2. VẤN ĐỀ BẢN ĐÁY
Điểm
lôi cuốn nằm ở chỗ nếu như ta chấp nhận niên đại 251 này, vấn đề chưa
phải đã chấm dứt. Ai từng đọc Lục độ tập kinh cũng đều thấy văn từ và
nội dung nó chứa đựng một số nét làm cho người ta nghi ngờ nó có phải là
một dịch phẩm từ một nguyên bản tiếng Phạn không. Thực tế, ngay vào thế
kỷ thứ VI sdl, Pháp Kinh khi viết Chúng kinh mục lục đã xếp nó vào
loại tác phẩm “do các thánh hiền phương Tây soạn tập”. Quan điểm này sau
đó đã được Ngạn Tôn và Tỉnh Thái tán đồng, khi họ viết các bản kinh lục
của mình và xếp Lục độ tập kinh vào loại “hiền thánh tập truyền do hiền
thánh soạn”, mà không nói đến “phương Tây” nữa.
Thế
đã rõ. Càng đọc kỹ Lục độ tập kinh, người ta càng thấy nó bộc lộ nhiều
dấu vết cho phép giả thiết nếu không nói là khẳng định, nó “do thánh
hiền soạn ra”. Và “thánh hiền” đây không còn nhất thiết là “phương Tây”
nữa. Bởi vì nó chứa đựng những dữ kiện, mà dù “thánh hiền phương Tây”
cũng không thể thốt ra được. Chẳng hạn, truyện 49 của Lục độ tập kinh 5
ĐTK 152 tờ 28a22-24 có câu phát biểu của anh thợ săn nói rằng: “(Tôi) ở
đời lâu năm, thấy nho sỹ tích đức làm lành, há có bằng đệ tử Phật quên
mình cứu mọi người, ở ẩn mà không dương danh ư?” Rõ ràng “thánh hiền
phương Tây” không thể có một phát biểu như thế “về nho sĩ” được. Bởi
“phương Tây” thời ấy không có “nho sĩ”.
Phát
biểu đó do vậy phải được thốt ra từ miệng một “thánh hiền phương Đông”,
và trong trường hợp này lại là một “thánh hiền” của nước ta, đến năm
251 Khương Tăng Hội mới dịch ra tiếng Trung Quốc bản Lục độ tập kinh
ngày nay. Bản kinh đây từ đấy chứa đựng những dữ kiện không thể xuất
phát từ nguyên bản Phạn văn cho Khương Tăng Hội dịch được. Khương Tăng
Hội phải dùng một nguyên bản đã có cải biên các truyện của truyền thống
Phạn văn hay Pali, để có thể cho phép các phát biểu loại dẫn trên xuất
hiện. Thực tế, không phải chỉ có truyện 49 mới có hiện tượng phát biểu
ấy. Một số truyện khác của Lục độ tập kinh cũng được “thánh hiền phương
Đông” canh cải và biên tập lại.
Chẳng
hạn, truyện 86, Nho đồng thọ quyết. Đây là một truyện tiền thân mà cốt
lõi ta hiện thấy trong Phạn bản Lalitavistara và Hán bản Phổ diệu kinh
do Chi Khiêm dịch đồng thời với Khương Tăng Hội. Thế nhưng, nếu so sánh
hai bản Phạn và Hán này với truyện 86, chúng ta một lần nữa thấy truyện
nhiều lần nhắc đến “chúng nho”, “quốc nho”, “chư nho” và gắn cho họ
những quan điểm kỳ thị, bảo thủ, lạc hậu đáng phê phán, mà hai bản kia
không có. Rõ ràng, đây là một bộc lộ quan điểm của người biên tập Lục độ
tập kinh đối với nho giáo, một lối phê phán gián tiếp học thuyết ấy,
một học thuyết không phải không có những nhược điểm cơ bản. Nó do vậy
chỉ thể hiện quan điểm của người biên tập, chứ không thể có trong nguyên
bản chữ Phạn được.
