PHẦN II. KHƯƠNG TĂNG HỘI - A. LỜI DẪN
Nếu
lịch sử văn học và văn hóa thành văn thời Hùng Vương còn để lại cho đến
nay qua một bài "Việt ca" duy nhất đang bàn cãi[60][60] thì lịch sử văn
học và văn hóa Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng và trước Lý Nam Đế có
thể được nghiên cứu qua một loạt những tác gia lớn như Mâu Tử Bác,
Khương Tăng Hội, Đạo Thanh (còn gọi là Đạo Hinh), Đạo Cao, Pháp Minh và
Lý Miễu, trong đó người để lại nhiều dịch phẩm và tác phẩm nhất là
Khương Tăng Hội.
Khương
Tăng Hội sinh ra, lớn lên và bắt đầu biên soạn một số tác phẩm của mình
tại nước ta trong một giai đoạn khi dân tộc ta lần đầu tiên xây dựng
xong một nhà nước thực chất độc lập và tồn tại trong một thời gian dài
nửa thế kỷ, tức là từ năm 180 đến 228 sdl. Nhà nước này được hình thành
qua một quá trình đấu tranh gian khổ khốc liệt, sau sự tan vỡ của nhà
nước Hùng Vương năm 42 khi cuộc kháng chiến vệ quốc do Hai Bà Trưng lãnh
đạo thất bại. Quân thù, dưới bàn tay chỉ huy của Mã Viện (17 tdl-44
sdl), đã tiến hành một chuỗi các biện pháp với ý đồ không những xóa sạch
mọi tàn dư của một nhà nước Hùng Vương độc lập, mà còn hủy diệt một
cách có hệ thống những thành tựu to lớn của nền văn minh và văn hóa Lạc
Việt, nhằm mục đích đồng hóa và sau hết kết thúc sự tồn tại của nhóm
người Việt cuối cùng ở phía nam như một dân tộc.
Chúng
cho vây bắt toàn bộ những người lãnh đạo Việt Nam, mà chúng gọi là "chủ
soái", đưa đi đày đọa ở Linh Lăng. Chúng thâu gom hết các trống đồng,
một biểu tượng quyền uy của tầng lớp quý tộc Việt Nam, đem về Trung Quốc
để nấu chảy lấy đồng đúc "ngựa pháp" dáng chừng để kỷ niệm chiến thắng.
Chúng nghiên cứu luật lệ Việt Nam, phát hiện Việt luật có "hơn mười
điều" trái với Hán luật và tuyên bố hủy bỏ chúng.
Song
song với việc tiến hành hủy diệt có hệ thống sự tồn tại của dân tộc
Việt Nam như một chủ thể độc lập có nền văn minh văn hóa riêng, có một
nhà nước và cơ chế pháp luật riêng, chúng còn đưa vào Việt Nam nền văn
minh văn hóa Hán, thiết lập một bộ máy cai trị và luật pháp thep quan
niệm người Hán, với mục tiêu, nếu không xóa bỏ, thì nô dịch lâu dài dân
tộc ta. Thế là một cuộc đọ sức bi hùng, khốc liệt, không cân xứng đã nổ
ra. Nó nổ ra không chỉ trên mặt trận chính trị và quân sự nhằm dành lại
chủ quyền đất nước, mà còn trên mặt trận văn hóa học thuật, để khẳng
định bản lĩnh và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, làm tiền đề cho
sự sống lâu dài và vĩnh viễn của một nhà nước Việt Nam độc lập.
Bắt
đầu với cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm năm 101, hơn ba mươi năm, sau anh
hùng Khu Liên đã xây dựng thành công một vùng Việt Nam tự do làm hậu
phương vững chắc cho các phong trào vận động độc lập ở Cửu Chân của Châu
Đạt năm 158, và ở Giao Chỉ của Lương Long năm 177. Để đến khoảng năm
180 một chính quyền độc lập hình thành dưới sự lãnh đạo của Sĩ Nhiếp.
