II. CUỘC ĐỜI VÀ TÊN TUỔI MÂU TỬ
Trong
phần mở đầu Lý hoặc luận, Mâu Tử có nói ít nhiều về quá trình học tập
và chuyển hướng theo Phật giáo của mình, đồng thời trình bày lý do tại
sao mình lại viết Lý hoặc luận. Phần này các nhà nghiên cứu thường gọi
là phần tự truyện.
Phân
tích phần này sẽ cho chúng ta những cột mốc niên đại khá chính xác về
cuộc đời của Mâu Tử, và từ đó của Lý hoặc luận. Bắt đầu giới thiệu, Mâu
Tử viết:
“Mâu
Tử đã đọc kinh truyện chư tử, sách không kể lớn nhỏ, không sách gì là
không thích. Tuy không ưa binh pháp, mà vẫn đọc nó. Tuy đọc sách thần
tiên bất tử, ông dẹp đi không tin, cho là dối trá.
Thời
ấy, sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ có Giao Châu tạm
yên. Người lạ phương Bắc đều đến để ở, phần lớn luyện phép tịch cốc
trường sinh của thần tiên. Người bấy giờ phần nhiều là kẻ có học. Mâu Tử
thường đem năm kinh vặn hỏi. Đạo gia thuật sĩ không ai dám đáp, ví ông
với Mạnh Kha cự lại Dương Chu, Mặc Địch.
Trước
thời ấy, Mâu Tử đem mẹ tránh nạn ở Giao Chỉ. Năm 26 tuổi về Thương Ngô
cưới vợ. Thái thú nghe tiếng học giỏi, đến thăm và mời làm quan. Bấy giờ
tuổi mới lớn, chí ham việc học, lại thấy đời loạn, nên không có ý làm
quan, nên rốt cuộc không đến. Lúc ấy, các châu quận nghi nhau, cách trở
không thông, thái thú cho ông học rộng biết nhiều, sai đi Kinh Châu dâng
lễ. Mâu Tử cho vinh trước dễ nhượng, nhưng sứ mệnh khó từ. Bèn chuẩn bị
lên đường, thì gặp lúc châu mục ưu văn đãi sỹ, bổ làm quan. Ông lại cáo
bệnh, không đến.
Người
em châu mục làm thái thú Dự Chương bị trung lang tướng Trức Dung giết.
Bấy giờ châu mục sai kỵ đô úy Lưu Ngạn đem binh đến đó, nhưng sợ cõi
ngoài nghi ngờ, quân không tiến được. Châu mục mới mời Mâu Tử, nói: “Em
tôi bị nghịch tặc ám hại, nỗi đau cốt nhục uất phát tim gan, phải sai kỵ
đô úy Lưu đi, sợ cõi ngoài nghi nan, người đi không thông. Ngài văn võ
gồm đủ, có tài chuyên đối. Nay muốn dẹp bỏ, mượn đường Linh Lăng, Quế
Dương để cho thông lộ, thì thế nào?" Mâu Tử nói: “Chịu nghĩa, thụ ân đãi
ngộ lâu ngày, liệt sĩ quên mình, hứa chắc đi được”. Bèn chuẩn bị ra đi,
thì gặp mẹ mất bất ngờ, nên không đi được.
Lâu
rồi, rút lui nghĩ: “Mình vì giỏi biết mà được giao sứ mạng. Đời nay
nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm rõ mình”. Rồi than: “Lão Tử dứt thánh
bỏ trí, tu thân giữ chân, vạn vật không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi
niềm vui ở ông, thiên tử không được bề tôi, chư hầu không được người
bạn. Nên gọi là quí”.
Do
thế ông dốc chí vào đạo Phật, gồm ngâm Lão Tử năm ngàn chữ, ngậm huyền
diệu làm rượu ngon, chơi năm kinh làm đàn sáo. Bọn thế tục phần nhiều
cho là không phải, bảo là bỏ năm kinh mà theo đạo khác. Muốn cãi thì
không phải đạo, mà muốn im thì không thể, nên đã lấy bút mực, gọn dẫn
lời thánh hiền để chứng giải, đề tên Mâu Tử lý hoặc.
Qua
những lời tự sự vừa dịch ta thấy trong số các nhân vật liên hệ với cuộc
đời của ông, Mâu Tử nêu rõ tên hai người, đó là trung lang tướng Trức
Dung[36][36], và kỵ đô úy Lưu Ngạn. Về trung lang tướng Trức Dung, đây
là một nhân vật lịch sử có tiếng tăm thời Hán mạt. Tiểu sử của Trức Dung
hiện được ghi kèm trong truyện Đào Khiêm của Hậu Hán thư 103 tờ 11a3-12
và truyện Lưu Do của Ngô chí 4 tờ 2a10-b8. Hai bản tiểu sử này chủ yếu
thống nhất với nhau, nhưng so ra bản của Ngô chí đầy đủ chi tiết hơn,
nên chúng tôi cho dịch lại ở đây để tìm hiểu về Trức Dung.
“Trức
Dung người Đan Dương, ban đầu họp chúng được mấy trăm người, đến dựa
vào châu mục Từ châu Đào Khiêm. Khiêm sai coi vận tào Quảng Lăng Bành
Thành, bèn phóng túng tự do giết hại, ngồi quyết đoán việc bỏ hay thu
thuế ba quận, để tự đem vào cho mình. Rồi dựng lớn chùa Phật, lấy đồng
đúc làm người, vàng ròng thếp mình, mặc dùng gấm màu, treo mâm đồng chín
từng, dưới làm lầu đôi có bao lơn, có thể chứa tới hơn ba nghìn người.
Tất cả từng buổi đọc kinh Phật, khiến người trong quận mình và các quận
bên có ai thích Phật giáo, cho phép đến theo đạo, tha hết các phu dịch
khác để lôi kéo họ. Nhờ vậy, xa gần, trước sau, người đến hơn năm nghìn
hộ người. Mỗi lễ tắm Phật, thì phần nhiều dọn cơm rượu, trải chiếu giữa
đường, dài mấy chục dặm. Người dân đến xem và tới ăn cả vạn người, phí
tổn kể cả ức. Tào công đánh Đào Khiêm, đất Từ tao động. Dung đem trai
gái một vạn khẩu, ngựa ba nghìn con, chạy đến Quảng Lăng. Thái thú Quảng
Lăng và Triệu Dục lấy khách lễ đối đãi. Trước đó, tướng Bành Thành là
Tiết Lễ bị Đào Khiêm ép qua đóng Mạt lăng. Dung lợi dụng dân chúng Quảng
Lăng nhân say rượu, giết Dục, thả lính cướp sạch, nhân đó chở đi, qua
giết Lễ, rồi sau giết Hạo”.
Sau
câu cuối "giết Hạo" này, Hậu Hán thư thêm: “Vào chiếm thành của Hạo,
sau bị thứ sử Dương châu Lưu Do đánh phá, chạy vào trong núi, bị người
ta giết”. Chi tiết này Ngô chí 4 tờ 2a3-10 truyện Lưu Do nói rõ hơn:
“Tôn Sách vượt sông về đông, đánh Trương Anh và Phàn Năng v.v... Lưu Do
chạy tới Đan Đồ, rồi qua sông về nam giữ Dự Chương, đóng ở Bành Trạch.
Trức Dung đến trước, giết thái thú Chu Hạo, vào ở trong quận. Do tiến
quân đánh Dung, bị Dung đánh bại, lại tập hợp các huyện thuộc mình đánh
Dung, Dung bại, chạy vào núi, bị dân giết”.
Việc
Lưu Do chạy về giữ Dự Chương, Hán kỷ của Viên Hoằng do Bùi Tùng Chi dẫn
trong Ngô chí 4 tờ 2a3-6 nói: “Lưu Do sắp chạy qua Cối Kê. Hứa Tử Tương
nói: ‘Cối Kê giàu có, là chỗ Sách tham. Hơn nữa, nó nằm kẹt ở góc biển,
không thể đến được. Không chi bằng Dự Chương, bắc giáp đất Dự, tây tiếp
Kinh Châu, nếu thu được quan dân, sai sứ cống hiến thì có thể liên lạc
vào Tào Duyện châu. Tuy có Viên Công Lộ nằm cách ở giữa, nhưng người này
sài lang, không thể tồn tại lâu. Túc hạ lại nhận lệnh vua, Mạnh Đức và
Cảnh Thăng tất phải đến cứu’. Do làm theo”.
Khi
đến Dự Chương, đóng tại Bành Trạch, theo Hiến đế Xuân thu của Viên
Việp, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4 2a7-8 thì: “Năm đó Do đồn Bành
Trạch, lại sai Dung giúp Hạo đánh Gia Cát Huyền do Lưu Biểu dùng. Hứa
Tử Tương bảo Do: ‘Trức Dung ra quân, không quan tâm đến chính nghĩa. Chu
Văn Minh khéo suy sự thành thật để tin người. Nên sai lén đề phòng’.
Dung đến, quả giết Hạo, thay nắm việc quận”.
Giang
biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Tôn Sách của Ngô chí 4
8a4-10 kể rõ hơn quan hệ Tôn Sách, Lưu Do, Trức Dung và Tiết Lễ như sau:
“Sách vượt sông đánh doanh Ngưu Chữ của Do, lấy sạch kho lương gạo
chiến cụ. Năm ấy là năm Hưng Bình thứ 2 (195). Bấy giờ tướng Bành Thành
là Tiết Lễ, tướng Hạ Bì là Trức Dung, dựa Do làm minh chúa. Lễ cứu thành
Mạt Lăng. Dung Đồn huyện nam. Sách trước đến đánh Dung. Dung ra quân
giao chiến. Sách chém được 500 thủ cấp. Dung bèn đóng cửa không dám hành
động. Sách nhân đó vượt sông đánh Lễ. Lễ bỗng bỏ chạy. Nhưng Phàn Năng,
Vu My v.v... lại tập hợp lính, tập kích, đoạt lại đồn Ngưu Chữ, Sách
nghe trở về, đánh phá được Năng v.v... bắt được trai gái hơn vạn người,
lại trở xuống đánh Dung, bị tên bắn trúng thương bắp vế, không thể cưỡi
ngựa, nhân đó tự trở về doanh Ngưu Chữ. Hoặc có kẻ phản báo Dung: ‘Chàng
Tôn bị tên đã chết’. Dung rất mừng, liền sai tướng đi nghe ngóng Sách.
Sách sai bộ kỵ mấy trăm khiêu chiến, đặt mai phục ở sau. Giặc ra đánh,
gươm dao chưa chạm nhau thì giả bỏ chạy. Giặc đuổi theo vào trong chỗ
mai phục, bèn đánh lớn, chém hơn một ngàn thủ cấp. Sách nhân đó đi đến
dưới doanh của Dung, ra lệnh cho tả hữu hô lớn: ‘Chàng Tôn cuối cùng thế
nào rồi?” Giặc do thế kinh sợ, ban đêm trốn đi. Dung nghe Sách vẫn còn,
càng xây dựng hào sâu, lũy cao, sửa soạn đê giữ. Sách cho thế đất chỗ
Dung Đồn hiểm trở, vững chắc, bèn bỏ đi đánh một tướng khác của Do ở Hải
Lăng, rồi chuyển qua đánh Hồ Thục, Giang Thừa đều hạ cả”.
Qua
những tư liệu vừa dẫn, ta thấy tự truyện của Mâu Tử nói tới “người em
của châu mục làm thái thú Dự Chương, bị trung lang tướng Trức Dung
giết”, thì người em này không ai khác hơn là Chu Hạo. Truyện Chu Tuấn
trong Hậu Hán thư 101 tờ 11a10-11 xác nhận Hạo là con của Tuấn “cũng có
tài hạnh làm quan tới thái thú Dự Chương”. Hiến đế Xuân thu ghi thêm tên
Chu Văn Minh. Văn Minh như vậy là tự của Hạo. Tạ thị Hậu Hán thư bổ di 5
nhận xét: “(Hạo) đức hạnh thuần tốt, văn học xuất sắc”.
Thế
thì Trức Dung giết Chu Hạo vào thời điểm nào? Truyện Gia Cát Lượng
trong Thục chí 5 tờ 1a6-12 viết: “Lượng sớm mồ côi, tùng phụ Huyền được
Viên Thuật bổ làm thái thú Dự Chương. Huyền đem Lượng và em Lượng là
Quân đến chỗ làm quan. Gặp lúc triều Hán lại chọn Chu Hạo thay Huyền,
Huyền vốn có quen biết cũ với Kinh Châu mục Lưu Biểu, đến dựa vào Biểu”.
Ở đây, Bùi Tùng Chi dẫn Hiến đế Xuân thu nói: “Trước đó thái thú Dự
Chương là Châu Thuật bệnh chết. Lưu Biểu dâng sớ cử Gia Cát Huyền làm
thái thú Dự Chương đóng ở Nam Xương. Triều Hán nghe Châu Thuật chết, sai
Chu Hạo thay Huyền. Hạo theo thái thú Dương châu Lưu Do xin lính đánh
Huyền. Huyền rút về đóng Tây thành. Hạo vào Nam Xương. Tháng giêng năm
Kiến An thứ 2 (197) dân Tây thành phản, giết Huyền, đưa đầu đến Do”.
Vậy,
theo Giang biểu truyện, Tôn Sách vượt sông đánh Lưu Do vào năm Hưng
Bình thứ 2 (195), Lưu Do mới chạy đến Dự Chương, vì ngoài lời khuyên của
Hứa Tử Tương còn có liên hệ với Chu Hạo, khi Hạo xin Do quân để đánh
Gia Cát Huyền. Việc xin quân này chắc chắn phải xảy ra trước khi Tôn
Sách vượt sông vào năm 195, tức trước năm 195 này. Vì năm 195 là năm Tôn
Sách vượt sông đánh Do, cho nên Do không thể đưa quân chi viện cho Hạo,
vây Hạo phải xin Do vào khoảng năm 193-194, nhân đó, Do sai Trức Dung
đem quân đến giúp Chu Hạo. Nhưng khi tới, Dung đã giết Hạo và nắm lấy
quận Dự Chương. Chính vì thế mà Ngô chí viết khi Lưu Do “qua sông về nam
giữ Dự Chương đóng Bành Trạch, Trức Dung đã đến trước, giết thái thú
Chu Hạo, vào ở trong quận”.
Việc
Trức Dung giết Chu Hạo chắc phải xảy ra trước năm 195. Nhưng Trức Dung
xuất thân là cấp dưới của Đào Khiêm. Truyện của Dung dẫn trên nói khi
Tào Tháo đến đánh Khiêm, Dung đã “đem trai gái một vạn khẩu, ngựa nghìn
con, chạy đến Quảng Lăng”. Bản kỷ của Tào Tháo trong Ngụy chí 1 tờ 7a3
và 7a12 ghi Tào Tháo đem quân đánh Khiêm 2 lần. Một lần vào mùa thu năm
Sơ Bình thứ 4 (193) và một vào mùa hè năm Hưng Bình thứ 1 (194). Truyện
Đào Khiêm cũng trong Ngụy chí 8 tờ 7a10-9a9 nói "năm đó Khiêm bệnh chết,
thọ 63 tuổi". Thế thì, Trức Dung có đến thờ Lưu Do làm minh chúa cùng
với Tiết Lễ, như Giang biểu truyện đã ghi, việc này ít lắm cũng phải xảy
ra vào mùa thu năm 193 và mùa hè năm 194, khi Tào Tháo bắt đầu đánh Từ
Châu và Đào Khiêm chết, nếu không phải từ mùa hè năm 194 trở đi[37][37].
Hơn
nữa, khi Lưu Do được bổ làm thứ sử Dương Châu, thì châu lỵ ở Thọ Xuân
đã bị Viên Thuật chiếm. Cho nên, theo truyện Tôn Sách trong Ngô chí 1 tờ
7b5-11, Do đã vượt sông qua đóng ở Khúc A. Truyện Lưu Do ở Ngô chí 4 tờ
1b11-12 nói cậu của Sách là Ngô Cảnh và anh chú bác Tôn Bí đã đón Do
vào Khúc A, nhưng khi đến rồi, Do cho Cảnh và Bí là người của Viên
Thuật, bèn đuổi đi. Cảnh, Bí rút về Lịch Dương. Do sai Phàn Năng, Vu My,
Trần Hoành đóng ở Giang Tân (hay Giang Biên), Trương Anh đóng ở Dương
lợi khẩu, Cảnh và Bí đánh Phàn Năng, Trương Anh cả năm hơn vẫn không
thắng. Cho đến năm 195, Tôn Sách vượt sông đánh dẹp Năng và Anh, Lưu Do
mới qua Dự Chương. Vậy Chu Hạo có đến xin quân của Do, cũng phải đến lúc
Do đang đóng ở Khúc A, tức trước năm 195. Có thể việc xin quân đã xảy
ra năm 193 và chắc chắn năm 194 Trức Dung đã được Lưu Do gởi qua giúp
cho Hạo. Và Dung đã giết Hạo vào năm 194 này, để đến năm 195 khi Lưu Do
chạy đến Dự Chương, thì Hạo đã chết, và Do phải đem quân trừng phạt
Dung.
Khi
nghe tin Trức Dung giết Chu Hạo ở Dự Chương, châu mục Giao Châu vì "nỗi
đau cốt nhục" đã "sai kỵ đô úy Lưu Ngạn đem binh đến đó. Nhưng sợ cõi
ngoài nghi ngờ, quân không đến được, nên châu mục mới mời Mâu Tử, nói:
“Em tôi bị bọn nghịch tặc giết, nỗi đau cốt nhục dằn vặt tâm can, nay
sắp sai Lưu kỵ đô úy đi, lại sợ cõi ngoài nghi nan, người đi không
thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài đối đáp, nay muốn dẹp bỏ nghi ngờ, để
mượn đường thông lộ qua Linh Lăng, Quế Dương, ngài nghĩ thế nào?” Mâu Tử
đã hứa đi.
Nhân
vật kỵ đô úy Lưu Ngạn là người thứ hai, mà Lý hoặc luận nêu rõ tên.
Truyện Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10, khi ghi lại lá sớ của Tôn
viết cho Tôn Quyền về việc chọn người gởi qua cai trị Giao Châu, có
đoạn: “Lại cố thứ sử Chu Phù đất Cối Kê phần lớn dùng người cùng quê là
bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xâm lược bá tánh, ép thuế
lên dân. Một con cá vàng, thâu thuế gạo một hộc. Bá tánh oán phản, giặc
núi cùng nổi lên, đánh châu phá quận. Phù chạy vào biển, lưu lạc chết
mất”.
Như
thế, kỵ đô úy Lưu Ngạn là một thuộc hạ của thứ sử Giao Châu Chu Phù.
Chu Phù do vậy là anh một cha của Chu Hạo và là con của Chu Tuấn. Truyện
Tuấn trong Hậu Hán thư 101 tờ 7b1-9 nói năm Quang Hòa thứ 1 (178) Tuấn
được bổ làm thứ sử Giao Châu, và ghi Hạo là con của Tuấn, nhưng không
ghi Phù.
Truyện
Giả Tôn trong Hậu Hán thư 6/1 tờ 14a1-b1 nói: “Năm Trung Bình thứ nhất
(184) đồn binh Giao Chỉ nhân bắt thứ sử và thái thú Hiệp phố, tự xưng
Thiên trụ tướng quân, Linh đế ra lệnh đặc biệt cho ba phủ tinh tuyển
quan có năng lực. Hữu ty đề cử Tôn làm thứ sử Giao Chỉ”.
