ tập, không hợp
với số chính dịch. Nay chép trong Biệt sinh lục. Lại có Pháp kính kinh
chú giải 2 quyển, Đạo thọ kinh chú giải 1 quyển, An ban kinh chú giải 1
quyển. Ba kinh trên đây, Hội cũng viết tựa: Ba kinh, Hội tuy chú giải,
nhưng vốn không phải do Hội dịch, nên cũng không thể xếp vào số dịch của
Hội. Cộng 7 bộ trên đây, nay đều san bỏ”.
Thế
đã rõ, đứng về mặt thiết lập mục lục phiên dịch, ba bản chú giải về các
kinh Pháp kính, Đạo thọ và An ban thủ ý tất không thể nào xếp vào số
kinh do Khương Tăng Hội dịch. Còn bốn kinh A ly niệm di, Kính diện
vương, Sát vi vương, Phạm hoàng vương thì đúng là đã xuất hiện trong
Lục độ tập kinh 8 ĐTK 152 tờ 49b24 - 52b1 truyện số 88 đến 91. Vì vậy,
tuy do Khương Tăng Hội dịch, chúng chỉ nên xếp vào loại “biệt sinh”, tức
các bản kinh được trích ra từ một bản kinh gốc và cho lưu hành riêng
lẻ. Nói một cách khác, chúng chỉ là những đơn hành bản. Việc san bỏ
chúng từ đó là hoàn toàn tất nhiên.
Quan
điểm san bỏ này của Trí Thăng, Viên Chiếu đã lập lại trong Trinh nguyên
tân định thích giáo mục lục 3 ĐTK 2157 tờ 787c4 -788c21 viết vào năm
Trinh Nguyên thứ 11 (801), mà không có nhận xét gì. Rõ ràng đứng về mặt
kinh lục, một quan điểm như vậy là hợp lý và có thể biện minh được. Tuy
nhiên, đứng về mặt thiết lập danh mục các tác phẩm của Khương Tăng Hội,
việc loại bỏ ba bản chú giải cùng các lời tựa là không thể chấp nhận.
Cho nên, để tiến hành nghiên cứu sự nghiệp của Hội, việc điều tra và
dựng lại đầy đủ bảng danh mục toàn bộ các dịch phẩm và tác phẩm của ông
là một đòi hỏi cấp bách. Thông qua các mẫu tin của Tăng Hựu và Huệ Hạo,
chúng tôi đã bước đầu dựng nên bảng danh mục ấy ở trên. Bây giờ với
những đóng góp của Phí Trường Phòng, Đạo Tuyên và Trí Thăng, bảng danh
mục được mở rộng thêm với các bản dịch:
1. Bồ tát tịnh hạnh kinh 2 quyển
2. Quyền phương tiện kinh 1 quyển
3. Bồ tát nhị bách ngũ thập pháp kinh 1 quyển
4. Tọa thiền kinh 1 quyển
Nhưng
thực chất nó không thay đổi bao nhiêu, bởi vì các bản này ngày nay đã
mất và qua thời gian đã không được trích dẫn trong các tác phẩm của
người khác. Do thế, trong tình trạng tư liệu và hiểu biết hiện tại, bản
danh mục các dịch và tác phẩm của Khương Tăng Hội do chúng tôi thiết lập
ở trước vẫn giữ nguyên giá trị của nó và căn bản phản ảnh được sự
nghiệp phiên dịch trước tác của Hội, mà ta có thể dùng để nghiên cứu
những cống hiến của ông không chỉ đối với lịch sử Phật giáo Việt Nam và
Trung Quốc, mà còn đặc biệt đối với lịch sử dân tộc ta qua nhiều mặt từ
tư tưởng, lịch sử, cho tới ngôn ngữ và khoa học kỹ thuật.
Điểm
đáng ngạc nhiên là các kinh lục từ Xuất Tam tạng ký tập cho đến Trinh
nguyên tân định thích giáo mục lục đều hoàn toàn im lặng về một tác
phẩm, mà Đạo An khi viết Thập pháp cú nghĩa kinh tự trong Xuất Tam tạng
ký tập 10 ĐTK 2145 tờ 70b11-13 đã có nhắc tới, đó là Lục độ yếu mục:
“Xưa Nghiêm Điều soạn Thập huệ chương cú, Khương Tăng Hội tập Lục độ yếu
mục, rồi tìm dấu chúng, vui vì có hiểu, nhưng vẫn có thiếu, truyền lâu
chư a chép. Nay sao sắp xếp, đặt tên Thập pháp cú nghĩa”. Vậy, ngoài 10
tác dịch phẩm đã biết, ta phải kể thêm Lục độ yếu mục.
Lục
độ yếu mục có lẽ đã thất lạc rất sớm. Cho nên, đến giữa thế kỷ thứ IV,
Đạo An còn nhắc tới và dùng làm tài liệu để viết Thập pháp cú nghĩa.