Tới những năm 187 Chu Phù tuyên bố "bỏ điển huấn của tiền thánh, vứt
pháp luật của Hán gia" để đi theo Phật giáo và kết hợp với Sĩ Nhiếp củng
cố chính quyền độc lập do anh hùng Khu Liên mở đầu. Chính quyền này về
danh nghĩa tuy chưa xưng đế xưng vương gì, nhưng về thực chất là một
chính quyền Việt Nam độc lập có tính Phật giáo, bởi vì hệ thống điển
huấn Trung Quốc và cơ chế pháp luật nhà Hán đã bị vứt bỏ. Thế vào chỗ đó
tất nhiên có hệ thống điển huấn và cơ chế pháp luật của Việt Nam.
Vậy
là cuộc đọ sức không cân xứng trên đến đây đã tới hồi ngã ngũ. Chiến
thắng đã thuộc về dân tộc ta. Một nhà nước Việt Nam hồi sinh. Đồng thời
với sự hồi sinh của một nhà nước Việt Nam độc lập trên mặt trận chính
trị quân sự, là sự hồi sinh mạnh mẽ của hệ thống điển huấn pháp luật
Việt Nam trên mặt trận văn hóa học thuật. Chính trong cao trào hồi sinh
này mà đã sản sinh ra những khuôn mặt anh tài như Mâu Tử với tác phẩm Lý
hoặc luận nổi tiếng viết năm 198, mạnh mẽ khẳng định bản lĩnh văn hóa
Việt Nam và nghiêm khắc phê phán tư tưởng Đại Hán nô dịch.
Sinh
ra trong bầu không khí tươi sáng của một nền độc lập mới hồi sinh, lại
thừa hưởng được một học phong Việt Nam và Phật giáo dưới sự dìu dắt tận
tình của những vị thầy như Mâu Tử, Khương Tăng Hội đã tiến hành công tác
học thuật và truyền giáo của mình với những dấu ấn Việt Nam cực kỳ rõ
nét. Ông là người đầu tiên đã sử dụng các kinh sách Phật giáo tiếng Việt
để dịch sang tiếng Trung Quốc, mà hiện nay ta còn được hai bộ. Đó là
Lục độ tập kinh và Cựu tạp thí dụ kinh. Chính trong các bộ kinh này, mà
một phần nào truyền thống văn hóa điển huấn của dân tộc ta đã được bảo
lưu.
Truyền
thuyết trăm trứng của lịch sử khởi nguyên dân tộc ta[61][61]. Khương
Tăng Hội đã giữ lại khi dịch Lục độ tập kinh tiếng Việt qua tiếng Trung
Quốc. Những lời thầy giảng cho Hội đã được Hội ghi lại trong Cựu tạp thí
dụ kinh. Trong các bản dịch này một số cấu trúc tiếng Việt cổ đã xuất
hiện sẽ giúp ta nghiên cứu tiếng nói của cha ông mình cách đây gần 2.000
năm. Không những thế, Lục độ tập kinh và Cựu tạp thí dụ kinh chứa đựng
một hệ thống điển huấn bao gồm những chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như
nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước v.v... làm cột sống cho chủ nghĩa nhân
đạo và truyền thống văn hóa Việt Nam.
Ngoài
ra, với An ban thủ ý kinh chú giải hiện còn, nó cho ta biết khá nhiều
mặt. Thứ nhất, đây là một trong những tác phẩm viết trên đất nước ta
được biết sớm nhất sau Lý hoặc luận đang tồn tại. Thứ hai, nó giúp ta
hiểu cách lý giải kinh điển Phật giáo của người nước ta vào những thế kỷ
đầu của Phật giáo tại Việt Nam. Thứ ba, nó làm chứng cho một nền giáo
dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức đã đào tạo được
những người con xứng đáng với dân tộc và nhân loại. Thứ tư, nó cung cấp
những tư liệu cần thiết để nghiên cứu cụ thể tư tưởng, quan điểm và văn
phong của chính Khương Tăng Hội.