Truyện
Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a5-11 chép: “Em (Nhiếp) là Nhất trước làm
đốc bưu của quận. Thứ sử Đinh Cung được gọi về kinh đô, Nhất hầu hạ đưa
tiễn ân cần. Cung cảm động. Đến khi chia tay, gọi bảo: ‘Thứ sử nếu được
đãi làm tam công, thì sẽ bổ nhiệm cho’. Sau Cung làm tư đồ, bèn bổ nhiệm
Nhất. Nhất vừa đến, Cung đã miễn quan. Hoàng Uyển thấy Cung làm tư đồ,
đãi ngộ Nhất rất có lễ. Đổng Trác làm loạn, Nhất trốn về quê. Thứ sử
Giao Châu Chu Phù bị giặc mọi giết. Châu quận nhiễu loạn, Nhiếp dâng
biểu xin cho Nhất giữ thái thú Hiệp Phố, em kế Từ vâng lệnh Vỹ giữ thái
thú Cửu Chân, và em Vỹ là Vũ giữ thái thú Hải Nam”.
Vậy,
Chu Tuấn được bổ làm thứ sử Giao Châu năm 178, thì người kế nhiệm là
Giả Tôn rồi Đinh Cung. Và Đinh Cung làm thứ sử cho tới khoảng năm 187,
thì ông trở về Lạc Dương làm tư đồ. Sau Cung chắc hẳn phải là Chu Phù.
Dẫu sao đi nữa, cho đến năm 193-194, Chu Phù đang làm châu mục Giao
Châu. Nên khi được tin Chu Hạo bị Trức Dung giết, Chu Phù vì lý do cốt
nhục, đã cử Lưu Ngạn đem quân đi trả thù. Nhưng do đường sá cách trở,
Chu Phù đã nhờ đến Mâu Tử, một con người "văn võ kiêm bị, lại có tài ăn
nói".
Mâu
Tử đồng ý giúp Chu Phù, và chuẩn bị ra đi, thì gặp lúc mẹ mất, nên
chuyến đi không thành. Việc Chu Phù nhờ Mâu Tử như vậy phải xảy ra trong
khoảng những năm 194-195. Năm 195 này cũng chắc chắn là năm mất của mẹ
Mâu Tử. Sau biến cố mẹ mất này, Mâu Tử “lâu rồi rút lui nghĩ: ‘Mình vì
giỏi giang, hiểu biết, mà bị sai khiến. Nay đời nhiễu nhương, chẳng phải
lúc làm rõ mình’. Rồi than: ‘Lão Tử dứt thánh bỏ trí, tu thân giữ chân,
vạn vật không ngăn chí mình, thiên hạ không đổi niềm vui mình, thiên tử
không có được bề tôi, chư hầu không có được người bạn, nên mới gọi là
quí’”. Từ đó, ông dốc chí học Phật, nghiền ngẫm thêm Lão Tử và ngũ kinh.
Khi ông dốc chí như thế, “bọn thế tục phần lớn cho ông bỏ năm kinh, mà
theo đạo khác”. Cho nên, ông đã viết Lý hoặc luận để trả lời.
Rõ
ràng, việc viết Lý hoặc luận xảy ra không lâu sau đám tang của mẹ Mâu
Tử, có thể khoảng năm 198, vì Mâu Tử với tư cách một người con có hiếu
chắc chắn phải dành 3 năm cư tang cho mẹ mình. Cho nên, khi tự truyện
viết: “Lâu rồi rút nghĩ” (cửu chi thối niệm), chữ "lâu" trong câu ấy hẳn
để chỉ thời gian cư tang vừa nói. Sự thực, đúng theo tập tục thời đó,
mà ta thấy qua trường hợp của Ngu Phiên ở Ngô chí 12 tờ 1a8-9 Mâu Tử
phải dành một thời gian mặc áo tang cho mẹ mình. Vì thế, hẳn không có
việc viết sách tranh luận với người khác, trong lúc cư tang. Do vậy, Lý
hoặc luận khó mà ra đời trước năm 198 vừa nói được.
Tất
nhiên, không phải đến khi mẹ mất, Mâu Tử mới biết Phật giáo. Ông đã
biết Phật giáo từ trước, và biến cố ấy tạo cơ hội cho ông "dốc chí vào
đạo Phật", sau khi đã quyết định là thời buổi nhiễu nhương không ra làm
quan nữa. Căn cứ vào tự truyện, Mâu Tử là người hiếu học, “sách không kể
lớn nhỏ, không gì là không đọc”, đọc cả sách quân sự và thuật thần tiên
trường sinh bất tử. Đối với thuật thần tiên này, điều 31 của chính Lý
hoặc luận ghi lại lời tự thuật của Mâu Tử nói: “Tôi lúc chưa hiểu đạo
lớn, cũng thường học phép tịch cốc có mấy ngàn trăm thuật, thực hành thì
không hiệu nghiệm, làm theo thì không kết quả, nên tôi bỏ. Xem ba ông
thầy tôi theo học, mỗi ông hoặc tự xưng 700, 500, 300 tuổi. Nhưng tôi
theo họ học chưa đầy 3 năm, thì mỗi một ông đã tự chết. Sở dĩ như vậy là
do tuyệt cốc không ăn, mà lại đi ăn trăm thứ trái cây, nhậu thịt nướng
thì nhiều mâm, uống rượu thì nhiều vò. Tinh thần hôn loạn, cốc khí không
đủ, mắt tai lầm lạc, dâm bậy không cấm. Tôi hỏi lý do vì sao, thì được
đáp: ‘Lão Tử bảo bớt đi lại bớt, cho đến vô vi, trò phải ngày một bớt’.
Nhưng tôi thấy ngày chỉ một thêm chứ không bớt. Vì thế, họ mỗi người
không đến tuổi tri thiên mạng (50 tuổi) mà đã chết. Vả lại, Nghiêu Thuấn
Châu Khổng không một ai có thể sống tới trăm tuổi. Thế mà, đời sau ngu
hoặc lại muốn ăn uống tịch cốc để tìm tuổi thọ vô cùng. Thương thay!”.
Thế
thì, trước khi "hiểu" Phật giáo, Mâu Tử đã từng học sách thần tiên,
tịch cốc thần tiên bất tử 3 năm. Thời điểm xảy ra việc học này chắc chắn
phải trước năm 26 tuổi, khi Mâu Tử trở về Thương Ngô lấy vợ. Phần tự
truyện viết: “Thời ấy sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ
Giao Châu tạm yên. Người tài phương Bắc đều đến để ở, phần lớn học phép
tịch cốc trường sinh của thần tiên. Người bấy giờ phần đông là có học.
Mâu Tử thường đem năm kinh lại hỏi. Đạo gia thuật sỹ không ai dám trả
lời, sánh ông với Mạnh Kha cự Dương Chu Mặc Địch. Trước thời ấy, Mâu Tử
đem mẹ qua lánh nạn ở Giao Chỉ. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ”.
Hán
Linh đế băng hà vào năm Trung Bình thứ 6 (189). Vào năm này xảy ra một
loạt các biến cố, đó là loạn Thập thường thị, dẫn đến cái chết của Hà
Tiến, rồi Đổng Trác vào kinh đô, sau đó tư đồ Vương Doãn nhờ Điêu Thuyền
giết Đổng Trác năm 192, và sự xuất hiện trên vũ đài chính trị Trung
Quốc 3 nhân vật sau này thành lập 3 triều đại kình chống nhau, đó là Tào
Tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền. Đây là thời, mà Mâu Tử gọi là "thiên hạ
nhiễu loạn". Thời này, những người tài (dị nhân) phương Bắc đổ dồn về
sống ở Giao Chỉ. Tiểu sử của Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a12-13 viết:
“Nhiếp tính khí khoan hậu, khiêm hư hạ sỹ, sỹ nhân Trung Quốc đến dựa tị
nạn kể cả số trăm”. Trong số này có những người đã làm nên sự nghiệp
lớn ở Trung Quốc như Tiết Tôn, Hứa Tỉnh, Hứa Từ v.v... Điểm đặc biệt họ
là những người có học và qua nước ta lại "học thuật thần tiên trường
sinh bất tử”.
Bản
thân Mâu Tử "khi chưa hiểu đạo lớn" (Phật giáo) cũng từng bỏ ba năm học
phép tịch cốc. Và Thần tiên truyện của Cát Hồng, mà Bùi Tùng Chi dẫn
trong Ngô chí 4 tờ 7b11-12 truyện Sỹ Nhiếp kể: “Nhiếp thường bệnh, chết
đã 3 ngày. Tiên nhân Đổng Phụng đem cho một viên thuốc, lấy nước ngậm
uống, dở cổ lên lắc lắc. Uống một lúc, thì mở mắt động tay, nhan sắc dần
dần phục hồi. Nửa ngày thì có thể đứng lên ngồi xuống. Bốn ngày thì nói
năng lại được, rồi trở nên bình thường. Phụng, tự là Quân Dị, người Hầu
quan”.
Thần
tiên truyện 6 hiện còn kể rõ thêm: “Sỹ Nhiếp được sống, nhân đó đứng
dậy tạ ơn nói: ‘Rất đội ơn lớn, biết lấy gì đền đáp’. Bèn dựng cho Phụng
một tòa lầu trong sân. Như vậy hơn một năm, Phụng từ biệt Nhiếp mà đi.
Nhiếp khóc lóc giữ lại không được... Phụng chết, Nhiếp lấy hòm tẩn liệm
đem chôn. 7 ngày sau, phá quách mở hòm xem, chỉ còn một giải lụa, một
mặt vẽ hình người, một mặt viết chữ đỏ làm bùa”.
Đổng
Phụng, người Hầu quan, tức huyện Mân Hầu, tỉnh Phúc Kiến bây giờ, đã
sang sống ở nước ta, để chữa bệnh cho Sỹ Nhiếp và sau đó được Sỹ Nhiếp
chôn cất lúc chết. Trong khi còn ở Trung Quốc, Phụng đã từng dạy dỗ cho
Bạch Hòa, như truyện Bạch Hòa trong Thần tiên truyện 7 chép. Tam động
châu nang 1 nói rõ thêm: “Can quân người Bắc Hải mắc ung thư mấy chục
năm, trăm thứ thuốc không thể chữa lành, thấy trong chợ một ông bán
thuốc, họ Bạch, tên Hòa. Can quân đến hỏi. Ông nói: ‘Bệnh anh có thể
chữa. Anh nếu muốn được lành, ngày mai lúc gà gáy, đến gặp dưới cây lan
lớn phía bắc cầu lớn, ta sẽ dạy anh’. Ngày mai gà gáy, Can quân đến chỗ
hẹn, thì ông Bạch đã ở đó trước, giận nói: ‘Không muốn lành bệnh ư, sao
lại đến sau?’ Lại hẹn nửa đêm ngày mai. Do thế, Can quân lúc mặt trời
lặn đến chỗ hẹn. Chốc lát ông đến... đem Tố thư 2 quyển trao cho Can
quân... Can quân vái hai vái nhận sách. Ông Bạch lại nói: ‘Anh trở về
chép sách này thành 150 quyển’. Can quân nghĩ được ý ông Bạch, trong để
trị thân dưỡng tánh, ngoài để tiêu tai cứu bệnh, không ai là không chữa
lành...”
Tiên
uyển biên châu quyển trung do Vương Tùng Niên đời Hậu đường (thế kỷ thứ
10) dưới mục thiên sư chánh nhất Can Cát Thái bình cũng kể lại truyện
Can Cát được Thái bình kinh. Nhưng câu "Về chép sách này thành 150
quyển", thì nó sửa thành "Về chép sách này thành 170 quyển". Và thêm câu
"Đến nay có núi Thái Bình và khe Can ở đó".
Chí
lâm của Ngu Hỷ do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12a12 nói: “Xưa
thời Thuận đế, Cung Sùng đất Lang Nha đến kinh đô dâng Thần thơ do thầy
mình là Vu Cát được ở Tuyền Thủy của Khúc Dương, giấy trắng bìa son, gọi
là Thái bình thanh lĩnh đạo phàm trăm quyển hơn”. Biện chính luận 6 ĐTK
2110 lại chép: “Đời Hác vương, Thiên Thất vì tật bệnh, cảm tới Lão quân
dạy 180 giới cùng Thái bình kinh một trăm bảy mươi thiên”. Thiên Thất
đây là viết lộn của Can Thất, mà Hỗn nguyên thánh kỷ 7 của Tạ Thủ Hạo
đời Nam tống nói: “Can Thất, sau đổi tên Cát[38][38]. Truyện Cung Sùng
của Thần tiên truyện 10 chép: Thiên tiên trao cho Cát Thái bình kinh 10
bộ lụa xanh chữ đỏ”. Vân kíp thất thiêm 1 dưới điều Tam động kinh giáo
bộ tứ phụ viết về Thái bình kinh chính kinh ghi: “Quyển số nó hoặc có
chỗ không giống nhau. Nay giáp ất 10 bộ, hợp làm 170 quyển, nay thì còn
lưu hành”. Theo Chính nhất kinh nói: “Có Thái bình động cực một trăm bốn
mươi quyển. Nay kinh này đã trôi mất đến gần hết”. Mạnh An Bài đời
Lương viết Đạo giáo nghĩa xu 2, sau câu vừa dẫn, nói thêm: “Đến thời Hán
Thuận đế, Cung Sùng đến kinh đô dâng thần thơ một trăm mười quyển do
thầy ông là Can Cát tìm được gọi là Thái bình kinh. Vua không tin, kinh
ấy bèn ẩn”.
Vậy,
tiên nhân Đổng Phụng sống và chết ở nước ta đã có một liên hệ mật thiết
với Bạch Hòa, thầy của Can Cát. Và Can Cát là người truyền bá thần thơ
Thái bình kinh 170 quyển. Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong
truyện Tôn Sách của Ngô chí 1 tờ 12a5-11 kể chuyện Sách giết Can Cát.
Sứu thần ký cũng do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 13b10-12 lại
viết: “Sách đã giết Vu Cát. Mỗi khi ngồi một mình thì phảng phất thấy
Cát ở phải trái mình, lòng rất ghét... Sau trị vết thương mới lành, đem
gương soi mình, thấy Cát trong gương, nhìn kỹ thì không thấy. Như thế ba
lần. Nhân đó vứt gương, kêu lớn. Vết thương đều vỡ ra, chốc lát thì
chết”.
Tôn
Sách chết tháng tư năm Kiến An thứ 5 (200). Vậy Can Cát chắc cũng bị
Sách giết vào năm này. Cả Chí lâm lẫn Đạo giáo nghĩa xu 2 đều nói học
trò của Can Cát là Cung Sùng đem thần thơ Thái bình kinh của Cát hơn một
trăm quyển dâng cho vua Thuận đế nhà Hán trong khoảng những năm 130.
Điều 29 của Lý hoặc luận cũng nhắc tới "Thần thơ một trăm bảy chục
quyển". Việc này chứng tỏ một trong những văn kiện chính yếu của đạo
giáo là Thái bình kinh đã lưu hành rộng rãi ở nước ta, khi Mâu Tử viết
Lý hoặc luận. Có thể chính Thái bình kinh là một trong các "sách thần
tiên bất tử" mà Mâu Tử đọc và "dẹp đi mà không tin cho là dối trá".
Như
thế, "khi chưa hiểu đạo lớn", Mâu Tử đã từng đọc sách vở đạo giáo và bỏ
ra ba năm luyện phép tịch cốc. Nhưng do không có hiệu quả, Mâu Tử sau
đó đi đến kết luận các sách vở ấy là "dối trá". Tuy nhiên phần lớn,
"người tài" Trung Quốc sang tị nạn tại nước ta lại theo học đạo đó. Cho
nên Mâu Tử đã đem "năm kinh" Nho giáo ra vặn hỏi. Đám "đạo gia thuật sỹ"
không ai dám trả lời. Dầu vậy, cần chú ý là dù họ không trả lời, không
có nghĩa họ khuất phục. Do đó, đến khi đã theo Phật giáo và viết Lý hoặc
luận, Mâu Tử phải dành 9 trong 37 điều của tác phẩm ấy để kích bác đám
"đạo gia thuật sỹ" và những thuật "tịch cốc trường sinh bất tử" của họ,
biểu thị một mối quan tâm đặc biệt đối với học thuyết và phương thức tu
hành của đám ấy.
Sự
kiện Mâu Tử đem "năm kinh" ra vặn hỏi đám này chứng tỏ họ không những
là những "người có học" như Lý hoặc luận ghi, mà còn là những kẻ theo
Nho giáo, những sỹ nhân, như truyện Sỹ Nhiếp của Ngô chí đã chép. Thời
điểm xảy ra sự kiện ấy Mâu Tử nói là sau khi Hán Linh đế băng hà, tức
sau năm 189, một thời điểm hoàn toàn phù hợp với những tư liệu hiện có.
Ngụy chí 1 tờ 36b9-11 dưới mục bản kỷ của Tào Tháo viết: “Trước đó Viên
Trung làm tướng đất Hải thường muốn dùng luật trị Thái tổ. Hoàn Thiện
nước Bái cũng khinh. Đến khi ở Duyện Châu, Biên Nhượng đất Trần Lưu ăn
nói nhiều lần rất đụng chạm Thái tổ. Bèn giết Nhượng, tru di cả gia
đình. Trung và Thiện đều tị nạn ở Giao Châu. Thái tổ sai sứ đến thái thú
Sỹ Nhiếp đều giết hết. Hoàn Thiện được đầu thú, ra vái tạ trong sân,
Thái tổ bảo: ‘Quỳ mà được thoát chết sao?’ Bèn giết đi. Tào Tháo được bổ
làm thứ sử Duyện Châu năm Sơ Bình thứ 1 (190), Viên Trung và Hoàn Thiện
phải chạy đến nước ta năm đó”.
Truyện
Trung trong Hậu Hán thư 75 tờ 7a10-b4 chỉ nói: “Sau Tôn Sách phá Cối
Kê, Trung v.v... vượt biển về nam đến Giao Chỉ. Hiến đế đóng đô ở Hứa,
trưng làm vệ úy, chưa đến thì mất”. Vậy, chưa hẳn Trung đã đến khoảng
năm 190 và bị Sỹ Nhiếp giết. Viên Trung do thế đã sống ở nước ta một
thời gian.
Nếu
Hoàn Thiện không may mắn thì Hoàn Việp may mắn hơn. Việp là chắt của
Hoàn Vinh, thầy học của Minh đế. Hậu Hán thư 67 tờ 7b1-12 ghi truyện
Việp: “Việp tự là Văn Lâm, một tên là Nghiêm, rất giữ ý chí. Cô là phu
nhân của tư không Dương Tứ. Khi Loan (cha của Việp) chết, cô đi điếu.
Sắp đến (nhà) thì nghỉ ở quán trọ, chỉnh đốn lại những người đi theo,
rồi sau mới vào. Lòng Việp cho là không phải, đến cô hỏi thăm Việp rốt
cuộc không nói một lời, chỉ khóc lóc mà thôi. Tứ sai quân lính dâng đồ
cúng, nhân ra huyện lấy chén dĩa. Việp cự không nhận. Sau mỗi khi đến
kinh, chưa từng đến ở nhà họ Dương. Kiên trinh là thế. Khách khứa đi
theo đều khâm phục chí hạnh ông. Một bữa ăn không nhận ở người khác. Làm
quan đến quận công tào. Sau cử hiếu liêm hữu đạo phương chính mậu tài.
Tam công bổ ra làm quan, đều không nhận. Trong khoảng Sơ Bình (190-193)
thiên hạ loạn lạc, lánh nạn Cối Kê, rồi vượt biển đến ở khách Giao Chỉ.
