II. NGHIÊN CỨU VỀ LỤC ĐỘ TẬP KINH
Nếu
lịch sử văn học và văn hóa thành văn thời Hùng Vương còn để lại cho đến
nay qua một bài Việt ca duy nhất đang bàn cãi[85][85] thì lịch sử văn
học và văn hóa Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng và trước Lý Nam Đế có thể
được nghiên cứu qua một loạt những tác gia lớn như Mâu Tử, Khương Tăng
Hội, Đạo Hinh, Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu, trong đó nổi bật nhất là
Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh.
Lục
độ tập kinh là văn bản đầu tiên và xưa nhất ghi lại tình tiết 100 trứng
của truyền thuyết khởi nguyên dân tộc ta[86][86]. Lục độ tập kinh cũng
là tác phẩm đầu tiên và xưa nhất ngoài bài Việt ca, còn bảo lưu được một
số trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt, và
cung cấp một lượng đáng kể các tá âm cho việc nghiên cứu tiếng Việt cổ,
và phục chế lại diện mạo tiếng nói ấy cách đây 2.000 năm. Lục độ tập
kinh còn là nơi tập đại thành những chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như
nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước, mất nước v.v… làm cột sống cho chủ
nghĩa nhân đạo Việt Nam và truyền thống văn hóa Việt Nam. Lục độ tập
kinh còn là văn bản thiết định những chủ đề tư tưởng lớn của Phật giáo
Việt Nam, làm tiền đề cho những phát triển tư duy Phật giáo Việt Nam, mà
thành quả đầu tiên phát hiện cho đến nay là sáu lá thư trao đổi giữa Lý
Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh vào khoảng những năm 450[87][87].
Lục
độ tập kinh vì thế là một tác phẩm văn học lớn không chỉ của lịch sử
Phật giáo Việt Nam, mà còn là của lịch sử văn học tư tưởng và văn hóa
dân tộc. Có thể nói cùng với Mâu Tử Lý hoặc luận và Cựu tạp thí dụ kinh,
nó kiến tạo nên giai đoạn văn học đầu tiên của lịch sử văn học 2.000
năm Việt Nam, tập hợp những thành tựu và thắng lợi đầu tiên trong cuộc
đọ sức sống còn đầy cam go và khốc liệt với kẻ thù, làm nền tảng cho
những cuộc đấu tranh sắp tới, mà đỉnh cao huy hoàng là sự ra đời của nhà
nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế vào năm 544, khẳng định sự độc lập không
chỉ về mặt chính trị kinh tế, mà còn về mặt tư tưởng văn hóa. Nó đã trở
thành một bức trường thành, mà chủ nghĩa xâm lược văn hóa Trung Quốc
không vượt qua được. Lục độ tập kinh do đó có một vị thế xung yếu không
chỉ của lịch sử Phật giáo Việt Nam, mà còn của lịch sử văn học, tư tưởng
và văn hóa Việt Nam.
Xung
yếu như vậy, song cho đến lúc này vẫn chưa có một bản dịch tiếng Việt
hoàn chỉnh và công bố rộng rãi làm tư liệu nghiên cứu không những cho
những người quan tâm đến lịch sử và giáo lý Phật giáo Việt Nam, mà còn
cho những người làm công tác nghiên cứu lịch sử chính trị, tư tưởng, văn
hóa và ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt hơn nữa là Lục độ tập kinh đã được
dịch ra tiếng Nhật, tiếng Pháp từ lâu[88][88]. Và những mẫu chuyện do nó
cung cấp đã lưu hành rộng rãi trong sinh hoạt văn học và tôn giáo nước
ta, nếu không phải là từ thời Mâu Tử, thì cũng từ thời Chân Nguyên trở
đi. Do đó có một yêu cầu bức thiết công bố bản dịch trọn vẹn và hoàn
chỉnh Lục độ tập kinh nhằm góp phần vào việc nghiên cứu bản sắc tư tưởng
văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam.