Khương
Tăng Hội có một vị trí xung yếu như vậy trong lịch sử dân tộc ta, chứ
không phải chỉ trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc. Thế mà,
cho đến nay chưa có một nỗ lực nghiên cứu nghiêm chỉnh nào về cuộc đời
và sự nghiệp của ông. Cũng chưa có một nỗ lực tập hợp đầy đủ nào về
những tác phẩm và dịch phẩm của ông hiện còn, nhằm cung cấp tài liệu cho
việc tìm hiểu nhiều mặt về Khương Tăng Hội, thông qua đó, tìm hiểu tình
hình học thuật và văn hóa của dân tộc ta và Phật giáo thời ông. Chính
vì chưa có những nỗ lực như thế, nên những phát biểu sai lầm này khác về
Khương Tăng Hội vẫn tiếp tục.
Kể
từ ngày Trần Văn Giáp dẫn lời Thông Biện trong Thiền uyển tập anh để
giới thiệu một cách sai lầm Khương Tăng Hội như một trong những nhà
truyền bá Phật giáo đầu tiên ở nước ta[62][62], những người viết về lịch
sử Phật giáo Việt Nam tiếp theo đã lặp lại sai lầm ấy. Người thì nói
Hội là một trong bốn nhà truyền bá đạo Phật đầu tiên của Việt
Nam[63][63]. Kẻ thì bảo ông là “sáng tổ của thiền học Việt Nam”[64][64].
Bởi có quá nhiều sai lầm về sử kiện, dẫn đến những luận giải thiếu
chính xác. Thậm chí có tác phẩm của Hội hiện đang còn như An ban thủ ý
kinh chú giải thì ghi “nay không còn” (***). Rồi những gì do Khương Tăng
Hội viết, mà người ta đọc được, lại bị chấm câu sai, dẫn đến những giải
thích lầm lạc.
Chẳng
hạn, câu đầu của bài tựa Pháp kính kinh tự trong Xuất Tam tạng ký tập 6
ĐTK 2145 tờ 46b29 và Pháp kính kinh ĐTK 322 tờ 15a3 đọc: “Phú âm giả,
chúng pháp chi nguyện, tạng bỉ chi căn”. Bản in Đại chính ngày nay có
chấm câu rõ ràng và đúng đắn như thế, vậy mà có người hoặc thiếu cẩn
thận hoặc hiếu sự đã chấm câu thành “Phù tâm giả, chúng pháp chi nguyên
tạng”, rồi dịch thành “Tâm là kho tàng căn bản của các pháp” (!!!) và
giải thích Khương Tăng Hội “chịu ảnh hưởng tư tưởng duy thức” (***).Ai
cũng biết "tạng bỉ" là một từ được rút từ bài thơ Ức của thiên Đại nhã
Kinh thi mà Khương Tăng Hội rất quen thuộc trong Mao thi chính nghĩa
18/1 tờ 10a11-12 qua những câu:
Ô hô tiểu tử
Vị tri tạng bỉ
Phỉ thủ huề chi
Ngôn thị chi sự
Phỉ diện mệnh chi
Ngôn đề kỳ nhỉ
Và ngay từ thời Trịnh Huyền (127-200) người ta đã biết nó có nghĩa là “thiện ác”.
Vì
vậy, cần có một nỗ lực tập hợp hết tất cả những tư liệu liên quan đến
cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội cùng các tác phẩm, dịch phẩm
hiện còn của ông nhằm cung cấp dữ kiện không những cho những người
nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam, mà còn cho những người công tác
trong lĩnh vực khoa học nhân văn và xã hội nói chung từ sử học, văn học,
cho đến ngữ học, dân tộc học v.v... Khương Tăng Hội toàn tập đang nằm
trong tay các bạn là một thể hiện cụ thể nỗ lực ấy. Nó gồm 2 tập. Tập I
bao gồm một nghiên cứu của chúng tôi về Khương Tăng Hội và Lục độ tập
kinh cùng nguyên bản và bản dịch tập kinh đó. Tập II chứa đựng những
nghiên cứu của chúng tôi về Cựu tạp thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú
giải và Pháp kính kinh giải tự cùng nguyên bản và bản dịch chúng. Chúng
tôi cũng cho in kèm theo Tạp thí dụ kinh cùng một nghiên cứu ngắn gọn về
nó để làm tài liệu nghiên cứu bổ sung.