Người Việt thay đổi khí tiết ông, đến xóm làng không hay tranh cãi. Ông
bị người tù vu cáo, bèn chết ở ngục Hợp Phố”.
Hoàn
Việp tuy may mắn đến được nước ta, nhưng cuối cùng cũng chết trong ngục
Hợp Phố. Hứa Tỉnh may mắn hơn. Truyện Hứa Tỉnh trong Thục chí 8 tờ
195-b9 nói: “Linh đế băng hà, Đổng Trác nắm quyền, Hứa Tỉnh cùng Châu Bí
đề cử Hoàn Phức làm châu mục Ký châu, Lưu Đại làm thứ sử Duyện châu
v.v... Khi đến nhậm chức rồi, Phức cùng những người khác đem quân về
đánh Trác. Trác giận chém Bí. Hứa Tỉnh cùng tùng huynh Hứa Dương chạy
đến thứ sử Dự Châu là Khổng Do. Do chết lại qua nhờ thứ sử Dương châu
Trần Vỹ. Vỹ chết, Hứa Tỉnh lại đến chỗ quen biết trước là đô úy Ngô quận
Hứa Cống và thái thú Cối Kê Vương Lãng. Tôn Sách vượt sông về đông, họ
đều chạy đến Giao Châu để tỵ nạn. Tỉnh ngồi trên bờ, trước cho chở bà
con thân sơ theo đi hết, rồi sau mới theo đi. Đương thời ai thấy không
ai là không khen ngợi. Khi đến Giao Chỉ, thái thú Sỹ Nhiếp kính đãi nồng
hậu. Viên Huy đất Trần quốc đã ngụ cư Giao Châu. Huy viết thư cho
thượng thơ lệnh Tuân Úc, nói: Hứa Văn Hưu anh tài vỹ sỹ, trí lược đủ để
gánh vác công việc, từ ngày lưu lạc đến nay đã cùng đám sỹ phu theo
nhau. Mỗi có hoạn nạn thường trước giúp người, sau mới lo mình, cùng
chín họ trong ngoài cùng đói, rét, kỷ cương với đồng loại, nhân thứ trắc
ẩn, đều có kết quả, không thể đem một hai việc nói hết được”.
Tôn
Sách vượt sông về đông năm Hưng Bình thứ 2 (195), nên Hứa Tỉnh cũng
phải chạy qua nước ta năm ấy. Và chạy qua năm ấy không phải một mình Hứa
Tỉnh, mà còn có Viên Bái, Đặng Tử Hiếu, Từ Nguyên Hiền v.v... ngoài bà
con thân thuộc của Tỉnh, như lá thư của Tỉnh viết cho Tào Tháo năm 205
trong Thục chí 8 tờ 2a3-3b8 đã nói. Điểm đáng ghi nhận là khi Tỉnh đến
nước ta năm 195, thì Viên Huy đã có mặt. Truyện Viên Hoán trong Ngụy chí
11 tờ 3b6-10, chỉ nói Huy gặp thiên hạ loạn, tỵ nạn Giao Châu nhưng
không nói năm nào. Bây giờ ta biết là phải trước năm 195. Hẳn Huy qua
một đợt với Hoàn Việp vào năm 190.
Ngoài
Hứa Tỉnh, Viên Huy, Viên Bái... Thục chí 12 tờ 4a5-b4 còn ghi: “Hứa Từ
tự Nhân Đốc, người Nam Dương, thờ Lưu Hy làm thầy, giỏi môn học họ
Trịnh, trị Dịch, Thượng thư, Tam lễ, Mao thi, Luận ngữ. Trong khoảng
Kiến An (196-220) cùng Hứa Tỉnh v.v... đều tự Giao Châu vào Thục”. Ngô
chí 8 tờ 4b8-10 lại chép: “Trình Bỉnh, tự Đức Xu, người Nam Đốn, Nhử
Nam, vốn thờ Trịnh Huyền, sau tỵ nạn Giao Châu, cùng Lưu Hy khảo luận
đại nghĩa, nên bác thông năm kinh. Sỹ Nhiếp bổ làm trường sử. Tôn Quyền
nghe tiếng danh nho, dùng lễ trưng Bỉnh. Bỉnh đến, phái làm thái tử thái
phó”. Cũng Ngô chí 8 tờ 6a7-4 chép thêm: “Tiết Tôn, tự Kỉnh Văn, người
Trúc ấp, Bái quận, nhỏ theo người bà con, tỵ địa Giao Châu, theo Lưu Hy
học. Sỹ Nhiếp đã theo Tôn Quyền, mời Tôn làm ngũ quan trung lang, rồi
thái thú Hợp Phố, Giao Chỉ”.
Thế
thì, ngoài những người kể trên, ta còn có ba người học trò của Lưu Hy
là Hứa Từ, Trình Bỉnh và Tiết Tôn, và bản thân người thầy là Lưu Hy.
Trình Bỉnh trở về Trung Quốc, chắc chắn trước năm Hoàng vũ thứ 4 (225)
khi Tôn Quyền lấy con gái của Chu Du cho Tôn Đăng làm vợ, và Bỉnh với tư
cách thái tử thái phó đã răn dạy Đăng. Còn Tiết Tôn được triệu về Trung
Quốc, khi Sỹ Nhiếp về theo phe Tôn Quyền vào năm Kiến An thứ 15 (210),
như truyện Sỹ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 8a8 đã ghi. Về Hứa Từ, vì theo Hứa
Tỉnh lên Thục, mà Hứa Tỉnh năm Kiến An 16 (211) từ thái thú Ba quận
chuyển làm thái thú Thục quận, và năm Kiến An thứ 10 (205) đang còn ở
Giao Châu viết thư cho Tào Tháo. Cho nên, Hứa Từ đã rời Giao Chỉ vào
khoảng giữa những năm 205-210.
Do
vậy, tuy ngày nay ta không biết chính xác Lưu Hy qua tỵ nạn nước ta vào
năm nào. Điều chắc chắn là phải trước những năm 200 sdl. Nghiêm Khả
Quân trong Toàn Hậu Hán văn 86 và Diệp Đức Huy sau đó trong Chấp Mạnh Tử
Lưu Hy chú đã nghiên cứu sự tích và công trình trước tác của Hy khá
tường tận. Đặc biệt là Diệp Đức Huy đã viết Lưu Hy sự tích khảo và chép
vào trong tác phẩm vừa kể. Kết quả là Lưu Hy “trong khoảng Trung bình
trưng làm bác sỹ, bỗng bổ làm An Nam thái thú, sau tránh giặc ở Giao
Châu, nên Trình Bỉnh, Tiết Tôn, Hứa Từ cùng theo để học. Hy chết phải
vào năm Xích Ô của nhà Ngô”.
Niên
hiệu Trung Bình của Hán Linh đế bắt đầu vào năm 184 đến 189. Nếu trong
khoảng những năm này Lưu Hy được trưng làm bác sỹ, thì việc tránh nạn
sang nước ta cũng có thể xảy ra sau năm 189, tức như Mâu Tử nói, “sau
khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Châu tạm yên, người
tài phương Bắc đều đến để ở”. Sự thật, ngay từ khi Linh đế đang sống,
tức trước năm 189, một số người Trung Quốc đã muốn đến tỵ nạn Giao Châu.
Truyện Lưu Yên trong Thục chí 1 tờ 1a9-12 đã chép: “Yên thấy chính trị
Linh đế suy khuyết, nhà vua nhiều nạn, bèn kiến nghị nói thứ sử thái thú
dùng tiền của hối lộ để làm quan, nên cắt lột bá tánh, làm cho họ ly
phản, vậy nên chọn trọng thần tiếng tốt để làm mục bá, trấn an đất nước.
Yên bên trong xin làm châu mục Giao Chỉ, muốn tránh nạn đời”.
Rõ
ràng, không chỉ sau năm 189, mà trước đó những "dị nhân" phương Bắc đã
tìm về nước ta. Và sau năm ấy, dòng chảy "dị nhân" về phương Nam càng
dồn dập hơn. Số "dị nhân" này đến nước ta, theo Mâu Tử, "phần lớn thực
hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh". Mâu Tử đã dùng "ngũ kinh" để
vặn hỏi và họ đã "không dám trả lời".
Trước
năm 189, Mâu Tử nói ông đem mẹ qua tỵ nạn ở Giao Chỉ, năm 26 tuổi về
Thương Ngô cưới vợ. Việc đem mẹ qua nước ta và việc trở về Thương Ngô
lấy vợ như thế chắc chắn xảy ra trước năm 189. Giả như năm 189, ông về
cưới vợ, thì Mâu Tử phải sinh vào khoảng năm 165, tức năm Diên Hy thứ 7
đời Hán Hoàn đế. Tuy nhiên, vì Mâu Tử nói "trước thời đó", tức trước
thời Linh đế băng hà năm 189, nên có khả năng Mâu Tử phải sinh vào
khoảng những năm 160, tức Diên Hy thứ 2, và trở về Thương Ngô cưới vợ
khoảng năm 186. Lý do cho giả thiết thời điểm này sẽ nói sau.
Khi
về Thương Ngô cưới vợ, Mâu Tử kể tiếp là ông được "thái thú (Thương
Ngô) nghe tiếng ông học giỏi, mời đến thăm và bổ làm quan. Nhưng "lúc ấy
tuổi đang cường tráng, chí lăm việc học, lại thấy đời loạn, Mâu Tử
không có ý làm quan", nên Mâu Tử từ chối không nhận. Tuy không nhận quan
tước với thái thú Thương Ngô, song khi ông này nhờ ông đi Kinh Châu
"trí kỉnh", Mâu Tử đã nhận lời. Truyện Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ
7a13-8a10 ghi nhận quan hệ giữa Thương Ngô và Kinh Châu như sau:
“Chu
Phù chết, Hậu Hán sai Trương Tân làm thứ sử Giao Châu. Tân sau đó lại
bị tướng của mình là Khu Cảnh giết, mà châu mục Kinh Châu Lưu Biểu sai
Lại Cung đất Linh Lăng thay Tân. Lúc ấy, thái thú Thương Ngô Sử Hoàng
chết, Biểu lại sai Ngô Cự thay Hoàng, cùng Cung đi đến. Nhà Hán nghe
Trương Tân chết, ban tỉ thơ cho Nhiếp nói: ‘Giao Châu đất xa, nam tiếp
sông biển, ân trên không tuyên, nghĩa dưới ùn tắc, biết nghịch tặc Lưu
Biểu lại sai Lại Cung dòm ngó đất nam. Nay cho Nhiếp làm Tuy nam trung
lang tướng, đổng đốc bảy quận, giữ thái thú Giao Chỉ như cũ’. Sau Nhiếp
lại sai lại Trương Văn dâng cống đến kinh đô. Lúc ấy thiên hạ tán loạn,
đường sá cắt đứt, mà Nhiếp không bỏ chức cống, nên đặc biệt lại hạ chiếu
phái làm An viễn tướng quân, phong Long độ đình hầu. Sau Cự với Cung
mất lòng nhau. Cự đem quân đuổi Cung. Cung chạy về Linh Lăng. Năm Kiến
An 15 (210) Tôn Quyền sai Bộ Chất làm thứ sử Giao Châu. Chất đến, Nhiếp
đem anh em vâng nhận sự điều khiển, nhưng Ngô Cự có dị tâm. Chất chém
Cự”.
Qua
lời sớ của Tiết Tôn và truyện Sỹ Nhiếp dẫn trước, ta biết Chu Phù đã sử
dụng đám "hương nhân" của mình là Ngu Bào và Lưu Ngạn đi "xâm ngược bá
tánh", nên bị nhân dân ta, mà Trần Thọ gọi là "giặc mọi" (di tặc) giết.
Giết vào năm nào? Chắc chắn là sau năm 194, năm Chu Hạo bị Trức Dung
giết và Chu Phù nhờ Mâu Tử đi mở đường. Chu Phù cô thế bị giết năm 195
trở đi cho đến 197.
Sau
khi Phù bị giết, triều Hán cử Trương Tân qua làm thứ sử. Giang biểu
truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12a5-11 nói: “Bấy giờ có
đạo sỹ Vu Cát đất Lang nha, ngụ cư phương đông, đi lại Ngô Hội, lập tinh
xá, đốt hương, đọc sách đạo, chế làm nước bùa (phù thủy) để trị bịnh.
Người Ngô Hội phần nhiều thờ ông. Sách thường ở trên lầu cửa thành quận,
tập họp khách khứa các tướng. Cát bèn ăn mặc xum xoe, chống gậy
nhỏ[39][39] sơn vẽ gọi là gậy người tiên, đi qua dưới cửa. Khách khứa
các tướng hai phần ba xuống lầu đón lạy. Quan chưởng tân cấm la, cũng
không thể ngăn. Sách liền hạ lệnh bắt Cát. Những người thờ Cát sai vợ
con gái vào gặp mẹ Sách xin cứu Cát. Bà mẹ gọi Sách nói: ‘Vu tiên sinh
cũng giúp quân làm phước, chữa giúp tướng sỹ, không nên giết’. Sách nói:
‘Tên này yêu vọng, có thể huyễn hoặc lòng người, xa khiến các tướng
không còn quan tâm đến lễ nghĩa vua tôi, đều bỏ Sách, xuống lầu lạy nó,
không thể không trừ nó’. Các tướng lại liên danh trình bày sự việc xin
tha. Sách nói: ‘Xưa Trương Tân đất Nam Dương làm thứ sử Giao Châu, vứt
điển huấn thánh trước, bỏ pháp luật nhà Hán, thường mặc áo đỏ, bịt đầu,
đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục, bảo để giúp giáo hóa, cuối
cùng bị mọi nam giết. Điều đó rất vô ích, các vị chỉ chưa hiểu thôi. Nay
tên này đã ở trong sách quỉ, đừng tốn thêm giấy bút với nó’. Liền lôi
ra chém, treo đầu ở chợ. Những người thờ Cát vẫn không nói là chết, mà
bảo là thi giải, rồi cúng vái cầu phước”.
Ngu
Hỷ viết Chí lâm dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12b1-3 đã nhận xét: “Hỷ khảo cứu
Hoàn vương chết ngày 4 tháng 4 năm Kiến An thứ 5 (200). Lúc ấy Tào,
Viên đánh nhau chưa có thắng bại. Cứ thơ của Hạ Hầu Nguyên Nhượng viết
cho Thạch Uy Tắc sau khi phá Viên Thiệu, thơ nói: ‘Đem Trường Sa trao
cho Tôn Bí, lấy Linh Quế làm cơ nghiệp cho Trương Tân’. Điều này là chỉ
Hoàn vương mất nước, Trương Tân chết sau, không được tương nhượng, nói
vì ý Tân chết”.
Bùi
Tùng Chi trong Ngô chí 1 tờ 12b3-4 nói rõ ra là Giang biểu truyện sai,
khi bảo Trương Tân chết trước Tôn Sách: “Theo Giao Quảng nhị châu xuân
thu do đại trung chính Quảng Châu Vương Phạm dâng lên vào năm Thái
Khương thứ 8 (287), thì Kiến An năm thứ 6 (201) Trương Tân còn làm châu
mục Giao Châu. Giang biểu truyện sai, như Chí lâm đã nói”.
Fukui[40][40]
bình luận về báo cáo của Giang biểu truyện, dẫn thêm Địa lý chí hạ của
Tấn thơ 15 nói Trương Tân làm thứ sử Giao Châu năm Kiến An thứ 8 (203),
mà Hồ Tam Tỉnh đã tán đồng khi chú thích Tử trị thông giám 66, rồi kết
luận: “Trương Tân làm thứ sử Giao Châu trong khoảng năm Kiến An thứ 6
(201), còn năm Chu Phù bị giết là trước năm Kiến An thứ 5 (200)”. Điểm
đáng ngạc nhiên là trong khi nhận ra nhân vật, mà Tôn Sách dẫn ra trên,
dứt khoát không phải Trương Tân, vì Tân còn làm thứ sử Giao Châu sau khi
Sách chết, thế mà Fukui vẫn bình luận tiếp về lối sống “vứt điển huấn
thánh trước, bỏ pháp luật Hán gia, thường mặc áo đỏ gạch, bịt đầu, đánh
đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục” là của Trương Tân, mà không tìm thử
xem người sống lối sống đó là ai.
Theo
chúng tôi, thứ nhất, ngoài chứng cứ của Chí lâm, Giao Quảng nhị châu
xuân thu và Tấn thơ địa lý chí, xác nhận Trương Tân còn làm thứ sử Giao
Châu, sau khi Tôn Sách chết vào năm 200, ta còn có lá thư của Hứa Tỉnh
viết cho Tào Tháo vào năm 205, mà truyện Hứa Tỉnh trong Thục chí 8 tờ
203-3b7 đã chép lại, nói: “Đường đời gai góc, họa loạn cùng hợp, khủng
khiếp lén sống, tự trốn mọi rợ, thành hết mười năm... Lại có Trương Tử
Vân xưa ở kinh đô, chí phò vương thất, nay tuy đến cõi hoang, không được
tham dự bản triều, thì cũng là phiên trấn của quốc gia, ngoại viện của
túc hạ...”. Sau câu vừa dẫn, Bùi Tùng Chi chua: “Tử Vân, tên Tân, người
Nam Dương, làm thứ sử Giao Châu. Xem Ngô chí”.
Vậy,
sau khi Hứa Tỉnh đến Giao Châu năm 195 và ở đó "thành hết mười năm",
mới viết thư cho Tào Tháo, và trong thư có nhắc đến vai trò của Trương
Tân đang còn sống đối với Tháo, thì rõ ràng đến năm 205, khi lá thư
viết, Trương Tân đang còn là thứ sử Giao Châu. Như thế, nhân vật mà Tôn
Sách nêu ra trong lời nói của ông trong Giang biểu truyện dứt khoát
không phải là Trương Tân đất Nam Dương. Ấy thì, người đó là ai?
Đây
là điểm thứ 2 chúng tôi muốn đề cập tới. Thật ra, người đó không ai xa
lạ hơn là Chu Phù. Đáng lẽ, Giang biểu truyện phải viết Cối Kê Chu Phù,
thay vì Nam Dương Trương Tân, mới hợp với cái chết của Tôn Sách vào năm
200. Lý do cho chúng tôi nghĩ nhân vật ấy là Chu Phù gồm hai yếu tố. Một
là Hậu Hán thư im lặng không nói tới quan hệ của Chu Phù với Chu Tuấn
và Chu Hạo. Đây là một hình thức bào biếm mà bút pháp viết sử Trung Quốc
thường vận dụng đối với các nhân vật mà người viết sử có những vấn đề
không tán thành. Mà trong trường hợp này nếu lối sống "vứt điển huấn
thánh trước, bỏ pháp luật Hán gia" quả là của Chu Phù, thì Chu Phù tất
nhiên phải chịu một hình phạt tức cho quên lãng vào lịch sử bằng cách
không nhắc tới. Hai là quan hệ của Chu Phù với Mâu Tử. Vào năm 194, Mâu
Tử lúc ấy đã là một Phật tử xác tín. Sau khi Trức Dung giết Chu Hạo, Chu
Phù đã nhờ Mâu Tử, một Phật tử, giúp mình đi trả thù cái chết của Chu
Hạo. Quan hệ này phải nói không những có tính chính trị, mà còn có tính
tôn giáo nữa vào lúc ấy. Ta có trường hợp Trức Dung quan hệ với Triệu
Dục của Quảng Lăng và Tiết Lễ của Bành Thành. Viết Di mạch truyện vào
cuối thế kỷ thứ IV, mà Tăng Hựu chép lại trong Xuất Tam tạng ký tập 5
ĐTK 2145 tờ 41b-11, Tăng Duệ đã nhắc tới việc “Hán mạt Ngụy sơ, hai
tướng Quảng Lăng và Bành Thành xuất gia”.