Người
biên tập từ đó không thể là một “thánh hiền phương Tây”, vì hệ tư tưởng
nho giáo không tồn tại ở “phương Tây”. Ngược lại, ông phải là một thánh
hiền “phương Đông”, mà cụ thể là nước ta, vì hệ tư tưởng ấy lúc đó
không chỉ tồn tại, mà còn ra sức tấn công vào thành trì văn hóa dân tộc
ta. Việc phê phán nó do thế trở thành một yêu cầu tất yếu, nếu không nói
là quan tâm hàng đầu của bất cứ một công trình lý luận nào của dân tộc,
trong đó có cả Phật giáo dân tộc. Lục độ tập kinh vì không phải dịch
trực tiếp từ các nguyên bản Phạn văn, nên phải ít nhiều đáp ứng yêu cầu
quan tâm vừa nói trong khi biên tập. Thế người biên tập phải chăng là
Khương Tăng Hội.
Sống
gần như sát thời với Hội, Đạo An viết Thập pháp cú nghĩa kinh tự, mà
Tăng Hựu chép lại trong Xuất Tam tạng ký tập 10 ĐTK 2145 tờ 70a11-13, đã
nói: “Xưa Nghiêm Điều soạn Thập huệ chương cú, Khương Tăng Hội tập Lục
độ yếu mục, mỗi tìm dấu chúng, vui vì có hiểu, nhưng vẫn có phiến,
truyền lâu chưa chép. Nay sao sắp xếp, đặt tên Thập pháp cú nghĩa”. Vậy,
ngoài dịch Lục độ tập kinh, ta biết Khương Tăng Hội có (biên) tập Lục
độ yếu mục, Lục độ yếu mục có nội dung gì, ta ngày nay không thể biết
được, bởi vì nó thất lạc tương đối sớm, đến nổi các kinh lục xưa nhất và
sau đó không một bộ nào đã ghi nó vào danh sách các tác phẩm dịch phẩm
của Khương Tăng Hội.
Có
thể nó gồm những đoạn giới thiệu về độ hiện thấy trong Lục độ tập kinh?
Ta không thể khẳng định được. Điều chắc chắn là Khương Tăng Hội đã có
một quan tâm đặc biệt về tư tưởng lục độ, nên đã viết một tập riêng về
các “yếu mục” của tư tưởng đó. Thực tế, nếu so sánh những gì hiện biết
về quan điểm của Hội đối với Nho giáo với những phát biểu dẫn trên của
Lục độ tập kinh, ta thấy có một sai khác đáng chú ý. Truyện của Hội
trong Xuất Tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a17 và trong Cao tăng
truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13, mà sau này các bản kinh lục đều chép
lại với một vài thêm bớt không đáng kể, đều ghi quan điểm của Hội là
“cách ngôn của sách Nho tức cũng là minh huấn của Phật giáo”, “tuy lời
Châu Khổng lược bày việc gần rõ, còn đến Phật dạy thì đủ tới u viễn”.
Quan
điểm này tất không thể nào phù hợp hoàn toàn với quan điểm phát biểu
trong truyện 49 và 86. Trong những truyện ấy, ngay cả cách ngôn nhà Nho
liên hệ với chuyện “rõ gần” (hiển cận), như vợ chồng, danh tiếng v.v...
cũng bị đả kích mạnh mẽ, không thương tiếc. Cho nên, về mặt tư tưởng có
một sai khác đáng kể giữa quan điểm của Lục độ tập kinh và bản thân
Khương Tăng Hội. Từ đó, dù Đạo An có nói tới việc Hội “biên tập” một tác
phẩm nhan đề Lục độ yếu mục, ta cũng không thể đơn giản đồng nhất Lục
độ yếu mục này với Lục độ tập kinh hay một bộ phận của nó, và coi Lục độ
tập kinh là do Hội biên tập.
Không
những về mặt quan điểm mà về mặt văn từ, Lục độ tập kinh hiện nay chứa
đựng một số lượng lớn các câu chữ mang sắc thái văn hóa Viễn Đông, tức
văn hóa Trung Quốc và Việt Nam. Cụ thể là các từ nhân nghĩa (truyện 48),
nhân đạo (41, 84), bất nhân (11, 43), nhân hiếu (45), nhân ái (57),
nhân từ (91), thành tín (91), các câu “quân nhân, thần trung, phụ nghĩa,
tử hiếu, phu tín, phụ trinh”, (70, 67), “gia hữu hiểu tử” (82), “bất
nhân nghịch đạo” (11) v.v... Các từ và câu này chiếm một tỉ lệ khá cao
trong toàn bộ bản văn Lục độ tập kinh, tạo nên ấn tượng “văn tsừ điển
nhã”, như Thang Dụng Đồng đã nhận định[90][90] và đã dẫn họ Thang đến
việc coi Lục độ tập kinh không phải do Khương Tăng Hội dịch, mà do Hội
viết.