Trước
khi công bố bản dịch, chúng tôi đề nghị tiến hành nghiên cứu tình trạng
văn bản của Lục độ tập kinh cùng nội dung tư tưởng và những liên quan
của nó với văn bản học Việt Nam. Từ đó, nó giúp ta tìm hiểu lại những
sinh hoạt tư tưởng học thuật của không những Phật giáo, mà còn của dân
tộc thời Lục độ tập kinh là một bản kinh tiếng Việt. Đặc biệt sự có mặt
của một loạt các cấu trúc tiếng Việt cổ, của những nhận định về các xu
thế tư tưởng ở Việt Nam thời nó, của các cải biên, thậm chí hư cấu nên
các truyện mới. Bản nghiên cứu này chia làm 8 phần. Phần I, ghi lại các
mẫu tin kinh lục về quá trình truyền bản của Lục độ tập kinh cùng số
quyển, niên đại và tên gọi. Phần II đề nghị xem xét việc Khương Tăng Hội
đã dùng bản đáy nào cho công tác dịch bản Lục độ tập kinh tiếng Trung
Quốc hiện nay. Từ đấy phát hiện ra một số cấu trúc ngữ học không bình
thường, đã trở thành đề tài bàn cãi của phần III. Phần IV thử tìm hiểu
bản đáy Lục độ tập kinh tiếng Việt có khả năng gồm những gì. Phần V
nghiên cứu những cải biên và hư cấu có thể của Lục độ tập kinh. Phần VI
và VII mô tả một số tư tưởng và liên hệ của bản kinh với tư tưởng và văn
học dân tộc ta. Phần cuối là mấy tổng kết sơ bộ.
1. 1. VẤN ĐỀ TRUYỀN BẢN TÊN GỌI VÀ NIÊN ĐẠI
Về
Lục độ tập kinh, bản kinh lục xưa nhất hiện còn là Xuất Tam tạng ký tập 2
ĐTK 2145 tờ 7a27-b1 đã ghi thế này: “Lục độ tập kinh 9 quyển, hoặc gọi
Lục độ vô cực kinh, hoặc gọi Độ vô cực tập, hoặc gọi Tạp vô cực kinh
(...) Thời Ngụy Minh đế (228-240) sa môn Thiên Trúc Khương Tăng Hội dịch
ra vào đời Ngô chúa Tôn Quyền (222-252) và Tôn Lượng
(253-258)[89][89]”. Cao tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 326a21 xác nhận Khương
Tăng Hội có dịch Lục độ tập ở chùa Kiến Sơ. Pháp Kinh viết Chúng kinh
mục lục 6 ĐTK 2146 tờ 144a11 vào năm Khai Hoàng thứ 14 (585) dưới mục
Tây phương chư thánh hiền sở soạn tập đã ghi: “Lục độ tập 8 quyển,
Khương Tăng Hội đời Ngô dịch”. Năm Khai Hoàng thứ 17 (597), Phí Trường
Phòng viết Lịch đại tam bảo ký 5 ĐTK 2034 tờ 36b24 đã nói: “Năm Thái
Nguyên thứ nhất (251) ở Dương đô chùa Kiến Sơ dịch các kinh Lục độ tập
v.v... 4 bộ 16 quyển”.
Hơn
mười năm sau vào năm Nhân Thọ thứ 2 (603) Ngạn Tôn soạn Chúng kinh mục
lục 2 ĐTK 2147 tờ 161b7 lại xếp “Lục độ tập 8 quyển, Khương Tăng Hội đời
Ngô dịch” vào mục Hiền thánh tập truyền. Tỉnh Thái cũng ghi như vậy
trong Chúng kinh mục lục 2 ĐTK 2148 tờ 195a28 viết năm Lân Đức thứ nhất
(664). Đạo Tuyên soạn Đại đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230a6-c23
chép: “Lục độ tập kinh 9 quyển, một chỗ gọi Lục độ vô cực kinh, một gọi
Độ vô cực kinh, một gọi Tạp vô cực kinh. Xem Trúc Đạo tổ lục và Tam tạng
ký (...) Đời Tề vương nhà Ngụy trong năm Chính Thỉ (241-249) sa môn
Thiên Trúc Khương Tăng Hội (...) ở chùa Kiến Sơ dịch ra...”
Minh
Thuyên viết Đại châu san định Chúng kinh mục lục lược ghi ý kiến của
Đạo Tuyên, nói: “Lục độ tập kinh 1 bộ 8 quyển 145 tờ, một tên Lục độ vô
cực kinh, một tên Độ vô cực kinh, một tên Tạp vô cực kinh. Trên đây do
Khương Tăng Hội đời Ngô dịch ở Vũ Xương. Rút từ Nội điển lục”. Tỉnh Mại
soạn Cổ kim dịch kinh đồ ký 1 ĐTK 2152 tờ 352a26-b22 ghi: “Sa môn Khương
Tăng Hội là con trưởng của đại thừa tướng nước Khương Cư (...) vào năm
Thái Nguyên thứ 2 nhà Ngô nhằm năm tân mùi ở Dương đô dịch Lục độ tập
kinh 9 quyển, Ngô Phẩm kinh 5 quyển (...)”