Bản
thân Trức Dung là một Phật tử nhiệt thành. Trong thời gian làm đốc vận
tào ba quận Quảng Lăng, Bành Thành và Hạ Bì, Trức Dung đã cho xây chùa
lớn, đúc tượng cao và gầy dựng một phong trào Phật giáo mạnh mẽ, không
những ở Hạ Bì, mà các quận bên cạnh, như truyện Trức Dung dẫn trên đã
nói. Khi Tào Tháo đánh Đào Khiêm vào năm 193, Dung rút quân về Quảng
Lăng. Tướng Quảng Lăng là Triệu Dục đã đón tiếp Dung nồng hậu.
Truyện
Trương Chiêu trong Ngô chí 7 tờ 1a6-b8 nói: “Trương Chiêu, tự Tử Bố,
người Bành Thành, nhỏ hiếu học, giỏi chữ lệ, theo Bạch Hầu Tử Am học Tả
thị xuân thu, rộng xem các sách, cùng Triệu Dục đất Lang Nha, Vương Lãng
đất Đông Hải, đều nổi tiếng bạn tốt... Thứ sử Đào Khiêm cử mậu tài,
Chiêu không ứng. Khiêm cho là khinh mình, nên Chiêu bị bắt, Dục hết mình
tìm cách cứu, Chiêu mới được miễn”.
Triệu
Dục cùng các danh nho Trương Chiêu (155-235), Vương Lãng (?-229) làm
bạn, do thế xuất thân cũng là một nhà nho, và đã có cơ hội cứu Trương
Chiêu khỏi hình phạt của Đào Khiêm, điều này chứng tỏ Dục ra làm quan
với Đào Khiêm tương đối sớm. Đến năm 193 Tào Tháo tấn công Đào Khiêm,
Dục đã làm thái thú Quảng Lăng, để đón tiếp Trức Dung, lúc Dung rút quân
tới. Tuy cuối cùng Dung đã giết Dục, việc Dung tìm tới Dục biểu thị một
quan hệ mật thiết giữa họ đã được thiết lập từ trước. Quan hệ này là
quan hệ chính trị, nhưng không loại trừ khả năng tôn giáo. Bản thân Trức
Dung, như đã thấy, là một Phật tử nhiệt thành. Bây giờ qua Di mạch
truyện ta biết Quảng Lăng tướng Triệu Dục "xuất gia". Quan hệ giữa họ
như vậy mang nặng dấu ấn Phật giáo.
Tất
nhiên, Triệu Dục không "xuất gia", theo kiểu Nghiêm Phật Điều, người
Trung Quốc đầu tiên được lịch sử Phật giáo Trung Quốc xác nhận là "xuất
gia". Trái lại, ông "xuất gia" theo kiểu Giang biểu truyện mô tả về Chu
Phù nói trên theo lời của Tôn Sách, đó là “vứt điển huấn của thánh
trước, bỏ pháp luật của Hán gia, mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt
hương, đọc sách đạo tà tục, bảo để giúp giáo hóa”. Ý nghĩa chữ "xuất
gia" đã được mở rộng và qui chiếu theo một số tiêu chuẩn mới: Thứ nhất
là khước từ những tư tưởng khuôn phép cũ, biểu thị ở đây bằng việc "vứt
điển huấn của thánh trước, bỏ pháp luật của Hán gia". Và thứ hai là chấp
nhận những tư tưởng lối sống mới, thể hiện bằng việc "mặc áo đỏ, bịt
đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục.
Sự
kiện "mặc áo đỏ, bịt đầu" này đối với người Trung Quốc là một chuyện
lạ, như truyện Lưu Bằng của Thần tiên truyện 5 đã ghi: “Điện hạ có
chuyện lạ (quái), rồi có mấy mươi người áo đỏ bịt tóc”. Và chỉ có những
người "lập dị" mới làm như truyện Hướng Hú của Hậu Hán thư 111 tờ 19a7-8
đã nói: “Lại giống như kẻ cuồng, thích cắt tóc, bịt đầu" là không đúng
với "phép tắc nhà Hán", và chỉ "cuồng sanh" mới làm. Trong khi đó, ở
nước ta, điều 11 của Lý hoặc luận nói: “Nay sa môn cạo tóc đầu, mặc áo
đỏ, thấy người không có lễ nghi quì đứng, không có dung mạo đoan trang,
sai trái với phép mạo phục, sai với cách ăn mặc vậy”.
Đó
là về hình thức lối sống. Còn về tư tưởng, thì "đánh đàn, đốt hương,
đọc sách đạo tà tục". Sách đạo tà tục (tà tục đạo thơ) nói ở đây không
chỉ và không có nghĩa là kinh sách đạo giáo, mà chỉ kinh sách Phật giáo.
Hậu Hán thư 118 tờ 18b6-7 trong phần Tây Vức truyện, khi bình luận về
kinh Phật, đã nói: “(Kinh Phật) làm rõ lời dạy lắng lòng cởi lụy, làm rõ
tôn chỉ về không hữu gồm sai, thuộc dòng sách đạo” (đạo thơ chi lưu).
Vậy "đọc sách đạo tà tục" đây chính là đọc sách kinh Phật giáo.
Như
thế, khi đọc kinh Chu Phù đã "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương",
thì về ngoại hình, thực không khác gì một nhà sư. Có lẽ, lúc kinh Phật
mới truyền vào Viễn Đông những thế kỷ đầu tây lịch, việc ăn mặc lúc đọc
kinh của những người tại gia cũng như xuất gia không khác nhau lắm.
Chính vì vậy, Di mạch truyện mới nói tới sự xuất gia của Triệu Dục và
Tiết Lễ.
Việc
thế Chu Phù vào nhân vật Trương Tân của câu nói Tôn Sách dẫn trên, như
vậy, không những phù hợp với thời điểm Tôn Sách chết, mà còn hoàn toàn
được lý giải qua quan hệ của Chu Phù với Mâu Tử do Lý hoặc luận ghi lại.
Tôn Sách mất năm 200, mà Giao Quảng nhị châu xuân thu của Vương Phạm
lại nói năm 201 "Trương Tân còn làm thứ sử Giao Châu". Thế thì Trương
Tân đã làm thứ sử Giao Châu trước năm 201, tức ít lắm là vào năm Tôn
Sách mất, nếu không là sớm hơn.
Theo
chúng tôi, Trương Tân qua làm thứ sử Giao Châu sớm hơn nhiều, có thể là
vào năm 197, sau khi Chu Phù bị "mọi man" giết vào khoảng năm ấy, như
đã giả thiết ở trên. Giả thiết này là dựa trên câu nói của Tôn Sách
trong Giang biểu truyện dẫn trước. Sách nói: “Xưa Trương Tân đến Nam
Dương làm thứ sử Giao Châu, vứt điển huấn của thánh trước, bỏ pháp luật
của Hán gia...” Bây giờ ta đã biết "Nam Dương Trương Tân" là một chép
lộn của "Cối Kê Chu Phù", thì việc Chu Phù chết phải xảy ra trước năm
Tôn Sách mất một thời gian đáng kể, để cho Tôn Sách dùng chữ "xưa"
(tích), khi đề cập đến Chu Phù. Và ta cũng biết Chu Phù không thể mất
trước năm 195, khi Chu Hạo bị Trức Dung giết và Chu Phù đã yêu cầu Mâu
Tử giúp đỡ. Vậy, nếu Tôn Sách mất vào năm 200, thì năm 197 có khả năng
là thời điểm Chu Phù bị giết, để ba năm sau đó, khi kể lại sự kiện Chu
Phù, Tôn Sách đã dùng chữ "xưa" (tích).
Chu
Phù mất năm 197, Trương Tân qua làm thứ sử thế, cho đến ít lắm là năm
205, khi Hứa Tỉnh viết thư giới thiệu Tân với Tào Tháo, như đã thấy.
Đồng thời, Tân phải mất trước năm 208 năm Lưu Biểu mất, như truyện Lưu
Biểu trong Hậu Hán thư 104 hạ tờ 10a8-9 và Ngụy chí 6 tờ 12b2 đã ghi, để
cho Lưu Biểu cử Lại Cung làm thứ sử Giao Châu thay Tân và Ngô Cự làm
thứ sử Thương Ngô thay Sử Hoàng. Năm ấy Kiến An thứ 13 (208) Lưu Bị ở
với Lưu Biểu khuyên Biểu đánh Hứa. Biểu không nghe. Tào Tháo lại dẫn
quân nam chinh thì Biểu mất, nhân đó lấy được Kinh Châu.
Giang
biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Lưu Bị của Thục chí 1 tờ
6a12-b4 nói: “(Khi Biểu mất) Tôn Quyền sai Lỗ Túc đi điếu Lưu Biểu, thăm
hai con Biểu, cùng lệnh kết liên với Lưu Bị. Túc chưa đến, mà Tào công
đã vượt qua Hán tân. Túc cố tiến về trước để gặp Bị ở Đương Dương, nhân
nói ý của Quyền, bàn sự thế thiên hạ, tỏ lòng ân cần, đồng thời hỏi Bị:
‘Dự Châu nay muốn đi đâu?’ Bị đáp: ‘Vì có quen với thái thú Thương Ngô,
Ngô Thần, nên muốn đi đến đó’. Túc nói: ‘Tôn Thảo lặc thông minh nhân
huệ, kính hiền đãi sỹ, anh hào Giang Biểu đều về qui phục, đã chiếm sáu
quận, quân giỏi, lương nhiều đủ để dựng việc. Nay vì Ngài đưa kế thì
không còn gì hơn là sai người phúc tâm, khiến tự liên kết với phía đông,
tôn trọng sự liên hòa, cùng cứu cơ nghiệp mấy đời. Còn nói muốn đến Ngô
Thần, thì Thần là một người tầm thường làm việc tại một quận xa, sắp bị
người ta thôn tính, há đủ để dựa vào ư?’ Bị rất mừng, tiến đến ở Ngạc
huyện, liền sai Gia Cát Lượng theo Túc đến Tôn Quyền thề kết đồng minh”.
Rõ
ràng, Ngô Thần mà Lưu Bị muốn đến nương tựa ở đây, là Ngô Cự của truyện
Sỹ Nhiếp của Ngô chí dẫn trước, như Thục chí quyển nhị khảo chứng tờ
1b2-3 đã nhận ra. Và năm mất của Lưu Biểu phải là năm Kiến An 13 (208),
chứ không phải 12, như truyện Lưu Bị ở đây đã có. Vậy, Lưu Biểu mất năm
208 và Trương Tân còn sống tới năm 205, thì việc Trương Tân và Sử Hoàng
mất chắc phải vào năm 206 và Lại Cung cùng Ngô Cự xuống thế năm 207. Để
năm sau khi Lưu Biểu mất, Lưu Bị đã có ý đến ở nhờ Ngô Cự, lúc ấy đã
thay Sử Hoàng làm thái thú Thương Ngô.
Vậy
thì, nếu Mâu Tử về Thương Ngô cưới vợ vào khoảng những năm 186, thời
điểm đó Sử Hoàng đã làm thái thú Thương Ngô chưa? Câu hỏi này ta hiện
không thể trả lời dứt khoát. Tuy nhiên, giống như trường hợp Sỹ Nhiếp
làm thái thú Giao Chỉ hơn 40 năm, tức từ khoảng năm 180 đến năm Hoàng vũ
thứ 5 (226), ta có thể giả thiết Sử Hoàng cũng làm thái thú Thương Ngô
trong khoảng từ 180 đến khi mất khoảng 207. Nếu chấp nhận giả thiết này,
thì vị thái thú muốn mời Mâu Tử làm quan ở Thương Ngô, không ai khác
hơn là Sử Hoàng.
Chúng
tôi phải nêu lên giả thiết vì lá thư do Hứa Tỉnh viết cho Tào Tháo
trong truyện Hứa Tỉnh cho Thục chí 8 tờ 2a12-b3 nói năm Hứa Tỉnh chạy
qua nước ta có ghé lại Nam Hải nghe tin Tháo phò vua Hán bèn “vừa buồn
vừa vui, liền với Viên Bái, Từ Nguyên Hiền lại cùng chuẩn bị, tính lên
Kinh Châu phía bắc. Gặp lúc các huyện Thương Ngô, mọi Việt nổi lên như
ong, châu phủ đổ nhào, đường sá cắt đứt, Nguyên Hiền bị hại, già trẻ đều
bị giết. Tỉnh lần theo bờ mé, 500 dặm hơn, lại gặp đau ốm, bác gái mất
mạng cùng với những người đi theo vợ con, một lúc chết sạch. Lại phải
bồng bế nhau, đi về phía trước thì đến quận này” (tức Giao Chỉ). Vậy
ngay năm 195, ở Thương Ngô đã xảy ra cuộc khởi nghĩa của những người
Việt, "lật nhào châu phủ", thì không biết thái thú lúc ấy là Sử Hoàng
hay là một người khác nữa, cứ tạm cho là Sử Hoàng vẫn làm thái
thú[41][41].
Sau
khi Mâu Tử từ chối làm quan, Sử Hoàng lại nhờ Mâu Tử đi Kinh Châu để
"trí kỉnh". Truyện Lưu Biểu trong Ngụy chí 6 tờ 12a1-b2 nói Lưu Biểu làm
thứ sử Kinh Châu từ năm 190.
Hiến
đế kỷ trong Hậu Hán thư 9 tờ 2b13 đều nói thái thú Trường Sa Tôn Kiên
giết thứ sử Kinh Châu Vương Duệ vào mùa đông năm Sơ Bình thứ nhất (190),
trong khi truyện Lưu Biểu cũng của Hậu Hán thư 104 hạ tờ 7a13-8a2 lại
nói: “Năm Sơ Bình thứ nhất thái thú Trường Sa Tôn Kiên giết thứ sử Kinh
Châu Vương Duệ, chiếu thư lấy Biểu làm thứ sử Kinh Châu”. Truyện Biểu
trong Ngụy chí 12 tờ 12a1 cũng nói thế. Truyện Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4
tờ 7a13-8a10 lại cho biết thêm Lưu Biểu đã từng có ý đồ riêng đối với
Giao Châu, để sau này khi Trương Tân chết vào khoảng năm 205, Biểu đã cử
Lại Cung đến thế Tân làm thứ sử, dẫn tới việc Tào Tháo coi Biểu là một
tên "nghịch tặc".
Trước
đây, vì ý đồ và hành động dòm ngó của Lưu Biểu, cộng thêm với việc coi
câu nói của Tôn Sách trong Giang biểu truyện về Trương Tân chứ không
phải về Chu Phù, Fukui[42][42] đã giải thích sự kiện thái thú Thương Ngô
nhờ Mâu Tử đi "trí kỉnh" Kinh Châu, chính là đi "trí kỉnh" Lưu Biểu.
Giải thích này không phải là không có những khó khăn của nó. Lý do là vì
phần tự truyện của Lý hoặc luận nói việc Mâu Tử trở về Thương Ngô lấy
vợ và được thái thú nhờ đi "trí kỉnh" Kinh Châu là phải xảy ra "trước
lúc đó" (tiên thị thời), tức trước lúc Linh đế băng hà. Linh đế băng hà
vào ngày Bính Thìn tháng tư năm Trung Bình thứ 6 (189). Vậy nếu Mâu Tử
có được nhờ đi trí kỉnh Kinh Châu, thì cũng phải được nhờ vào khoảng
trước năm 189. Mà năm này Vương Duệ chắc chắn phải còn làm thứ sử Kinh
Châu, vì Duệ đến tháng 10 năm Sơ Bình thứ nhất (190), tức hơn một năm
sau mới bị Tôn Kiên giết. Cho nên, không thể có chuyện Mâu Tử được nhờ
đi Kinh Châu để "trí kỉnh" Lưu Biểu. Khi Biểu tới nhận chức, tình hình
Kinh Châu cực kỳ rối loạn, đến nỗi “Biểu không thể đến được, bèn một
ngựa vào Nghi thành, cho mời Bằng Việt người Nam quận, Thái Mạo người
Tương Dương, cùng đến định mưu kế hoạch”, như truyện Biểu trong Hậu Hán
thư 104 hạ tờ 8a3-5 đã ghi. Phải trải qua hơn 8 năm, sau khi đã dẹp bọn
giặc Tôn, giết Tôn Kiên và Trương Tế, đến năm Kiến An thứ 3 (198), thái
thú Trường Sa Trương Tiện đem ba quận Linh Lăng, Quế Dương phản, Biểu
sai lính đánh vây, phá Tiện, bình định được, do thế mở đất rộng ra, nam
tiếp với Ngũ Lĩnh, bắc cứ Hán Xuyên, đất đai mấy ngàn dặm, quân đội mười
vạn hơn.
Thế
có nghĩa phải đến năm 198, tức hơn 8 năm sau khi nhậm chức, Kinh Châu
của Lưu Biểu mới ổn định. Và đặc biệt vào những năm đầu, nhất là năm
190, khi mới đến, tình hình quá phức tạp đến nỗi Biểu phải "đơn mã" vào
Nghi thành, thì việc "trí kỉnh Lưu Biểu" do thái thú Thương Ngô nhờ Mâu
Tử không thể nào xảy ra được. Chính vì thế, việc đi "trí kỉnh" này, một
mặt phải xảy ra trước năm 189, như tự truyện của Lý hoặc luận đã ghi, và
mặt khác nhân vật được "trí kỉnh" không phải là Lưu Biểu, mà là Vương
Duệ. Dẫu sao đi nữa, Mâu Tử đã không đi trí kỉnh Kinh Châu, và sau khi
cưới vợ ở Thương Ngô đã đem vợ trở về Giao Chỉ để ở với mẹ mình.
Việc
đem vợ trở về này hẳn đã diễn ra trước những năm 189. Đây là thời điểm
bùng nổ hiện tượng các "dị nhân phương Bắc" đổ về nước ta để tránh nạn
và đua nhau "thực hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh", đến nỗi
Mâu Tử phải đóng vai Mạnh Kha chống lại phong trào học tập thuật ấy như
ta sẽ thấy ở dưới đây. Đó đồng thời cũng là lúc Chu Phù tiếp xúc với Mâu
Tử, dẫn tới việc nhờ vả Mâu Tử sau này trong vụ Chu Hạo bị Trức Dung
giết ở Dự Chương, thế Chu Phù đến làm thứ sử nước ta lúc nào?
Hậu
Hán thư 63 tờ 1a6-6b5 có chép lại truyện của một người tên Chu Phù.
Nhưng Chu Phù đây là đại tư không Chu Phù thời Lưu Tú, chứ không phải là
Chu Phù làm thứ sử nước ta. Lá sớ của Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ
7b7-10 ngược lại có ghi tên một Chu Phù làm thứ sử Giao Châu, gốc người
Cối Kê và có những "hương nhân" như Ngu Bào, Lưu Ngạn. Lưu Ngạn này,
phần tự truyện của Lý hoặc luận có nhắc tới như kỵ đô úy Lưu Ngạn và
được Giao Châu mục giao cho nhiệm vụ mang quân qua Dự Chương đánh trả
trung lang tướng Trức Dung để trả thù cho việc Dung đã giết "người em
của châu mục" (mục đệ) lúc ấy đang làm thái thú Dự Chương.