Nhưng qua thế kỷ thứ V và VI, khi Tăng Hựu soạn Xuất Tam tạng ký tập và
Huệ Hạo viết Cao tăng truyện đã không nhắc tới nữa. Các bản kinh lục về
sau thì hoàn toàn im lặng. Phải chăng đó là vì Lục độ yếu mục là những
đoạn giải thích về sáu độ, như ta có ngày nay trong Lục độ tập kinh? Ta
không thể trả lời được. Dẫu sao đi nữa, ta biết thêm một công trình khác
của Khương Tăng Hội và ảnh hưởng của Hội đến những gương mặt anh tài
của Phật giáo Trung Quốc với tầm cỡ như Đạo An. Nói tóm lại, căn cứ vào
những bản kinh lục xưa nhất, mà cụ thể là Xuất Tam tạng ký tập, cùng
tham khảo thêm Cao tăng truyện, ta hiện biết sự nghiệp phiên dịch và
trước tác của Khương Tăng Hội tồn tại trong các tác phẩm sau:
1.Lục độ tập kinh
2. Đạo phẩm
3. Tạp thí dụ kinh
4. An ban thủ ý kinh chú
5. Pháp kính kinh chú
6. Đạo thọ kinh chú
7. An ban thủ ý kinh tự
8. Pháp kính kinh tự
9. Đạo thọ kinh tự
Trong
đó hiện thất lạc Đạo phẩm, Pháp kính kinh chú, Đạo thọ kinh chú và Đạo
thọ kinh tự. Thế nghĩa là qua thời gian đã mất đi gần một nửa sự nghiệp
phiên dịch trước tác của Khương Tăng Hội. Tuy nhiên, với hơn một nửa còn
lại, nó cung cấp cho ta khá nhiều thông tin về cuộc sống vật chất và
tinh thần của cha ông ta vào thế kỷ thứ III sdl.
Về
mặt lịch sử, Khương Tăng Hội, thông qua Lục độ tập kinh, là người bảo
lưu đầu tiên hiện biết của truyền thuyết trăm trứng của dân tộc ta.
Truyền thuyết chắc hẳn đã lưu hành rộng rãi vào thời Lục độ tập kinh
trong nhân dân người Việt để giải thích cho nguồn gốc Bách Việt của họ.
Rồi trong quá trình Việt hóa Phật giáo, những trí thức Phật giáo Việt
Nam đã dựa vào để cải biên. Đến sau này khi phiên dịch Lục độ tập kinh
ra tiếng Trung Quốc, Khương Tăng Hội vẫn bảo lưu tình tiết một trăm
trứng này, dù chắc chắn ở Kiến Nghiệp hồi bấy giờ đã biết tới truyện một
trăm người con từ một trăm cục thịt do Chi Khiêm dịch trong Soạn tập
bách duyên kinh vào khoảng từ 222 đến 253[82][82].
Về
mặt ngôn ngữ, Lục độ tập kinh cùng với Tạp thí dụ kinh đã để lại cho ta
một loạt những cấu trúc tiếng Việt cổ quý giá, mà từ đó tham khảo thêm
bài Việt ca do Lưu Hướng chép lại trong Thuyết uyển[83][83], ta có thể
phục chế lại một phần nào diện mạo của tiếng nói dân tộc cách đây hai
nghìn năm. Đây phải nói là một đóng góp vô giá đối với khoa ngữ học lịch
sử tiếng Việt.
Về
mặt tư tưởng, những phạm trù và quan hệ xã hội cơ bản đã được thiết
định theo nhân quan người Việt và Phật giáo một cách minh nhiên trong
Lục độ tập kinh, đồng thời tiến hành phê phán hệ tư tưởng người Hán, mà
đại biểu cụ thể ở nước ta thời bấy giờ là các tay Nho cở như Lưu Hy, Hứa
Tỉnh, Tiết Tôn, Ngu Phiên v.v... Những phạm trù nhân nghĩa, trung hiếu,
thành tín v.v... những quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, thầy trò này
được thổi vào một nội dung mới, dựa trên cơ sở những thành tựu của nền
văn hóa Việt Nam và tiếp thu những đóng góp của hệ tư tưởng Phật
giáo[84][84]. Chính xuất phát từ những lý luận mới được thiết định này,
dân tộc ta phản công lại các luận điệu vu vơ do các tay ấy tung ra với ý
đồ nô dịch lâu dài, nếu không là đồng hóa vĩnh viễn dân tộc ta.