Trí
Thăng trong Khai nguyên thích giáo lục 2 ĐTK 2154 tờ 490b4-491b23 nhận
ra năm Thái Nguyên Tân Mùi là thứ nhất, chứ không phải thứ hai, đã viết:
“Lục độ tập kinh 8 quyển, hoặc 9 quyển, hoặc gọi Lục độ vô cực kinh,
hoặc gọi Độ vô cực tập, hoặc gọi Tạp vô cực kinh. Xem Ngô lục của Trúc
Đạo Tổ và Tăng Hựu lục (...) sa môn Khương Tăng Hội (...) vào năm Thái
Nguyên thứ nhất tân mùi (251) của Tôn Quyền ở chùa Kiến Sơ do mình lập,
dịch các kinh Lục độ...” Viên Chiếu sao lại toàn bộ ý kiến của Trí Thăng
trong Trinh nguyên tân định thích giáo mục lục 3 ĐTK 2157 tờ
787c4-788c21.
Qua
các kinh lục, ta thấy Lục độ tập kinh có 8 hoặc 9 quyển và được gọi
bằng nhiều tên như Lục độ tập, Lục độ vô cực kinh, Độ vô cực kinh hay
Tạp vô cực kinh.
Truyền
bản bây giờ có 8 quyển và có tên Lục độ tập kinh. Chúng ta chấp nhận
tên gọi này. Về niên đại, tất cả các kinh lục đều nhất trí nói Khương
Tăng Hội dịch Lục độ tập kinh ở chùa Kiến Sơ tại Trung Quốc. Điều này có
nghĩa Hội phải dịch nó sau năm 247. Tăng Hựu, Huệ Hạo, Pháp Kinh, Ngạn
Tôn, Tỉnh Thái và Đạo Tuyên không nói rõ Hội đích xác dịch vào năm nào,
chỉ biết trong koảng 222-258, hoặc ngắn hơn trong khoảng 241-249.
Nhưng
đến Phí Trường Phòng, Tỉnh Mại, Trí Thăng và Viên Chiếu, họ đồng ý đặt
thời điểm dịch Lục độ tập kinh vào năm Thái Nguyên Tân Mùi của Tôn Quyền
nhà Đông Ngô, tức năm 251. Trong tình hình tư liệu hiện nay, nếu chỉ
giới hạn niên đại 251 này cho Lục độ tập kinh chúng ta tất không có một
phản bác nào. Tuy nhiên, vì Tỉnh Mại và Trí Thăng đều có ý muốn nói các
tác dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội cũng được thực hiện vào thời điểm
đó hay sau nó không lâu, nên vấn đề nảy sinh. Trong năm tác phẩm dịch
hiện còn của Khương Tăng Hội, đó là Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ
kinh, An ban thủ ý kinh chú giải, An ban thủ ý kinh tự và Pháp kính
kinh tự thì 4 trong số chúng đã có những dấu hiệu nội hay ngoại tại cho
thấy chúng được hoàn toàn thành hay chuẩn bị tư liệu trước năm 247 khá
lâu, trừ Lục độ tập kinh.
Cụ
thể là An ban thủ ý kinh tự và An ban thủ ý kinh chú giải. Nội dung An
ban thủ ý kinh tự trong Xuất Tam tạng ký tập 6 ĐTK 2154 tờ 43b18-c1 nói
An Thế Cao đến “ở kinh sư”, nói Khương Tăng Hội “mới biết vác củi, cha
mẹ chết mất, ba thầy viên tịch, ngữa trông mây trời, buồn không biết
hỏi ai, nghẹn lời xem quanh, lệ rơi lã chã. Nhưng phước xưa chưa hết,
may gặp Hàn Lâm từ Nam Dương, Bì Nghiệp từ Dĩnh Xuyên, Trần Tuệ từ Cối
Kê (...) Tôi theo xin hỏi, thước giống góc khít, nghĩa không sai khác.
Trần Tuệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước, chẳng phải lời thầy thì không
truyền, không dám tự do...”.