Truyện
của Trức Dung trong Hậu Hán thư 103 tờ 11a3-12 và trong Ngô chí 4 tờ
2a10-38 có chép việc Dung giết "quận thú Dự Chương Chu Hạo". Và việc này
phải xảy ra giữa những năm 193 và 194. Lý do là vì truyện Đào Khiêm
trong Hậu Hán thư 103 tờ 10b7-11a3 nói: “Năm Sơ Bình thứ 4 (193) Tào
Tháo đánh Khiêm, phá huyện Phó Dương của Bành Thành. Khiêm lui giữ Diệm.
Tháo đánh không thể thắng, bèn trở về đi qua đánh lấy Thủ Lự, Thư Lăng,
Hạ khưu, đều giết hết, phàm giết trai gái mấy chục vạn người, gà chó
không còn. Sông Tứ vì thế không chảy (...) Hưng Bình năm thứ nhất (194)
Tào Tháo lại đánh Khiêm, lược định Lang nha, Đông hải các huyện. Khiêm
sợ không thoát, muốn chạy về Đan Dương (...) Năm đó Khiêm bệnh chết”.
Trong
khi đó, truyện Trức Dung lại chép: “Đến khi Tào Tháo đánh Khiêm, vùng
Từ không yên, Dung bèn đem trai gái vạn người, ngựa ba nghìn con, chạy
đến Quảng Lăng. Thái thú Quảng Lăng Triệu Dục dùng tân lễ đãi Dung. Dung
ham lợi của cải của Quảng Lăng, bèn thừa lúc say rượu giết Dục, thả
lính cướp hết, nhân đó qua sông chạy về ở Dự Chương, giết quận thú Chu
Hạo, vào chiếm lấy thành. Sau bị thứ sử Dương Châu Lưu Do đánh bại, Dung
chạy vào trong núi, bị người ta giết”.
Truyện
Do trong Hậu Hán thư 106 tờ 14b8-11 nói: “Trong khoảng Hưng Bình, Do
làm chấn uy tướng quân Dương châu mục. Bấy giờ Viên Thuật chiếm Hoài
Nam. Do bèn dời đến ở Khúc A. Gặp lúc Trung Quốc tán loạn, sĩ phu phần
lớn chạy về nam. Do nhận tiếp đãi nuôi dưỡng, cùng họ lo lắng, rất được
tiếng khen. Viên Thuật sai Tôn Sách đánh thắng Do. Do nhân thế chạy đến
Dự Chương, bệnh chết”. Truyện Do trong Ngô chí 4 tờ 2a3-10 nói chi ly
hơn: "Tôn Sách vượt sông về đông, đánh Trương Anh và Phàn Năng v.v...
Lưu Do tới Đan Đồ, rồi qua sông về nam giữ Dự Chương, đóng ở Bành Trạch.
Trức Dung đến trước, giết thái thú Chu Hạo, vào ở trong quận. Do tiến
quân đánh Dung, bị Dung đánh bại, lại tập hợp các huyện thuộc quyền mình
đánh Dung. Dung bại, chạy vào núi, bị dân giết”.
Còn
Hậu Hán thư 9 tờ 5b10 dưới mục năm Hưng Bình thứ nhất (194) viết: “Năm
đó thứ sử Dương châu Lưu Do cùng với tướng Viên Thuật là Tôn Sách đánh ở
Khúc A, quân Do bại tích, Tôn Sách chiếm cứ Sơn Đông”.
Bùi
Tùng Chi lại dẫn Giang biểu truyện chú thích truyện Tôn Sách, nói Sách
"vượt sông" đánh Lưu Do vào năm Hưng Bình thứ 2 (195). Điều này có nghĩa
là Do đến Dự Chương không thể chậm hơn 195. Chính tại Dự Chương này, Do
hẳn đã đánh Trức Dung. Do thế, Trức Dung có thể bị đánh và sau chết năm
195. Cho nên, việc Dung đánh Chu Hạo không thể xảy xa chậm hơn năm 195
và có khả năng xảy ra vào năm 194, vì đó là năm Tào Tháo đánh Đào Khiêm
tại hai quận Bành Thành và Hạ Bì do Dung cai trị. Từ ấy Dung chạy qua
Quảng Lăng giết Triệu Dục, rồi đến Dự Chương giết Chu Hạo. Việc Hạo chết
phải xảy ra như thế vào khoảng năm 194 đã gây cho Chu Phù "nỗi đau cốt
nhục, uất phát tim gan", khiến Phù phải sai kỵ đô úy Lưu Ngạn đem quân
trả thù và nhờ Mâu Tử đi mở đường.
Vào
khoảng những năm 193-195 Chu Phù đã có mặt tại nước ta với tư cách một
châu mục. Thế Phù đến nước ta lúc nào? Năm 178, cha của Chu Phù là Chu
Tuấn đã được cử làm thứ sử Giao Chỉ để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của
Lương Long. Đến năm 184 Giả Tôn lại được cử làm thứ sử để đánh dẹp cuộc
khởi nghĩa của Trụ Thiên tướng quân. Đó là theo truyện của Chu Tuấn và
Giả Tôn trong Hậu Hán thư 101 tờ 7b1-9 và 61 tờ 14a1-b1. Ba năm sau, Giả
Tôn được gọi về, tức năm 186. Căn cứ truyện Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ
7a5-11 nói thì em Sỹ Nhiếp là Sỹ Nhất đã quen biết Đinh Cung khi Cung
làm thứ sử Giao Chỉ. Căn cứ Linh đế kỷ của Hậu Hán thư 8 tờ 11b2 và
12b8, tháng 5 năm Trung Bình thứ 4 (187) Đinh Cung làm tư không, tháng 8
năm sau (188) cung được cử làm tư đồ. Như thế, nếu Cung có làm thứ sử
Giao Chỉ, thì cũng chỉ làm trong một thời gian ngắn, tức khoảng giữa năm
186 đến giữa năm 187.
Chính
trong thời gian ấy, cũng theo truyện của Giả Tôn đã xảy ra một cuộc "sa
thải thứ sử hai ngàn thạch, lại chọn các quan lại trong sạch có khả
năng". Hẳn qua cuộc thanh lọc này, Chu Phù như một thành phần quan lại
trẻ đã được đề bạt làm thứ sử Giao Chỉ. Hơn nữa, đó cũng là thời điểm
cha của Phù là Chu Tuấn đang có uy tín lớn do những chiến công trong
việc đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân và các cuộc khởi nghĩa khác như
Trương Phi Yến, Trương Bạch Kỵ v.v... Đến lúc Đổng Trác nắm quyền vào
tháng 8 năm Trung Bình thứ 6 (189), sau cuộc nổi loạn Thập thường thị
của Trương Nhượng Đoàn Khuê, Chu Tuấn đã được Trác mời làm phó tướng
quốc cho Trác, nhưng Tuấn từ chối. Đào Khiêm, Khổng Dung và những người
khác đã tôn Tuấn làm thái sư để đánh Trác. Chưa thực hiện, thì Vương
Doãn đã giết Trác vào tháng tư năm Sơ Bình thứ 3 (192). Tháng 5 năm sau
(193) Chu Tuấn được trưng làm thái úy. Tháng 7 năm Hưng Bình thứ nhất
(194) miễn làm thái úy, trao lại cho Dương Bưu, Tuấn được chiếu cùng
Dương Bưu và 10 người khác đi hòa giải Lý Thôi Quách Phiếm. Năm đó Tuấn
mất.
Vậy
Chu Phù hẳn đã đến làm thứ sử nước ta khoảng năm 187 trở đi, cho Đinh
Cung về Lạc Dương làm tư không. Điểm đáng nói là truyện Chu Tuấn trong
Hậu Hán thư 101 tờ 11a10-11, sau khi Chu Tuấn mất đã viết: “Con Hạo cũng
có tài hạnh, làm quan đến thái thú Dự Chương”. Thế phải chăng Chu Phù
không phải là con của Chu Tuấn? Tất nhiên, việc Phạm Việp không kể tên
Chu Phù vào những người con của Tuấn không có nghĩa Phù không phải là
con Tuấn, mà chỉ phản ánh một quan điểm đánh giá lịch sử đối với từng
nhân vật như chính Việp đã chủ trương trong lời Tư tự của mình là "dĩ
văn truyền ý". Ý của Phạm Việp thế nào, để dẫn đến việc loại bỏ tên Chu
Phù, chúng ta ngày nay khó có thể biết được.
Nhưng
cứ vào câu nói của Tôn Sách dẫn trước về sự kiện Phù "vứt điển huấn của
tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia, thường mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh
đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục", ta có thể đoán ra một phần nào. Đó
là việc Phù đã chối bỏ toàn bộ hệ ý thức, mà ông có chức năng phải đại
diện, để đi theo Phật giáo, và quan hệ thân thiết với những phần tử, mà
"đám thế tục" cho là "quay lưng với năm kinh, mà đi theo đạo khác", như
là Phật tử Mâu Tử. Một khi đã thế, có thể trong quan điểm của Việp, Phù
không còn xứng đáng để ghi vào sử sách Trung Quốc, đặc biệt ghi vào bảng
tên những người con của một danh tướng như Chu Tuấn, mà Việp bình luận
là "đem thao lược của thượng tướng, nhận đánh dẹp vào lúc thảng thốt,
đến khi công thành quân thắng, tiếng uy đồn thiên hạ..." (Hậu Hán thư tờ
11a12-b1).
Như
thế, Chu Phù sang làm thứ sử Giao Châu khoảng những năm 187-188. Năm
sau khi đem vợ từ Thương Ngô về Giao Chỉ, Mâu Tử đã gặp Chu Phù, một con
người "ưu văn xử sĩ" biết trân trọng chất xám nhân tài và có ý mời Mâu
Tử làm quan. Một lần nữa ông lấy cớ bệnh tật, mà không ra (xưng tật bất
khởi). Tuy nhiên, một quan hệ tốt đẹp đã được duy trì giữa hai người. Và
quan hệ này đã trở nên gắn bó hơn, khi Phù thực hiện việc "vứt điển
huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" để đọc sách "đạo tà tục"
của Phật giáo, để đi theo Phật giáo và sống đời sống của một Phật tử.
Chính việc ấy của Chu Phù đã tạo môi trường thuận lợi cho mối quan hệ
mật thiết giữa hai người, mà sau đó Mâu Tử đã phải thú nhận là đã diễn
ra trong một thời gian dài (bị mạt phục lịch, kiến ngộ nhật cửu).
Thời
gian dài này có thể đôi ba năm hay hơn nữa. Mâu Tử tuy không ra làm
quan, Chu Phù vẫn đãi ngộ một cách trọng hậu. Điều này có nghĩa dù không
công khai cộng tác, Mâu Tử vẫn có quan hệ với Phù. Quan hệ này do thế
phải dựa trên một cơ sở riêng tư, cơ sở niềm tin Phật giáo, mà cả hai
người đều chia sẻ. Cho nên, khoảng những năm 193, 194, khi em mình là
Chu Hạo bị Trức Dung giết ở Dự Chương, Chu Phù liền sai kỵ đô úy Lưu
Ngạn đến đó, song sợ cõi ngoài nghi nhau, binh không được tiến. Châu mục
bèn mời Mâu Tử nói: "Em ruột bị nghịch tặc giết hại, nỗi đau cốt nhục,
uất phát tim gan, phải sai Lưu đô úy đi nhưng sợ cõi ngoài nghi ngờ,
người đi không thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài chuyên đối phó. Nay
muốn giúp nhau, mượn đường Linh Lăng Quế Dương, lộ trình được thông
suốt. (Ngài nghĩ) thế nào?" Mâu Tử trả lời: "Chịu nhờ ơn nghĩa, đãi ngộ
lâu ngày, liệt sỹ quên mình, hẹn dứt khoát ra đi". Thế là dù không làm
quan với Chu Phù, khi Phù có việc nhờ vả, Mâu Tử đã nồng nhiệt đáp ứng.
Sự tình này cho phép ta giả thiết Mâu Tử và Chu Phù đã có những quan hệ
thân tình đặc biệt, vượt ra ngoài quan hệ bình thường cấp trên cấp dưới.
Không những thế, Chu Phù đánh giá cao khả năng của Mâu Tử, một người
"văn võ kiêm bị, có tài chuyên đối". Và thực tế, việc Mâu Tử đem mẹ từ
Thương Ngô xuống tỵ thế ở nước ta, rồi về Thương Ngô lấy vợ, chứng tỏ
ông là người có khả năng như thế. Cho nên, việc mượn đường để dẫn quân
đi, trong tình hình các địa phương châu quận nghi ngờ nhau, Chu Phù tất
phải chọn một nhân vật tầm cỡ "văn võ kiêm bị, có tài chuyên đối", mới
thực hiện chu toàn nhiệm vụ. Phù đã chọn Mâu Tử và mời (thỉnh) ông.
Quả
vậy, con đường từ nước ta đi lên phía bắc Trung Quốc, khoan nói tới
tình hình chính trị bất ổn "châu quận nghi nan" thời Chu Phù, đã đưa ra
không ít khó khăn cho những ai không thông thuộc nó. Truyện Trịnh Hoằng
trong Hậu Hán thư 63 tờ 12b11-13a3 nói: “Năm Kiến Sơ thứ 8 (83) Hoằng
sai Trịnh Chúng làm đại tư nông. Ngày trước bảy quận Giao Chỉ cống hiến,
chuyển vận đều do Đông Dã vượt biển mà đến, sóng gió gian hiểm, chết
chìm nối nhau. Hoằng tâu mở đường núi Linh Lăng Quế Dương, do thế suốt
thông, đến nay trở thành thường lộ”. Con đường Linh Lăng Quế Dương, mà
Chu Phù nhờ Mâu Tử đi mượn, chính là con đường này. Tuy gọi là "suốt
thông" (di thông) và "thường lộ", nó không phải không đầy hiểm nguy và
trắc trở.
Chỉ
cần đọc lại truyện Hứa Tỉnh trong Thục chí 9 tờ 2a12-b3, chúng ta không
cần đợi lâu để thấy thực tế đó xảy ra ngay vào thời Mâu Tử. Hứa Tỉnh kể
sau khi Vương Lãng thất thủ ở Cối Kê vào năm 195, Hứa Tỉnh đã cùng gia
đình thân thuộc với một số bạn bè như Viên Bái, Từ Nguyên Hiền xuống
thuyền chạy về nam. Đến Quảng Châu, được tin Tào Tháo phò Hiến đế, Tỉnh
bèn tìm đường trở về bắc. Đến Thương Ngô, gặp "mọi Việt" (di Việt) khởi
nghĩa đánh Thương Ngô. Một số thân thuộc và bạn bè bị mất mạng. Tỉnh bấy
giờ mới tìm đường xuôi về nam, đến nước ta. Rõ ràng con đường lên phía
bắc không phải bình thường chút nào, vào thời Mâu Tử. Nó không phải là
một "thường lộ" như Phạm Việp đã nhận xét vào thời mình, mà đầy bất trắc
và hiểm nguy chết người.
Ngay
hai chục năm sau khi Trịnh Hoằng mở đường, vào năm Nguyên Hưng thứ 1
(106) trưởng huyện Lâm Vũ là Đường Khương, nhân việc “lệ cũ Nam Hải dâng
long nhãn, lệ chi, 10 dặm đặt một trí, 5 dặm đặt một hầu, đi lại hiểm
trở, người chết nối nhau dọc đường. Bấy giờ trưởng huyện Lâm Vũ là Đường
Khương, người Nhữ Nam, có huyện mình tiếp giáp với Nam Hải, bèn dâng
thư bày tỏ tình trạng, vua xuống chiếu, nói: Vật quí lạ nước xa vốn để
dâng cúng tôn miếu. Nếu có thương hại, há đó là gốc thương dân. Ra lệnh
thái quan không được nhận đồ dâng”. Đó là theo Hậu Hán thư 4 tờ 15b8-b1
do Phạm Việp ghi lại.
Chú
thích đoạn văn vừa dẫn ở tờ 15a1-5, Lý Hiền đã cho dẫn Hậu Hán thư của
Tạ Thừa nói càng rõ hơn: “Đường Khương tự là Bá Du, giao việc công, bổ
làm trưởng huyện Lâm Vũ. Huyện tiếp Giao Châu. Xưa dâng long nhãn, lệ
chi và đồ tươi sống. Dâng rồi, ngày đêm chạy ngựa chuyển đưa, đến nỗi có
người gặp cọp sói độc hại gục ngã tử vong không dứt. Con đường đi qua
Lâm Vũ, Khương bèn dâng thư can vua nói: ‘Thần nghe trên không lấy việc
nếm mùi ngon làm đức, dưới không đem việc dâng thức ngon làm công. Nên
thiên tử ăn thì thịt bê là cao nhất, không lấy quả hạt làm quí. Nép thấy
bảy quận Giao Chỉ dâng long nhãn tươi v.v... thì chim sợ, gió nổi. Đất
đai nam châu, trùng độc thú dữ không hết ở dọc đường đến nỗi xúc phạm,
gây hại chết chóc. Người chết rồi thì không thể sống lại, nhưng kẻ sắp
chết thì có thể cứu được. Hai món ấy (tức long nhãn và lệ chi - Lê Mạnh
Thát chú) dâng lên đền thì vua chưa chắc dài năm thêm thọ’. Vua nghe
theo”.
Ngay
trong giai đoạn đang còn tương đối ổn định như thế, và chỉ cách thời
gian Trịnh Hoằng mở đường mới 20 năm, mà con đường Quế Dương Linh Lăng
đi từ nước ta lên đã gây ra không biết bao nhiêu chết chóc kinh hoàng,
đến nỗi một người huyện trưởng có lương tri như Đường Khương phải viết
thư xin bỏ lệ cống long nhãn lệ chi của Giao Chỉ. Huống nữa là đến giữa
những năm 193-195, khi toàn bộ đất nước Trung Quốc đang kinh qua một
loạt các bạo loạn và khởi nghĩa khắp nơi. Từ Viên Thiệu, Viên Thuật, Tào
Tháo phía bắc, đến Tôn Sách, Tôn Quyền phía nam, Trương Hỗ, Hàn Toại,
Mã Đằng, Mã Siêu và Lưu Bị phía tây. Trung Quốc đang sục sôi trong biến
động.
Cho
nên, để thực hiện việc đưa quân lên Dự Chương, nhằm trả thù cho Chu
Hạo, Chu Phù phải nhờ đến Mâu Tử. Trong khi Mâu Tử chuẩn bị lên đường,
thì mẹ mất. Thế là ông phải ở nhà chịu tang, và cuộc hành trình lên phía
bắc từ đó không thành. Sự thật, không hẳn chỉ vì tang mẹ, mà Mâu Tử
đành đình chỉ cuộc đi. Thực tế, vào thời ông có những người có tang cha
hay tang mẹ, mà vẫn tiếp tục thi hành nhiệm vụ do tình hình chính trị
hay quân sự cấp bách đòi hỏi, chứ không ở nhà cư tang. Ta có trường hợp
điển hình Ngu Phiên, mà Ngô chí 12 tờ 1a8-9 đã ghi lại.