Sự
thực, những phân tích tư tưởng trên cho thấy không thể kết luận Khương
Tăng Hội đã biên tập Lục độ tập kinh. Ấn tượng “văn từ điển nhã” ấy có
được là do khi dịch Lục độ tập kinh, Khương Tăng Hội đã sử dụng một bản
đáy tiếng Việt, thay vì tiếng Phạn. Chính nhờ căn cứ vào bản đáy Lục độ
tập kinh tiếng Việt này, Khương Tăng Hội mới có được một bản Lục độ tập
kinh tiếng Trung Quốc mang tính “văn từ điển nhã” vừa thấy. Nói cách
khác, Hội đã không dịch Lục độ tập kinh từ nguyên bản tiếng Phạn, vì
bản kinh này ngày nay chứa đựng những phê phán đối với Nho giáo, mà
nguyên bản chữ Phạn khó có thể có được. Và Hội cũng không thể viết bản
kinh đó, vì quan điểm phê phán Nho giáo của Lục độ tập kinh không phù
hợp với quan điểm của Hội đối với Châu Khổng.
Vì
thế, ấn tượng “văn từ điển nhã” bắt nguồn từ việc Khương Tăng Hội đã sử
dụng một bản đáy Lục độ tập kinh tiếng Việt với một hệ thống văn từ
Phật giáo đã được Việt hóa mang sắc thái văn hóa Viễn Đông, để dịch ra
bản Lục độ tập kinh tiếng Trung Quốc hiện nay. Sự kiện Khương Tăng Hội
sử dụng những bản đáy tiếng Việt cho công tác dịch thuật không phải
không xảy ra trong những trường hợp khác, mà cụ thể là Cựu tạp thí dụ
kinh.
Cựu
tạp thí dụ kinh với 14 đoạn bình luận cho 13 trong số 61 truyện của nó
và được Khương Tăng Hội ghi là “Thầy nói” (sư viết) rõ ràng chứng tỏ một
nguyên bản đã tồn tại để cho “thầy” Hội dùng mà giảng cho Hội và đưa ra
những đoạn bình luận ấy. Hội do thế dứt khoát không thể biên tập Cựu
tạp thí dụ kinh. Bản kinh này đã có trước thời Hội. Căn cứ vào những cấu
trúc tiếng Việt hiện có trong bản Cựu tạp thí dụ kinh tiếng Trung Quốc
ngày nay, ta có thể kết luận thêm ngôn ngữ của bản kinh đó là tiếng
Việt. Nói thẳng ra, Cựu tạp thí dụ kinh được Khương Tăng Hội dịch ra từ
một nguyên bản tiếng Việt của nó.
Chỉ
với một kết luận như vậy, ta mới lý giải sự kiện tại sao những lời bình
luận của thầy Hội lại xuất hiện trong Cựu tạp thí dụ kinh. Chúng xuất
hiện nhờ Hội đã chép toàn bộ bản kinh và ghi lại những lời bình luận của
thầy vào một truyện nào đó do thầy ông giảng. Một khi đã thế, ta không
có một đòi hỏi tất yếu nào buộc ta phải giả thiết, chứ khoan nói chi đến
việc khẳng định, Lục độ tập kinh là do Khương Tăng Hội viết, chứ không
phải do ông dịch, như các bản kinh lục đã ghi. Sự thật, nếu phân tích kỹ
hơn Lục độ tập kinh về mặt văn bản học, ta sẽ phát hiện ra một số cấu
trúc ngữ học bất bình thường trong các truyện của nó.
Chính
những cấu trúc ngữ học bất bình thường này sẽ đánh tan ấn tượng “văn từ
điển nhã” vừa nói, bởi vì với những cấu trúc bất bình thường ấy làm sao
văn từ của Lục độ tập kinh “điển nhã”. Không những thế, chúng còn giúp
củng cố kết luận trên về việc Khương Tăng Hội đã sử dụng một nguyên bản
Lục độ tập kinh tiếng Việt để dịch ra bản Lục độ tập kinh tiếng Trung
Quốc. Thế thì, những cấu trúc ngữ học bất bình thường trong Lục độ tập
kinh tiếng Trung Quốc ngày nay là gì?