Căn
cứ An ban chú tự của Đạo An trong Xuất Tam tạng ký tập 6 tờ 43c22-23,
ta biết: “Đầu đời Ngụy, Khương Hội viết chú nghĩa. Nghĩa hoặc có chỗ
chìm chưa rõ, An trộm không tự lượng mình, dám nhân người trước, giải
thích ở dưới”. Vậy, theo Đạo An, Khương Tăng Hội đã viết An ban thủ ý
kinh chú giải vào “đầu đời Ngụy” (Ngụy sơ). Nhà Ngụy do con Tào Tháo là
Tào Phi thành lập năm 221 và chấm dứt năm Hàm Hy thứ nhất (265) của
Nguyên đế Tào Hoán, kéo dài được 45 năm. Cho nên nếu Hội viết An ban thủ
ý kinh chú giải vào đầu đời Ngụy thì ông phải viết nó vào khoảng những
năm 221-230, tức những năm đầu của nhà Ngụy, chứ không thể sau những năm
247 hay 251 trở đi được.
Chính
vì viết giữa khoảng 221-230, Khương Tăng Hội mới nói An Thế Cao đến “ở
kinh sư”, nhằm chỉ Lạc Dương, kinh đô nhà Hán cũng như nhà Ngụy. Và
chính trong khoảng đó, lúc Hội trên dưới 20 tuổi, tang cha mẹ và thầy
mới để lại những ấn tượng đau buồn sâu sắc thể hiện trong đoạn văn dẫn
trên của lời tựa. Việc viết An ban thủ ý kinh chú giải cùng lời tựa do
thế chắc chắn không thể xảy ra sau năm 247 hay 251, như các nhà kinh lục
đã có.
Cựu
tạp thí dụ kinh cũng vậy. Ta ngày nay tuy không thể nào xác định chắc
chắn Khương Tăng Hội dịch nó vào thời điểm nào, nhưng có thể nghĩ Hội
phải chuẩn bị khá sớm cho công trình phiên dịch ấy. Lý do nằm ở chỗ 14
đoạn văn bình luận sau 13 truyện của bản kinh đó đã được Hội bảo là do
“thầy nói” (sư viết). “Thầy” đây không chỉ một người nào khác hơn là vị
thầy của Hội, như sẽ thấy dưới đây, khi nghiên cứu về Cựu tạp thí dụ
kinh. Một khi các đoạn bình luận ấy là của vị thầy của Hội, điều hiển
nhiên là Hội đã ghi chép chúng lại, trong khi thầy giảng Cựu tạp thí dụ
kinh cho Hội nghe. Song có lẽ mới giảng được 13 truyện thì thầy đau bịnh
và đột ngột từ trần (điêu táng). Cho nên, ngày nay chỉ có 14 đoạn văn
bình luận vừa nói.
Từ
đó, ta có thể rút ra kết luận là Cựu tạp thí dụ kinh là một văn bản
được ghi chép lại khá sớm trong toàn bộ sự nghiệp phiên dịch trước tác
của Khương Tăng Hội. Quá trình hình thành văn bản đó có thể giải thích
như sau. Ông đã chép lại một nguyên bản tiếng Việt. Rồi thầy ông, từng
buổi học, giảng cho ông một truyện. Mỗi buổi giảng xong một truyện, vị
thầy đã tóm tắt ý chính và Khương Tăng Hội ghi lại bên lề. Chính nhờ lối
ghi chép cẩn thận và trân trọng này, ta mới không thấy có rối loạn, dù
các truyện có bình luận không được xếp đặt theo một thứ tự nhất định, từ
truyện 4, rồi 6, 7 tới 9, 13, 14, 17, 18, 19, 22, 26, 32 và 40.
Qua
phân tích 3 trường hợp hiện biết trên, tức An ban thủ ý kinh tự, An ban
thủ ý kinh chú giải và Cựu tạp thí dụ kinh, ta nhận ra một sự thực là
quan điểm của các nhà kinh lục về niên đại của một số tác dịch phẩm của
Khương Tăng Hội là không thể chấp nhận được, đặc biệt khi họ bảo chúng
được thực hiện “tại chùa Kiến Sơ do Hội sáng lập” ở Trung Quốc. Tối
thiểu 4 trong 5 tác dịch phẩm hiện còn, ta biết chắc chắn đã viết hay
chuẩn bị tư liệu tại nước ta, như đã thấy. Vì thế, khi Phí Trường Phòng,
Tỉnh Mại và Trí Thăng bảo Lục độ tập kinh được dịch “vào năm Thái
Nguyên thứ nhất tân mùi (251) của Tôn Quyền ở chùa Kiến Sơ”, ta không
thể hoàn toàn tin được