Ngu
Phiên làm công tào cho Vương Lãng ở Cối Kê. Khi Tôn Sách vượt sông tiến
đánh. Lãng thất thủ xuống thuyền cùng bạn bè như Hứa Cống định chạy về
nam đến nước ta. Ngu Phiên dù cha vừa mất cũng xuống thuyền đi theo, bàn
với Lãng không nên chạy về Giao Chỉ. Lãng nghe theo, lên phía bắc đầu
quân với Tào Tháo. Còn Ngu Phiên bèn trở về Diêu Dư tiếp tục cư tang
cha, rồi sau này ra làm việc với Tôn Sách và Tôn Quyền. Điều này rõ ràng
chứng tỏ dù có tang cha hay mẹ, khi việc nước cấp bách, người ta phải
tạm lo việc nước trước, rồi sau mới tính đến chuyện để tang. Cho nên,
nếu công tác tiến quân đi Dự Chương có tính cấp bách, hẳn Mâu Tử có thể
tạm thời hoãn việc cư tang, để thi hành nhiệm vụ mà Chu Phù đã nhờ vả
ông đã hứa với lời hứa: "Liệt sĩ quên mình, hẹn dứt khoát ra đi". (Liệt
sĩ vong thân, kỳ tất sính hiện).
Song,
khi xảy ra tang mẹ, tính cấp bách của việc tiến quân đi Dự Chương có lẽ
không còn nữa, nên Mâu Tử quyết định ở nhà cư tang. Cuộc đi lên phía
bắc do thế không thành. Lý do cho sự mất tính cấp bách này, ngoài việc
cư tang mẹ của Mâu Tử về mặt khách quan, ta có thể truy ra ít nhất về
hai biến cố, tác động trực tiếp đến quyết định của Mâu Tử cũng như Chu
Phù. Thứ nhất, nếu Trức Dung giết Chu Hạo vào khoảng 193-194 thì không
lâu sau đó Dung đã bị Lưu Do đánh bại và bị giết khoảng những năm
194-195. Điều này có ý nghĩa khi Mâu Tử và Chu Phù chuẩn bị xong quân
đội và phương tiện, họ chắc đã nhận được tin Trức Dung đã bị giết, nên
không còn lý do chính đáng để ra đi. Thứ hai, cũng trong khoảng năm 195
người Việt ở Thương Ngô đã khởi nghĩa, chận đường về bắc của Hứa Tỉnh.
Tình hình Thương Ngô, cửa ngõ đi lên phía bắc không an toàn. Do thế, Mâu
Tử có thêm lý do để đình chỉ.
Ngoài
ra, về phía chủ quan của bản thân Chu Phù, theo Tôn Sách, ta biết Phù
"cuối cùng bị man di giết", như Giang biểu truyện nói, mà Bùi Tùng Chi
dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12a5-11 và Lý Hiền dẫn trong Hậu Hán thư 60 hạ tờ
19b11-20a3, song không biết tại sao truyện Sỹ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ
7a9 cũng nói Phù bị đánh "chạy vào biển" nhưng không nói lý do. Lá sớ
của Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10 mới nói rõ cho biết Chu Phù tin
dùng đám người cùng quê với mình (hương nhân) như Lưu Ngạn sách nhiễu
dân chúng, đánh thuế quá cao. Do thế, dân chúng cuối cùng đã nổi lên
đánh đuổi Chu Phù phải chạy vào biển mà chết: “Lại cố thứ sử Chu Phù
đất Cối Kê phần nhiều dùng người cùng quê là bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân
làm trưởng lại, xâm ngược bá tánh, ép thuế lân dân. Cá vàng một con,
thâu thuế gạo một hộc. Bá tánh oán phản, giặc núi cùng nổi lên đánh phá
châu quận. Phù chạy vào biển lưu lạc chết mất”.
Như
vậy, bản thân Chu Phù lúc ở nước ta vẫn có nhiều vấn đề, mà một trong
đó là sự tin dùng hương nhân của Phù và sự sách nhiễu của đám này. Có
thể là một trong những lý do tại sao Mâu Tử đã không chịu ra làm quan
với Chu Phù, dù Phù vẫn đối đãi trọng hậu với Mâu Tử. Dẫu không làm việc
với Phù, ông hẳn đã tham mưu cho Phù nhiều việc, đặc biệt là việc "vứt
điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia", để đi theo Phật
giáo của Phù. Sự việc này cho phép chúng ta khẳng định chính quyền Chu
Phù Sỹ Nhiếp trong khoảng những năm 187-197 là một chính quyền độc lập
thực sự Việt Nam mang tính Phật giáo. Có thể nói đó là chính quyền Phật
giáo Việt Nam đầu tiên được thành lập. Nói là một chính quyền Việt Nam,
vì người đứng đầu chính quyền này, dù thuộc Hán tộc, đã "bỏ pháp luật
của Hán gia", do thế phải dùng tới pháp luật của người Việt hay Việt
luật. Và là một chính quyền mang tính chất Phật giáo, vì người đứng đầu
ấy đã "vứt điển huấn của tiền thánh" người Hán, do thế tất phải dùng
điển huấn của người Việt. Mà điển huấn của người Việt lúc đó đã được hóa
thân vào trong điển huấn của Phật giáo.
Dù
chính quyền Chu Phù là một chính quyền Việt Nam độc lập và Phật giáo
như vậy, Mâu Tử vẫn không ra phò trì. Lý do bây giờ đã rõ. Đó là sự có
mặt của đám hương nhân của Chu Phù, một đám hương nhân chỉ biết đi sách
nhiễu và gây bất mãn trong dân chúng bằng sưu cao thuế nặng. Đám này vào
khoảng năm 195, để có tiền và lương cho việc chuẩn bị gởi quân đi Dự
Chương, hẳn đã đặt ra nhiều loại thuế, cụ thể là việc một con cá chép
lấy một hộc gạo, mà Tiết Tôn đã nói tới, là một thí dụ điển hình. Chính
những loại thuế như thế này đã gây phẫn nộ trong dân, cuối cùng dẫn tới
việc đánh đuổi không chỉ đám hương nhân này, mà cả Chu Phù nữa.
Điểm
lý thú là trong khi Chu Phù bị đánh đuổi. Sỹ Nhiếp với tư cách là thái
thú của quận Giao Chỉ vẫn tiếp tục công việc cai trị của mình, coi như
không có một sự biến gì xảy ra. Truyện Sỹ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 8b3-4
nói Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ "hơn bốn mươi năm", tức khoảng giữa
những năm 185-226. Trong hơn bốn mươi năm này, nó cũng nói tiếp "cương
trường vô sự", nghĩa là không có sự việc gì đáng kể đã xảy ra. Do thế,
việc đánh đuổi Chu Phù và đám hương nhân hẳn không phải là một biến cố
gì ghê gớm và chắc chắn có sự tham gia của Nhiếp. Bởi nếu Nhiếp không
tham gia, thì khi Chu Phù bị đánh đuổi, chính quyền của Nhiếp tất không
thể tồn tại.
Sự
tình này cho phép ta rút ra một kết luận khá lôi cuốn về các chính
quyền thứ sử và thái thú Trung Quốc ở nước ta, sau năm 43 khi Hai Bà
Trưng bị đánh bại và trước khi Chu Phù, Sỹ Nhiếp dựng nên một chính
quyền Việt Nam độc lập. Đó là sự tồn tại một hệ thống chính quyền hai
đầu, một đầu do các quan lại Trung Quốc bổ nhiệm sang, và một đầu do
chính các quan lại người Việt nắm giữ. Hệ thống chính quyền do các quan
lại người Việt nắm giữ đóng vai trò người đại diện và bảo vệ thực sự
quyền lợi của người Việt, còn hệ thống thứ sử và thái thú Trung Quốc chỉ
đóng vai trò tượng trưng cho quyền hành Trung Quốc. Và vai trò này
trong khoảng thời gian từ năm 43 đến năm 190, tức hơn 150 năm, các quan
lại Trung Quốc đã không thực hiện một cách nghiêm túc, như ta sẽ thấy
dưới đây, đến nỗi Tiết Tôn phải than là "trưởng lại đặt ra, tuy có cũng
như không".
Tới
đây, ta thấy khi mất mẹ vào khoảng năm 195 và cư tang với một thời gian
lâu (cửu chi) hẳn cho tới lúc Chu Phù bị đánh đuổi vào khoảng năm 197
và cũng là lúc Mâu Tử vừa cư tang mẹ xong, Mâu Tử đi đến một quyết định
là không bao giờ ra làm quan nữa. Quyết định này được đưa ra qua một
phân tích tỉ mỉ tình hình chính trị thời ông và một sự cân nhắc kỹ càng
về những mặt lợi hại. Mâu Tử viết: “Lâu (sau) đó rút lui nghĩ rằng ‘Vì
lý do thông giỏi, mà được giao sứ mạng, nay đời nhiễu nhương, chẳng phải
là lúc làm rõ mình’. Bèn than nói: ‘Lão Tử dứt thánh bỏ trí, sửa thân,
giữ chân, muôn vật không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi niềm vui của
ông, thiên tử không được bề tôi, chư hầu không được kết bạn, nên mới có
thể quý’. Do thế, ông dốc chí vào đạo Phật, gồm nghiền ngẫm Lão Tử năm
ngàn lời, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, chơi năm kinh làm đàn sáo. Bọn
thế tục phần nhiều cho không phải, cho ông quay lưng với năm kinh mà đi
theo đạo khác”.
Viết
như thế, phải chăng Mâu Tử muốn nói sau ba năm cư tang mẹ xong, nhân
lúc Chu Phù bị đánh đuổi phải chạy vào biển, Mâu Tử mới "đi theo đạo
khác", mới đi theo Phật giáo? Nghĩa là, phải chăng Mâu Tử đi theo Phật
giáo vào khoảng năm 197? Tất nhiên là không phải. Năm 197 đấy là thời
điểm ông "dốc chí vào đạo Phật" (nhuệ chí ư Phật đạo) chứ không phải bắt
đầu tin hiểu và đi theo Phật giáo, như chính ông đã xác nhận. Vậy, ông
bắt đầu theo Phật giáo từ bao giờ và tại sao ông đi theo Phật giáo? Đây
là những câu hỏi khó trả lời nhất, đặc biệt là trả lời một cách chính
xác và có cơ sở, do tình hình tư liệu hạn chế và thiếu thốn.
Tuy
nhiên, nếu phân tích những gì chính Mâu Tử ghi lại trong Lý hoặc luận,
ta có thể biết một phần nào câu trả lời cho những vấn nạn vừa nêu. Mở
đầu phần tự truyện, Mâu Tử nói: “Mâu Tử đã học kinh truyện, chư tử, sách
không kể lớn nhỏ, không gì là không ham. Tuy không thích binh pháp,
song vẫn đọc. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, ông dẹp mà không tin, cho
là dối trá”. Thế là khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã đọc kinh truyện,
chư tử cùng binh pháp và sách thần tiên bất tử. Vậy, Mâu Tử bắt đầu học
kinh truyện, chư tử từ bao giờ?
Điều
14, 25 và 31 xác nhận là Mâu Tử đã học kinh truyện, chư tử cũng như
binh pháp thần tiên, trước khi ông biết đến Phật giáo. Điều 14 Mâu Tử
viết: “Chúng ta tuổi trẻ học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, mà nay bỏ nó,
lại học thuật mọi rợ, không lầm lắm sao?” Chữ tuổi trẻ dùng ở đây để chỉ
dịch chữ nhược quán của Mâu Tử. "Nhược quán" là "mũ yếu". Theo Lễ ký
con trai 20 tuổi làm lễ đội mũ, và mũ đây là thuộc dạng "mũ yếu". Cho
nên, nói "nhược quán", học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, Mâu Tử hẳn lúc
đó đã 20 tuổi. Do đó, Mâu Tử viết thêm, sau câu vừa dẫn: “Đó là dư ngữ
của tôi lúc chưa hiểu đạo lớn”. Đạo lớn đây là Phật giáo. Vậy vào khoảng
20 tuổi Mâu Tử đã biết đến sự có mặt của Phật giáo, nhưng vẫn chưa chấp
nhận đi theo, thậm chí còn công kích là mọi rợ là đằng khác.
Từ
công kích, lại do thói ham đọc sách, "sách không kể lớn nhỏ, không sách
gì là không thích", Mâu Tử tiến sâu vào việc tìm hiểu và đọc sách vở
Phật giáo, mới phát hiện một sự thật. Đó là Phật giáo không phải là một
đạo mọi rợ, mà còn là một thuật làm cho con người "thấy rộng" (kiến
bác). Điều 25 Mâu Tử viết: “Thấy rộng có thuật không? Mâu Tử nói: Do
kinh Phật. Tôi khi chưa hiểu kinh Phật, lầm còn hơn ông nhiều. Tuy đọc
năm kinh, hợp lấy làm hoa mà chưa nên quả. Đến khi tôi đã xem học thuyết
của kinh Phật, ngắm yếu lý của Lão Tử, giữ tính điềm đạm, xét hạnh vô
vi, rồi về trông sự đời, như đến trời cao mà ngó xuống hang suối, lên
Tung Đại mà thấy gò đống vậy. Tôi từ nghe đạo đến nay, như vén mây thấy
mặt trời tỏ, cầm đuốc vào nhà tối vậy”.
Vậy
là từ một quan điểm cho Phật giáo là một "thuật của mọi rợ" (di địch
chi thuật), Mâu Tử đã tìm hiểu và cuối cùng thấy còn hơn cả đạo Nghiêu
Thuấn Châu Khổng của Hoa Hạ nhiều. Trong thời gian chưa đi theo Phật
giáo này, Mâu Tử, ngoài việc học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, còn tìm
nghiên cứu thuật tịch cốc trường sinh thần tiên. Điều 31 Mâu Tử viết:
“Khi tôi chưa hiểu đạo lớn, cũng thường học phép tịch cốc. Phép tịch cốc
kể ra ngàn trăm thuật, thực hành không có hiệu quả, làm không có chứng
nghiệm, nên tôi bỏ. Xem ba người thầy tôi theo học, hoặc tự xưng bảy
trăm, năm trăm, ba trăm tuổi. Nhưng tôi theo họ học, chưa đầy ba năm, ai
nấy đều chết hết. Sở dĩ như thế là do nhịn gạo không ăn, mà đi ăn trăm
quả. Nhậu thịt thì nhiều mâm, uống rượu thì nghiêng vò, tinh loạn thần
mờ, hơi gạo không đủ, tai mắt lầm lạc, dâm tà không kiêng. Tôi hỏi lý do
vì sao. Đáp rằng: ‘Lão Tử nói: Bớt đi lại bớt, cho đến vô vi. Trò nên
ngày bớt’. Nhưng tôi thấy thì ngày chỉ thêm, mà không bớt. Vì thế, ai
nấy đều không biết mệnh, mà đã chết”.
Rõ
ràng trước khi đến với Phật giáo, Mâu Tử đã không những học đạo "Nghiêu
Thuấn Châu Khổng" mà còn học cả thuật thần tiên của đạo giáo. Ông đọc
"Thần thơ" 170 quyển của Can Cát, như điều 29 đã ghi, và bỏ 3 năm thực
hành phép tịch cốc trường sinh bất tử. Như thế, nếu vào tuổi "nhược
quán", tức 20 tuổi, đã học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, và ba năm dành
cho phép tịch cốc và đọc "Thần thơ" 170 quyển, thì có khả năng Mâu Tử đã
theo Phật giáo khoảng lúc ông dưới 23 tuổi. Đây là thời điểm ông chính
thức theo Phật giáo, chứ không phải thời điểm ông biết Phật giáo, mà tới
thời ông đã phát triển mạnh và bắt đầu thâm nhập vào cung đình.
Truyện
Tương Giai của Hậu Hán thư 60 hạ tờ 14b8-19a4 chép lại lá sớ do Giai
gởi lên cho Hoàn đế vào năm Diên Hy thứ 9 (167) có đoạn viết: “Lại nghe
trong cung dựng miếu thờ Hoàng Lão Phù Đồ. Đạo đó thanh hư quí chuộng vô
vi, hiếu sinh ghét giết, bớt dục bỏ xa xỉ. Nay bệ hạ ham muốn không bỏ,
giết phạt quá lẽ, đã trái với đạo ấy, há nhận được phước ư? Lại nói Lão
Tử đi vào mọi rợ mà thành Phù Đồ. Phù Đồ không nghỉ ba đêm dưới cây
dâu, vì không muốn lâu sinh ra tình ân ái. Thiên thần đem gái đẹp gởi
đến, Phù Đồ nói: "Đó là túi da đầy máu". Bèn không thèm nhìn. Phù Đồ thủ
nhất như vậy, mới có thể thành đạo. Nay bệ hạ, gái dâm, bà đẹp, vượt
hết vẻ đẹp của thiên hạ, đồ ngon thức ngọt, chót hết mùi của thiên hạ,
thì làm sao mà muốn như Hoàng Lão ư?”
Điểm
lôi cuốn của lá sớ không chỉ nằm ở chỗ xác nhận tình trạng đang phát
triển mạnh mẽ của Phật giáo ở Trung Quốc, đang xâm nhập sâu vào đời sống
của cung đình của tầng lớp thượng lưu. Không chỉ thế, nó còn chứa đựng
hai câu trích từ kinh Tứ thập nhị chương, mà chính Mâu Tử có nêu đích
danh trong điều 21 Lý hoặc luận của ông. Đó là “Phù Đồ không nghỉ ba đêm
dưới cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra ân ái. Thiên thần đem gái đẹp
gởi đến, Phù Đồ nói: ‘Đó là túi dơ đầy máu’. Bèn không thèm nhìn”. Câu
về gái đẹp, ngay từ thời Lý Hiền (657-685) chú thích Hậu Hán thư, đã
biết là một trích dẫn từ kinh Tứ thập nhị chương , nên mới chua: “Kinh
Tứ thập nhị chương : Thiên thần dâng gái ngọc cho Phật, Phật bảo: Đó là
túi da đầy mọi thứ dơ”.
Nhắc
tới kinh Tứ thập nhị chương ở đây gợi cho ta một nhận định khá thú vị
về những kinh sách Phật giáo, mà Mâu Tử có thể tiếp xúc và tìm hiểu,
trước khi trở thành một người Phật giáo. Tất nhiên, để trở thành một
Phật tử, Mâu Tử phải tìm đọc nhằm biết Phật giáo là gì và tại sao có sự
tồn tại của nó. Thực tế, như đã thấy trên, điều 14 xác nhận là trong khi
theo học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, Mâu Tử đã biết đến Phật giáo.
Nhưng do quan điểm Khổng Mạnh hẹp hòi và kỳ thị về việc "lấy Hạ để biến
Di", chứ chưa bao giờ có việc "lấy Di biến Hạ", Mâu Tử đã cho Phật giáo
là một thứ "thuật di địch", nên không đáng học tập.
Như
vậy, trong giai đoạn đầu khi mới tiếp xúc với kinh sách Phật giáo, Mâu
Tử còn bị quan điểm di địch lạc hậu của Khổng Mạnh khống chế. Dần dà về
sau, do tính ham đọc sách, ông đã thoát ly khỏi sự khống chế của quan
điểm di địch sai lầm ấy và nhận chân được sự đứng đắn cao siêu của giáo
lý Phật giáo, vượt lên trên những quan điểm Khổng Mạnh mang tính dân tộc
hẹp hòi chủ quan. Quá trình vươn lên và vượt qua sự khống chế của Khổng
Mạnh này chỉ có thể xảy ra sau ba năm theo học phép tịch cốc trường
sinh của thuật thần tiên. Mà việc theo học thần tiên lúc đó đã trở thành
một phong trào đang rầm rộ phát triển hẳn dưới sự lèo lái của Đổng
Phụng với sự giúp đỡ ít nhiều để trả ơn của Sỹ Nhiếp do việc cứu sống
Nhiếp tại nước ta.