Về
mặt văn học, những cống hiến của sự nghiệp dịch thuật và trước tác của
Khương Tăng Hội càng khởi sắc, vì ở đây Khương Tăng Hội đã bảo lưu cho
chúng ta một số các tác phẩm văn học dân tộc, mà sau này đã trở thành
loại hình văn học dân gian vô danh không niên đại. Truyện người mù rờ
voi, truyện giết rồng cứu một nước của Lục độ tập kinh chẳng hạn, hay
truyện cò đem rùa đi chơi của Tạp thí dụ kinh... là những thí dụ điển
hình. Chúng sẽ là đối tượng nghiên cứu của khoa lịch sử văn học Việt
Nam, nhằm xác định lại quá trình hình thành và phát triển của lịch sử
văn học dân tộc. Lịch sử văn học dân tộc ta như vậy không phải bắt đầu
với Trần Nhân Tông và Nguyễn Trãi, hay xa hơn với Từ Đạo Hạnh với bài
thơ mở đầu tuồng chèo, thậm chí với cả Đạo Cao, Pháp Minh, Lý Miễu. Nó
đã bắt đầu với các truyện của Lục độ tập kinh, nếu không là bài Việt ca
do Lưu Hướng ghi lại trong Thuyết uyển.
Về
mặt khoa học kỹ thuật, Lục độ tập kinh, và Tạp thí dụ kinh sẽ cung cấp
cho ta các dữ kiện trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội, và kỹ
thuật, giúp ta không những hiểu được trình độ khoa học kỹ thuật của dân
tộc ta thời bấy giờ, mà còn giúp ta xây dựng lại lịch sử khoa học kỹ
thuật Việt Nam. Những tri thức khoa học tự nhiên như quá trình phát
triển thai nhi, thời gian hoàn tất mỹ mãn quá trình v.v... những hiểu
biết về khoa học xã hội như quan hệ hôn nhân, tập tục cưới xin, những
kiến thức kỹ thuật như rèn, đúc, làm gốm... với trình độ ngày nay, phải
nói đã đạt được một sự chính xác khá cao đáng khâm phục.
Về
mặt nghệ thuật âm nhạc, với sự xuất hiện của các tượng Phật và Nê hoàn
bối, ngày nay ta biết lịch sử nghệ thuật và âm nhạc Việt Nam không trống
vắng, vào những thế kỷ đầu của cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ
thù phương Bắc, như trước đây nhiều người đã lầm tưởng. Đặc biệt về âm
nhạc Việt Nam và lễ nhạc Phật giáo Việt Nam, bây giờ ta có thêm tên tuổi
của một nhạc sỹ tầm cỡ, từng làm “khuôn mẫu cho một thời”, đó là Khương
Tăng Hội, dù Khương Tăng Hội chỉ làm công tác “truyền”, chứ không phải
sáng tác loại nhạc Phạn bối đó.
Như
vậy, sự nghiệp phiên dịch trước tác của Khương Tăng Hội không chỉ giới
hạn vào việc hoằng dương chính pháp ở Trung Quốc, mà đối với lịch sử dân
tộc ta đã để lại nhiều cống hiến quý báu. Tất nhiên, đối với lịch sử
Phật giáo Trung Quốc, Khương Tăng Hội có một vị trí và ảnh hưởng lớn
lao, mà những nhân vật lớn của nền lịch sử ấy không ai là không nhắc
tới. Từ Đạo An cho đến Huệ Duệ, từ Tăng Hựu cho đến Huệ Hạo, từ Tôn Xước
cho đến Phí Trường Phòng, từ Đạo Tuyên cho đến Trí Thăng, họ đã dành
cho Khương Tăng Hội một niềm kính trọng sâu xa và một lòng ngưỡng mộ
thắm thiết.
Còn
đối với lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, vị thế của Khương Tăng
Hội nằm ở chỗ đây là lần đầu tiên Phật giáo nước ta đã thành công thực
hiện nghĩa vụ hoằng pháp của mình đối với thế giới và dân tộc ta đã
khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh văn hóa ưu việt của mình qua việc đông du
khai hóa của Khương Tăng Hội. Dĩ nhiên, Khương Tăng Hội không phải là
người duy nhất đi ra khỏi nước để làm nhiệm vụ truyền giáo. Sau ông có
Huệ Thắng, Đạo Thiền, rồi Đại Thừa Đăng v.v... Điểm lôi cuốn là vào cuối
thế kỷ thứ hai đầu thế kỷ thứ ba, dân tộc ta thông qua và kết hợp chặt
chẽ với Phật giáo đã xây dựng xong bức tường thành văn hóa có khả năng
chận đứng mọi âm mưu xâm lược và đồng hóa của kẻ thù, mà Khương Tăng Hội
là một cột mốc trong bức tường thành đó.
Sự
nghiệp phiên dịch và trước tác của Khương Tăng Hội đáng cho ta nghiên
cứu nghiêm túc hơn nữa để làm rõ thêm những thành tựu mà dân tộc ta đã
đạt được trong những ngày tháng đầu tiên đấu tranh đầy cam go và khốc
liệt, nhưng cũng đầy hào hùng và hoành tráng ấy.