Điều
này có nghĩa, nếu Mâu Tử sinh vào khoảng năm 160, thì khoảng 178 đến
180 ông đã đem mẹ ông qua nước ta lánh nạn, để vào những năm trước sau
180 ông có dịp thấy được hào quang của đám thần tiên qua con người Đổng
Phụng lúc ấy đang sống ở Giao Châu. Từ đó, ông mới sẵn sàng dành ba năm
của tuổi thanh xuân mình cho việc theo đuổi thực hành phép tịch cốc.
Nhưng với cái chết của Phụng và “ba người thầy” của ông, Mâu Tử nhận ra
tính “yêu vọng” của cái “đạo bất tử”, giác ngộ được một sự thực là “con
người đều phải chết, không ai có thể tránh được” (điều 37), do Phật giáo
đem lại. Đây phải chăng là thời điểm Mâu Tử chính thức theo Phật giáo,
sau những năm tháng tiếp xúc và tìm hiểu. Đó là một có thể, đặc biệt nếu
những nhận định trên của chúng ta về các hoạt động của Đổng Phụng được
chấp nhận và nếu ta nhớ tới một biến cố Phật giáo có ý nghĩa lớn đang
xảy ra ở Trung Quốc, tức việc vua Hoàn Đế “trong cung dựng miếu thờ
Hoàng Lão Phù Đồ”, mà lá sớ viết năm Diên Hy thứ 9 (167) của Tương Giai
nói tới. Phật giáo bây giờ đang trên đường trở thành một tôn giáo nhà
nước qua sự tôn sùng công khai Phật giáo của người đứng đầu nhà nước ấy
là Hoàng đế nhà Hán. Việc tôn sùng này tất nhiên phải tác động đến các
hoạt động Phật giáo như dịch kinh, làm chùa, tổ chức lễ lược v.v... Cho
nên, nếu những năm 181-183 Mâu Tử trở thành một Phật tử ở nước ta, thì
không có gì đáng ngạc nhiên lắm.Thời gian sau khi theo Phật giáo này,
Mâu Tử chắc tiếp tục đọc các kinh sách Phật giáo, mà chính ông ghi nhận
là “quyển số kể tới vạn” (điều 5) trong đó “quyển lớn vạn lời trở xuống,
quyển nhỏ ngàn lời trở lên” (điều 1). Những “cuốn kinh nhỏ” này có thể
là kinh A ly niệm di, Sát vi vương, Kính diện vương v.v..., và cuốn lớn
có thể là Lục độ tập kinh, Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Tứ thập
nhị chương kinh v.v... Đặc biệt là cuốn Phật kinh chi yếu gồm 37 phẩm,
mà Mâu Tử có niềm tôn kính và mến yêu lạ thường, để sau này khi viết Lý
hoặc luận, ông đã lấy nó làm mẫu cùng với Đạo đức kinh của Lão Tử.
Từ
sau năm 185 đến khoảng 187, ông trở về Thương Ngô cưới vợ. Đây phải nói
là một “mối tình thế kỷ”, bởi vì chỉ với một mối tình như thế, nó mới
đủ sức mạnh thúc đẩy Mâu Tử vượt qua một khoảng không gian vời vợi từ
nước ta về Thương Ngô, mà 10 năm sau Hứa Tinh trong lá thư viết cho Tào
Tháo bảo là “hơn 5 nghìn dặm” và “đường thủy bộ không có, trạm ngựa cõi
Giao dứt tuyệt”, như Thục chí 8 tờ 2b3-5 đã ghi. Do thế, nếu Mâu Tử chỉ
lấy vợ để có con, thì đã không cần phải trở về Thương Ngô làm gì. Nước
ta thời ấy chắc không thiếu con gái cho Mâu Tử lấy. Việc về Thương Ngô
vì vậy cho phép ta giả thiết Mâu Tử đã quen và yêu cô gái Thương Ngô
trước khi đem mẹ đến nước ta. Và hẳn đã cùng cô hẹn ước thề nguyện.
Giả
thiết này đưa ta đến ba nhận định lôi cuốn sau. Thứ nhất, vì đã yêu
thương hẹn ước với một cô gái Thương Ngô, nên việc Mâu Tử đưa mẹ qua
nước ta không thể trước 18 tuổi được. Năm Mâu Tử đưa mẹ xuống Giao Chỉ
như thế có thể là năm 178. Thứ hai, vì năm 178 này Mâu Tử chỉ đưa một
mình mẹ xuống, điều ấy chứng tỏ cha Mâu Tử mất hay đã ly khai khỏi gia
đình Mâu Tử. Thứ ba, để có thể tiến hành cưới hỏi vợ mình ở Thương Ngô,
phía nhà Mâu Tử cũng như nhà người vợ tương lai phải tối thiểu là khá
giả về mặt kinh tế, nếu không nói là có tiếng tăm ở địa phương. Sự thật,
khi Mâu Tử mới về Thương Ngô, thái thú Thương Ngô nghe tiếng sức học
của Mâu Tử, đã đến thăm và mời Mâu Tử ra làm quan. Sự kiện này cho phép
giả thiết gia đình Mâu Tử và có thể gia đình bên vợ là những vọng tộc
của đất Thương Ngô, đến nỗi Mâu Tử chân ướt chân ráo từ Giao Chỉ tới đã
có sự quan tâm vừa thấy của thái thú.
Chính
tại Thương Ngô, sau khi từ chối ra làm quan, Mâu Tử được nhờ đi “trí
kỉnh” Kinh Châu. Người nhờ đây là thái thú Thương Ngô, chứ không thể là
thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp. Bởi vì thời gian này, tức khoảng năm 184 -
187 Giả Tôn và Đinh Cung đang làm thứ sử nước ta và Sỹ Nhiếp đang làm
thái thú Giao Chỉ, thì bản thân Sĩ Nhiếp chưa có yêu cầu khách quan gì
để đi “trí kỉnh” Kinh Châu cả. Trong khi đó, thái thú Thương Ngô lại có
một yêu cầu như thế, bởi vì Thương Ngô tiếp giáp với đất của Kinh Châu
là quận Quế Dương. Cho nên, để giữ cho quan hệ trị an giữa hai địa
phương được tốt đẹp, thái thú Thương Ngô rõ ràng có một yêu cầu khách
quan để đi “trí kỉnh” Kinh Châu.
Tất
nhiên Mâu Tử lên Thương Ngô để cưới vợ. Vì thế, khi thái thú Thương Ngô
nhờ ông đi “trí kỉnh” Kinh Châu và ông đã nhận lời, thì điều này không
có nghĩa ông phải ra đi “trí kỉnh” từ Thương Ngô. Trái lại, ông phải đem
vợ mình về Giao Chỉ để ra mắt mẹ và bà con ở Giao Chỉ. Chính trong khi
đem vợ về Giao Chỉ ở với mẹ mình, và chuẩn bị lên Thương Ngô lại để thực
hiện việc đi “trí kỉnh” Kinh Châu, Mâu Tử đã gặp Chu Phù khoảng những
năm 187-189. Một lần nữa, Mâu Tử lại được Chu Phù mời ra làm quan. Vì từ
chối không làm quan với Chu Phù, lẽ dĩ nhiên Mâu Tử không thể thực hiện
việc đi “trí kỉnh” Kinh Châu được.
Dù
không làm quan với Chu Phù, quan hệ giữa Phù và Mâu Tử vẫn thắm thiết
và diễn ra trong một thời gian dài. Chữ mà Mâu Tử dùng để mô tả mối quan
hệ này là “bị mạt phục lịch, kiến ngộ nhật cửu”. Thế đã rõ, tuy không
đáp lại lời mời làm quan, Mâu Tử vẫn có những ơn nghĩa với Phù. Trong
những ơn nghĩa qua lại này nếu Mâu Tử “bị mạt phục lịch”, thì hẳn Phù
cũng nhận được những sự giúp đỡ khác của Mâu Tử, trong đó có cả việc
giúp Phù “vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia” và
“đọc tà tục đạo thư”. Nói cách khác, Mâu Tử đã lôi kéo Phù vào các sinh
hoạt Phật giáo nước ta, tham gia các buổi thuyết giảng lễ lược v.v...
Thông qua đó thực hiện chức năng “trợ hóa” sẵn có của Phật giáo, mà Tôn
Sách bảo là chủ trương của Chu Phù đưa Chu Phù đi theo một lối sống
mới.
Không
chỉ Chu Phù “vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia” để chấp
nhận lối sống mới, mà Sĩ Nhiếp cũng thế. Truyện Sĩ nhiếp của Ngô chí 4
tờ 7a1-8b5 nói “Sỹ Nhiếp tự Uy Ngạn, người Quảng Tín, Thương Ngô. Tổ
tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu,
tới Nhiếp là sáu đời. Cha là Tứ, thời Hoàn đế (147-167) làm thái thú
Nhật Nam. Nhiếp nhỏ du học ở kinh đô, thờ Lưu Tử Kỳ đất Dĩnh Xuyên, trị
Tả thị Xuân thu xét hiếu liêm, bổ thượng thư lang công sự, từ quan vì
tang cha là Tứ. Sau đó cử mậu tài, bổ Vu Lịnh, đổi làm thái thú Giao
Chỉ...”
Bản
thân Sĩ Nhiếp như thế ngay từ nhỏ đã du học tại Lạc Dương được đào
luyện trong nền giáo dục Trung Quốc tiêu chuẩn, chuyên giỏi về Tả thị
Xuân thu. Viên Huy viết thư cho Tuân Úc, dẫn trong truyện Sỹ Nhiếp của
Ngô chí 4 tờ 7b1-7 nói: “Sĩ phủ quân của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại
thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20
năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều
được nhờ ân. Tuy Đậu Dung giữ Hà Tây, há hơn được ư?
Việc
quan chút rảnh, liền xem luyện thơ truyện. Xuân thu Tả thị truyện, lại
càng luyện lựa tinh vi. Tôi nhiều lần đem những chỗ nghi trong Tả truyện
ra hỏi, đều được trả lời có cơ sở, ý tứ rất chắc chắn. Còn Thượng thơ,
ông gồm thông cổ và kim văn, ở Kinh đô cãi nhau phải trái kịch liệt, nay
ông muốn liệt kê trường nghĩa của Tả thị và Thượng thư để dâng lên...”
Thế
nhưng, Sĩ Nhiếp với anh em mình có một lối sống khá xa lạ với tập tục
truyền thống Trung Quốc mà cũng truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7b7-10
đã ghi lại như sau: “Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng
một châu, riêng ở vạn lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh,
đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát xe
đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ.
Đương thời quí trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn”.
Trước
đây, việc có “người Hồ đi sát xe đốt hương” vừa thấy, Hồ Thích
nghĩ[43][43] những người Hồ của Giao Chỉ phải chăng là thương nhân Ấn
Độ, Ba Tư..., tức đó là “những Sa-môn cạo tóc đầu, mặc áo đỏ, ưa thích
rượu ngon hoặc nuôi dưỡng vợ con, mua rẻ bán đắt, chuyên làm dối trá mà
Mâu Tử từng thấy”. Sau đó, Fukui[44][44] thử so sánh với cách thức đi ra
ngoài của vua chúa Nhật Nam, mà Di mạch truyện thượng của Nam sử 78 đã
ghi: “Vua có mặc áo pháp, có thêm anh lạc, như phục sức của tượng Phật,
đi ra thì cưỡi voi, thổi la, đánh trống, che bằng lọng vỏ sò, lấy vỏ sò
làm cờ quan”. Fukui thấy phảng phất một số nét giống việc đi ra của Sỹ
Nhiếp với vua Nhật Nam, và khác với phong tục của vua chúa Trung Quốc.
Tuy
nhiên, còn vấn đề “người Hồ đi sát xe, đốt hương” thì thế nào? Để trả
lời, Fukui tiến xa thêm một bước so sánh lễ “hành tượng” do Pháp Hiển
ghi lại trong Phật quốc ký: “Pháp Hiển mong muốn xem hành tượng, dừng
lại vào ngày tháng 3... Từ ngày mồng một tháng tư trong thành quét tưới
đường sá, trang hoàng các đường xóm... Vua rất kính trọng nên trước hết
để hành tượng thì cách thành ba bốn dặm, làm một chiếc xe bốn bánh, cao
hơn ba trượng, hình thù giống như hành điện, trang hoàng bảy báu, treo
phan lọng có dệt hình, để tượng đứng trong xe, hai bồ tát đứng hầu, làm
hình chư thiên theo hầu... Tượng cách cửa thành một trăm bộ, vua cất
vương miện, thay mặc áo mới, đi chân không, cầm hoa hương, có người theo
sau, ra thành đón tượng, đầu mặt lạy xuống, rải hoa, đốt hương. Tượng
vào thành rồi, trên lầu cửa thành, phu nhân thể nữ vung rải các thứ hoa,
lững lờ bay xuống... Mỗi chùa hành tượng một ngày, bắt đầu từ ngày mồng
một đầu tháng, đến ngày 14 thì hành tượng mới xong”.
Đây
là lễ hành tượng Pháp Hiển thấy ở Vu Chân. Còn ở thành Ba-liên-phất
(Pataliputra) của Ấn Độ, Phật quốc ký tờ 862b ghi: “Hàng năm thường vào
ngày mồng 8 tháng 2 thì hành tượng. Làm xe bốn bánh... hình nó giống như
một chiếc tháp... đều có Phật ngồi, Bồ tát đứng hầu. Có thể có đến 20
xe... Vào ngày đó, đạo tục trong nước đều tập hợp lại ca hát nhảy múa,
cúng dường hương hoa”.
Gần
ba thế kỷ sau, Nghĩa Tịnh trong Nam hải ký qui nội pháp truyện 1 tờ
210c dưới điều thọ trai phó thỉnh đã mô tả những lễ ấy với tình tiết
sau: “Mười châu biên nam cúng trai tăng càng thêm nồng hậu... Ngày thứ
nhất... thau vàng đầy nước, phải trước làm sạch đất, để mời chúng Tăng.
Ngày thứ hai, sau khi qua ngọ, thì đánh nhạc trống, bày hương hoa, thỉnh
tượng Phật quí lên xe kiệu về, cờ phan rạng trời, đạo tục họp lại dẫn
đến gia đình, trưng bày màn lọng, tượng quí vàng đồng, trang hoàng rực
rỡ... đến ngày thứ ba... các Tăng tắm rửa xong, dẫn đến nhà trai tăng...
hương hoa trống nhạc gấp bội sáng qua... Ở hai bên tượng, mỗi bên có
đồng nữ nghiêm trang đứng... Đó là cách thức nhận trai tăng ở một chỗ
của mười châu biên nam”.
Còn
về lễ Tự tứ, Nam hải ký qui nội pháp truyện 1 tờ 217c viết: “Vào giờ đó
tục sĩ họp lại, đạo đồ vân tập, đốt đèn sáng tiếp, cúng dường hương
hoa. Sáng hôm sau, tất cả cùng đi ra, nhiễu quanh phố xóm, rước tượng
bằng xe, đánh nhạc dậy trời, phan lọng rợp đất, phất phới che cả ánh mặt
trời, gọi là tam-ma-cận-ly (samagrì), dịch là hòa tập. Hễ những ngày lễ
lớn thảy đều làm thế, tức đó là phép hành thành của Thần châu”.
Dĩ
nhiên, sử dụng tư liệu cách một sự việc hằng trăm năm để giải thích về
sự việc đó tất không thể đạt được độ chính xác đáng muốn. Dẫu vậy, nó
cho thấy việc Sỹ Nhiếp ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, đèn sáo
cổ xúy, xe ngựa đầy đường, người Hồ theo sát xe đốt hương thường có mấy
mươi, thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ có những quan hệ với các
lễ nghi Phật giáo, đặc biệt khi có “người Hồ theo sát xe đốt hương
thường có mấy mươi”. Đấy có thể là một lễ rước Phật (hành tượng) theo
kiểu Pháp Hiển đã thấy, mà cũng có thể là lễ Tự tứ hay đi trai tăng do
Nghĩa Tịnh ghi lại.
Dù
với trường hợp nào đi nữa, điểm đáng nói với chúng ta là Sĩ Nhiếp dẫu
được đào luyện trong khuôn mẫu văn hóa Trung Quốc, đã có những hành xử
và lối sống xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Ông do thế cùng với
Chu Phù, đã ít nhiều “vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của
Hán gia”. Nói rõ ra, ông đã được Phật giáo hóa và Việt hóa. Như vậy, vào
giữa những năm 180-190 ở nước ta, cụ thể là ở Giao Chỉ đã hình thành
hoàn tất một nền văn hóa mới, nền văn hóa Phật giáo Việt Nam, kết hợp
thành công nền văn hóa Lạc Việt với nền văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ đưa
vào. Đủ sức không những đánh trả lại bằng những đòn sấm sét, những đợt
tấn công của nền văn hóa Trung Quốc đang dồn dập dội vào nước ta qua
những tay như Lưu Hy, mà còn lôi cuốn và đồng hóa một bộ phận lớn người
Trung Quốc đang sống và làm việc tại nước ta, mà cụ thể là Chu Phù.
Việc
Chu Phù “vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia”, rồi
“mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục” rõ ràng
khẳng định quá trình đồng hóa đã thành công mỹ mãn. Và làm việc đó, Chu
Phù không nghĩ là để thỏa mãn những nhu cầu tôn giáo trí thức cá nhân,
mà thực tế là để nhằm “trợ hóa”. “Trợ hóa” đây thực chất là để “giúp đỡ
cho nền cai trị”. Mà nền cai trị này không còn dựa vào “điển huấn của
tiền thánh”, “pháp luật của Hán gia” nữa, trái lại đã dựa vào những điển
huấn mới, pháp luật mới. Đó là điển huấn và pháp luật của nền văn hóa
mới vừa Việt Nam đồng thời vừa Phật giáo.
Cũng
chính vì xuất pháp từ nền điển huấn và pháp luật mới này, Sĩ Nhiếp mới
có các cuộc “rước tượng” “hành thành” khá xa lạ với phong tục Trung
Quốc, có cả “người Hồ đi sát xe đốt hương”. Và uy tín của Nhiếp đủ để
“chấn phục trăm mọi”, đến nỗi “Úy Đà không đủ để vượt qua” Nhiếp. Việc
Ngô chí so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời
bấy giờ đã độc lập tới mức nào. Thực tế, có thể nói chính quyền độc lập
đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền của Chu Phù Sĩ
Nhiếp trong khoảng những năm 187-197 và trở về sau, khi Phù chết và
Trương Tân đến thay. Ngay vào thời này, không chỉ nước ta, mà các địa
phương khác của Trung Quốc cũng rơi vào tình trạng cát cứ, như Trần Thọ
(233-297) trong Ích châu kỳ cựu truyện dẫn trong Thục chí 8 tờ 3b12-13
đã nhận xét: “Lúc ấy, đường vua cách tuyệt, mục bá các châu giống như
chư hầu bảy nước”.
Sự
thực, ngay tới năm 195, khi đến nước ta, Hứa Tỉnh phải thừa nhận: “Tỉnh
bèn với Viên Bái, Đặng Tử Hiếu v.v... vượt biển xanh về nam đến Giao
Châu, trải qua nước Đông Âu, Mân Việt, đi qua muôn dặm, không thấy đất
Hán, phiêu bạt sóng gió, hết lương ăn cỏ, đói kém tràn lan, chết hơn
phân nửa”. Hứa Tỉnh qua muôn dặm, “không thấy đất Hán”. Điều này phải
chăng muốn nói Tỉnh không thấy chính quyền Hán tồn tại ở những vùng đất
ấy. Hay muốn nói nơi những vùng đất ấy nền văn hóa người Hán vắng bóng?
Có thể cả hai trường hợp đều đúng.
Đối
với nước ta, khi một người đại diện cho chính quyền nhà Hán như Chu Phù
đã “vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán gia”, lại đi
“mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách tà tục, bảo để trợ
hóa”, thì dứt khoát chính quyền ấy do Chu Phù đứng đầu không còn là
chính quyền của nhà Hán nữa. Làm sao có thể bảo đó là chính quyền của
nhà Hán, khi người đứng đầu nó lại “vứt bỏ pháp luật nhà Hán”? Chính
quyền ấy phải nói là một chính quyền Việt Nam độc lập dựa trên những
điển huấn và pháp luật mới, dựa trên một nền tảng lý luận chính trị mới
phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng người dân thời bấy giờ.
Có
thể vì muốn xây dựng một chính quyền kiểu mới ấy, Chu Phù ngay từ đầu
muốn mời Mâu Tử ra làm quan với mình, như tự truyện của Mâu Tử trong Lý
hoặc luận đã ghi. Nhưng Mâu Tử đã từ chối. Lý do là đau yếu. Sự thực,
khi được nhờ đi Linh Lăng vì vụ Chu Hạo, Mâu Tử lại nhận lời. Như thế,
đau yếu chỉ là một cái cớ để từ chối. Còn lý do thật phải nói là Mâu Tử
xưa đã chứng kiến cách dùng người của Chu Phù, mà sau đó không lâu Tiết
Tôn đã nhận xét là “phần lớn dùng người cùng làng (hương nhân) là bọn
Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xâm ngược bá tánh, ép thuế lên
dân. Cá vàng một con, thâu thuế gạo một hộc”, như đã nói trên.
Thấy
cảnh dùng người này, Mâu Tử tất nhiên không thể đồng tình, lại càng
không thể tham gia vào bộ máy chính quyền do Chu Phù dựng nên với những
con người như bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn. Tuy vậy Mâu Tử sẵn sàng giúp Chu
Phù trong các công tác có chính nghĩa, như việc Chu Hạo bị giết. Điều
này chứng tỏ Mâu Tử vẫn có cảm tình đặc biệt với Chu Phù. Và cơ sở cho
mối cảm tình đấy hẳn là nỗ lực “vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp
luật của Hán gia”, sống và suy nghĩ theo lối sống và suy nghĩ mới của
đất Giao Châu, mà Mâu Tử khởi xướng và tha thiết bảo vệ.
Rốt
cuộc, việc đi Linh Lăng, Quế Dương vẫn không thành, vì gặp lúc mẹ Mâu
Tử mất. Và sau đó không lâu trong năm 197, Chu Phù bị giết. Sau tang mẹ
và cái chết của Chu Phù, “Mâu Tử càng dốc chí vào đạo Phật” và dứt khoát
với tư tưởng ra làm quan, vì “nay đời nhiễu nhương, chẳng phải thời
hiển kỷ”. Trong khi ông làm thế, “bọn thế tục” cho ông bỏ năm kinh, mà
theo đạo khác. Để trả lời cho họ, ông đã viết Lý hoặc luận.
Kết thúc Lý hoặc luận, người đối thoại Mâu Tử đã thú nhận:
Bỉ nhân lòa mù
Sinh nơi tăm tối
Dám thốt lời ngu
Không lo họa phúc
Nay được nghe dạy
Chợt như tuyết sạch
Xin được đổi tình
Rửa lòng tự nhắc.
và đặc biệt xin:
Nguyện nhận năm giới
Làm Ưu-bà-tắc.
Thế
phải chăng khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã xuất gia, để cho người đối
thoại mình “xin nhận năm giới, làm Ưu bà tắc?” Đây là câu hỏi khó trả
lời nhất. Có thể Mâu Tử xuất gia. Nếu vậy, việc ông quyết định không ra
làm quan và “dốc chí vào đạo Phật” chắc là một cách nói bóng bẩy để diễn
tả sự kiện ông xuất gia. Để trả lời, ta không thể khẳng định, nhưng vẫn
có thể giả thiết. Dẫu sao, ông cũng vẫn phải cư tang mẹ xong, rồi sau
đó mới viết Lý hoặc luận[45][45].
Vậy,
Lý hoặc luận được viết sau khi mẹ Mâu Tử mất vào năm 195, có thể vào
năm 198 lúc thời gian cư tang xong. Bấy giờ, Mâu Tử khoảng 37, 38 tuổi.
Ông sinh vào khoảng những năm 160-164. Có thể tại Quãng Tín, thủ phủ của
quận Thương Ngô lúc bấy giờ, trong một gia đình khá giả, nếu không là
vọng tộc của vùng đất ấy. Cho nên, thuở nhỏ ông nhận được một nền giáo
dục chính quy, theo học thi, thơ, lễ, nhạc ở Thương Ngô cho đến khoảng
năm 20 (nhược quán) tuổi. Trong thời gian này, ông có ít nhiều tiếp xúc
với Phật giáo. Nhưng do quan điểm “dĩ Hạ biến Di” của Khổng Mạnh, ông
cho Phật giáo là một thứ “thuật mọi rợ” (di địch chi thuật). Đến khoảng
năm 178 có lẽ sau khi cư tang cha xong, do tình hình Thương Ngô quá loạn
lạc, như sẽ thấy, Mâu Tử đem mẹ xuống tị nạn tại nước ta. Bấy giờ Đổng
Phụng đang hoạt động mạnh ở Giao Chỉ và gây nên một phong trào thần tiên
rầm rộ.
Mâu
Tử hưởng ứng phong trào này. Sau ba năm theo học, ông nhận ra tính “yêu
vọng” của đạo thần tiên bất tử và chính thức trở về với Phật giáo vào
khoảng năm 183. Đến giữa những năm 185-186, ông trở về Thương Ngô cưới
vợ. Người vợ này, nếu gia đình hai bên không đính ước với nhau trước,
thì hẳn đã được Mâu Tử quen biết và thề nguyền từ lúc ở Thương Ngô. Chỉ
một nhận định như thế mới giúp ta hiểu tại sao Mâu Tử đã phải vượt vạn
dặm đường nguy hiểm để về Thương Ngô cưới vợ. Từ nhận định này ta mới
hiểu thêm tại sao Mâu Tử đem mẹ qua nước ta khoảng năm ông 18 tuổi, lứa
tuổi của tình yêu trong sáng và lý tưởng đang phát triển mạnh mẽ.
Gia
đình Mâu Tử và có thể gia đình vợ Mâu Tử, nếu không là vọng tộc, thì
hẳn là những gia đình khá giả đất Thương Ngô. Cho nên, khi mới chân ướt
chân ráo về đến quê cũ, có thể là Quảng Tín, thái thú Thương Ngô là Sử
Hoàng, nghe tiếng học vấn của ông đã đến thăm, muốn bổ làm quan, nhưng
Mâu Tử từ chối. Sau đó, Sử Hoàng nhờ đi Kinh Châu “trí kỉnh”, Mâu Tử
nhận lời. Bèn đem vợ về nước ta khoảng năm 187 và chuẩn bị ra đi, thì
gặp Chu Phù mời ra làm quan. Ông lại từ chối. Đến năm 194 Chu Hạo bị
Trức Dung giết ở Dự Chương, Chu Phù đến nhờ Mâu Tử đi mượn đường. Một
lần nữa, Mâu Tử nhận lời, nhưng lại gặp tang mẹ mất đột ngột khoảng năm
195. Từ đó ông dốc chí vào đạo Phật, viết Lý hoặc luận để trả lời cho
“bọn thế tục cho ông bỏ năm kinh mà theo đạo khác” vào khoảng năm 198,
sau thời gian cư tang xong. Sau năm 198 này, có lẽ Mâu Tử tiếp tục việc
nghiên cứu Phật giáo của mình và đóng góp vào việc xây dựng một nền giáo
dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam tạo cơ sở đào luyện những con người
sau này làm rạng rỡ cho lý tưởng, mà suốt cuộc đời Mâu Tử ôm ấp, như
Khương Tăng Hội, Đạo Hinh v.v... Ông mất khoảng những năm 220-230. Và
Khương Tăng Hội có thể đọc, nếu không là học với ông, qua Lý hoặc luận,
mà dấu vết ảnh hưởng còn lộ rõ trong văn chương và tư tưởng của Hội sau
này.
Thế
Mâu Tử tên gì? Bản mục lục xưa nhất ghi lại Lý hoặc luận là Pháp luận
của Lục Trừng trong Xuất Tam tạng ký tập 12 ĐTK 2145 tờ 82c29 và 85a13
chỉ chép tên Mâu Tử, rồi chua thêm: “Một chỗ khác nói: thái thú Thương
Ngô Mâu Tử Bác truyện”. Đến Tăng Hựu soạn Hoằng Minh tập 1 ĐTK 2102 tờ
1a28-29 cũng chỉ ghi: “Mâu Tử Lý hoặc luận, một chỗ nói thái thú Thương
Ngô Mâu Tử Bác truyện”. Qua đầu thế kỷ thứ VI, Lưu Hiếu Tiêu chú Thế
thuyết tân ngữ, Dữu Trọng Dung viết Tử sao và Đỗ Đài Khanh soạn Ngọc
chúc bảo điển cũng chỉ dẫn tên Mâu Tử.
Tới
nửa đầu thế kỷ thứ VII, khi viết Biện chính luận 4 ĐTK 2110, Pháp Lâm
dẫn trực tiếp tên Mâu Dung: “Mâu Dung nói Hán Minh đế mơ thấy người
vàng”, trong khi Phá tà luận quyển thượng ĐTK 2109 tờ 478c7 chỉ viết:
“Tử thơ Mâu Tử 2 quyển, thạnh luận Phật Pháp”. Pháp Lâm mất năm 640. Năm
sau Trinh Quán thứ 15 (641), Kinh tịch chí của Tùy thư dưới mục Tử bộ
nho gia lại ghi: “Mâu Tử 2 quyển, Hậu Hán thái úy Mâu Dung soạn”. Ghi
chú này của Tùy thư đến thế kỷ XVI đã trở thành khởi điểm cho những bàn
luận của Hồ Nguyên Thụy trong Thiếu thất sơn phòng bút tòng 32, dẫn tới
các thuyết có “hai Mâu Dung”, “Ngụy tác thời Đông Tấn Lưu Tống” v.v...
như ta đã thấy.
Tuy
nhiên Phá tà luận nói tới Tử thơ Mâu Tử 2 quyển và Biện chính luận lại
dẫn Mâu Dung. Cho nên, Tùy thư ghi “Mâu Tử 2 quyển, Hậu Hán thái úy Mâu
Dung soạn”, thực tế không phải là không chỉ Mâu Tử và Mâu Dung của Pháp
Lâm. Điểm gây hoang mang của Tùy thư là việc nó ghi chức thái úy của Mâu
Dung. Hậu Hán thư 56 tờ 15a5b7 có truyện của Mâu Dung, nói Dung làm tới
chức thái úy dưới thời Hán Minh đế và mất năm 79. Thái úy Mâu Dung này
như vậy chắc chắn không thể viết Lý hoặc luận được. Nhận định của Hồ
Nguyên Thụy về điểm này do thế là hoàn toàn xác đáng.
Từ
đó, phải có một Mâu Dung viết Lý hoặc luận như Biện chính luận đã ghi,
và sau này Đạo Tuyên trong Quảng Hoằng Minh tập 5 ĐTK 2103 tờ 118b25
dưới mục Biện hoặc mục lục đã lặp lại “Mâu Dung biện hoặc”. Lục Trừng
viết Pháp luận, dưới mục Mâu Tử, đã chua thêm: “Một chỗ khác nói thái
thú Thương Ngô Mâu Tử Bác truyện”. Lời chua này sau đó Tăng Hựu đã chép
lại trong Hoằng Minh tập. Vậy, trước thời Pháp Lâm và Tùy thư đã lưu
hành một truyền thuyết về chức vụ thái thú của Mâu Tử. Và Tùy thư ghi
“Hậu Hán thái úy Mâu Dung soạn”, đúng ra phải ghi “Hậu Hán thái thú Mâu
Dung soạn”. Việc chép lộn thái thú thành thái úy đã gây nên hoang mang
và bàn cãi của Hồ Nguyên Thụy. Thực chất không có một tác phẩm Mâu Tử do
thái úy Mâu Dung viết. Ngược lại có Mâu Tử do thái thú Mâu Dung viết.
Song
nếu nói Mâu Dung làm thái thú, phần tự truyện Lý hoặc luận lại bảo Mâu
Tử không bao giờ làm quan, càng không bao giờ làm thái thú Thương Ngô.
Mâu Tử có về Thương Ngô cưới vợ, quả có được thái thú Thương Ngô mời ra
làm quan, nhưng đã từ chối. Dĩ nhiên, văn cú của Lý hoặc luận hiện còn
đã bị Tăng Hựu cho sao soạn lại, nên đã bị tước bỏ một phần nào, như
phần nghiên cứu về tình trạng văn bản của nó dưới đây sẽ cho thấy. Sự
tước bỏ đó không chỉ xảy ra trong phần nội dung, mà ngay cả trong phần
tự truyện. Cụ thể là Hoằng quyết ngoại điển sao 5 dẫn lại Tử sao của Dữu
Trọng Dung về tự truyện của Mâu Tử, tới câu “tu thân giữ chân”, nó có
thêm hai câu “thần đạm bạc vi đức, quách nhiên tĩnh tư”, trước khi tiếp
câu “vạn vật không ngăn chí ông”.
Giả
như phần tự truyện có đầy đủ đi nữa và vẫn không có gì hết về chức thái
thú Thương Ngô của Mâu Tử, thì truyền thuyết về chức ấy của Mâu Tử vẫn
có thể hiểu được. Ngay vào thời Mâu Tử, Lưu Hy, cứ theo những nghiên cứu
của Diệp Đức Huy dẫn trước, lại có chức thái thú An Nam, mà về mặt
chính sử khong bao giờ thấy có ghi. Tất nhiên, Hán Ngụy bác sỹ khảo của
Vương Quốc Duy [46][46]đã vạch ra là vào thời Hán Ngụy, nếu ai được
trưng làm bác sỹ, thì khi bổ nhiệm ra ngoài, thường làm thú tướng các
quận quốc hoặc làm thái phó cho các vua chư hầu, rồi sau đó đổi làm thứ
sử hay châu mục. Lưu Hy trong khoảng Trung Bình được trưng làm bác sỹ,
do thế được truyền tụng làm thái thú An Nam là một điều có thể thông
cảm. Vì vậy, dù không có ghi nhận nào về việc Mâu Tử được trưng làm bác
sỹ, nhưng với sở học của ông, mà cả thái thú Thương Ngô lẫn thứ sử Chu
Phù đều cảm phục, thì việc đồn đãi về chức thái thú Thương Ngô, là một
chuyện bình thường. Cũng có thể, dù Mâu Tử không nhận, Chu Phù đã đề
nghị Mâu Tử làm thái thú Thương Ngô khi nổ ra việc khởi nghĩa của những
người Việt ở Thương Ngô “lật nhào châu phủ” vào năm 195, mà lá thư Hứa
Tỉnh viết cho Tào Tháo dẫn trên đã nói tới.
Dẫu
với trường hợp nào đi nữa, bây giờ ta biết Mâu Tử tên Dung. Đạo Tuyên
viết Quảng Hoằng Minh tập 5, dưới mục Biện hoặc thiên mục lục, đã ghi:
“Mâu Dung biện hoặc”. Đến Kinh khê đại sư Trạm Nhiên trong Chỉ quán phụ
hành truyền hoằng quyết 5/1 ĐTK 1912 tờ 279a14-16 nói: “Sau khi Linh đế
nhà Hậu Hán băng hà, vào thời Hiến đế có Mâu Tử, thâm tín đạo Phật, chê
bai Trang Lão, viết luận 3 quyển 37 thiên”. Kinh tịch chí của Cựu Đường
thư và Nghệ văn chí của Tân Đường thư đều xếp vào mục đạo gia, cả hai
đều không ghi ai soạn. Lời chua của Tùy thư đã bị tước bỏ, có lẽ do các
tác giả hai bộ sử ấy thấy được sự bất ổn của hai chữ “thái úy”, nên mặc
nhiên không ghi. Tới Chí Ban viết Phật tổ thống kỷ 35 ĐTK 2035 lại chép
“Thương Ngô nho sanh Mâu Tử”, mà không nói tên gì. Chỉ Hoằng quyết ngoại
điển sao thấy ghi tên Mâu Quảng. Fukui[47][47] gợi ý đó có thể là một
“viết lộn” (tả ngộ) của Mâu Dung, dù nó rất thích hợp với tự của Dung là
Tử Bác.
Danh
xưng Mâu Tử Bác, như đã thấy, xuất hiện khá sớm trong Pháp luận của Lục
Trừng và Hoằng Minh tập của Tăng Hựu. Nếu Mâu Tử có tên là Dung, như
Pháp Lâm, Đạo Tuyên và Tùy thư đã ghi, thì Tử Bác trong Mâu Tử Bác là tự
của Mâu Tử. Việc sử dụng tên chữ để viết thư cho nhau, thậm chí ghi vào
sử sách là khá phổ biến vào thời Hậu Hán. Ta có trường hợp Viên Huy
viết thư cho Tuân Úc, gọi Hứa Tỉnh là Hứa Văn Hưu. Hoặc truyện Sĩ Nhiếp
ghi Nhiếp đã học với Lưu Tử Kỳ là tự của Lưu Đào.
Cuối
cùng cần nói đôi lời về tên gọi Lý hoặc luận. Tên chính thức hiện nay
trong bản in Đại chính tân tu Đại tạng kinh của Hoằng Minh tập là Mâu Tử
lý hoặc. Đây cũng là tên Mâu Tử ghi lại trong phần tự truyện. Tuy
nhiên, Pháp luận của Lục Trừng chỉ ghi tên Mâu Tử, rồi chua thêm “Một
chỗ nói Thương Ngô thái thú Mâu Tử Bác truyện”. Lời chua này, hiện nay
bản Hoằng Minh tập cũng có. Vậy, ngoài tên Mâu Tử, Mâu Tử lý hoặc cũng
có tên Thương Ngô thái thú Mâu Tử Bác truyện. Tên này, Dư Gia Tích trong
Mâu Tử Lý hoặc luận kiểm thảo dẫn trước đã ghi thêm một cách đứng đắn,
đó là một tên gọi khác của Mâu Tử, rồi dẫn lời chú thích của Lưu Hiếu
Tiêu trong Thế thuyết tân ngữ về Mâu Tử truyện ký và Mâu truyện để làm
chứng. Đến Quảng Hoằng Minh tập 5, Đạo Tuyên gọi Mâu Dung biện hoặc. Tử
sao mục lục do Cao Tợ Tôn ghi lại mục lục Tử sao của Dữu Trọng Dung lại
ghi Mâu Tử luận. Tới Đức Khuê viết Tử Bắc sơn lục tùy hàm có tên Mâu Tử
trị hoặc luận. Một lần nữa Dư Gia Tích cho đó mới đúng là tên nguyên
thủy của Mâu Tử, vì chữ “trị” đến đời Đường Cao Tôn, để tránh húy của Lý
Trị, đã bị đổi thành “lý”. Tới đời Tống, người ta “hồi cải” “lý” thành
“trị”, nhưng không hồi cải hết nên bây giờ vẫn còn chữ “ly”ù của Lý hoặc
luận và một số điều như 26, 37 v.v...
Vậy,
Mâu Tử có tên Dung, tự Tử Bác, người gốc Thương Ngô, sinh khoảng năm
160, viết Lý hoặc luận khoảng năm 198 và mất vào những năm 230.